Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIEU LUAN CHUYEN VIEN CHINH xử lý tình huống lựa chọn cán bộ huyện m tỉnh h y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.62 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc lựa chọn tình huống:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muôn việc thành công hoặc thất bại,
đều do cán bộ tốt hoặc kém" và "cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn mới làm ra
lãi, bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi.
Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn". Chính vì vậy, từ khi ra đời đến nay,
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ là nhiệm vụ có tầm chiến lược, quyết định đối
với toàn bộ sự nghiệp của mình, đặc biệt là khâu lựa chọn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ
vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Cán bộ có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với tổ chức và đường lối chính
trị. Đường lối chính trị đúng thì sản sinh ra cán bộ tốt. Mặt khác, đội ngũ cán bộ tốt sẽ
góp phần hoạch định, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị.
Đồng thời, cán bộ luôn gắn với tổ chức, là lực lượng nòng cốt của tổ chức. Có cán bộ
tốt mới xây dựng được tổ chức trong sạch, vững mạnh. Mặt khác, tổ chức trong sạch,
vững mạnh sẽ tạo điều kiện để cán bộ phát triển. Tổ chức mạnh đảm bảo cho từng
người mạnh. Từng người mạnh góp phần làm cho tổ chức mạnh.
Muốn có cán bộ tốt phải hết sức coi trọng và làm tốt công tác cán bộ. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng
lớn mạnh. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ đã góp phần cùng toàn dân làm cuộc cách mạng
tháng Tám thắng lợi, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, đánh thắng các cuộc
chiến tranh xâm lược, thống nhất đất nước và hiện nay cùng toàn dân tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh cần
phải "có đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng

1



đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh
mệnh của Đảng cầm quyền".
Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng của công tác cán bộ, trong những năm qua,
công tác lựa chọn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý thuộc diện
Ban thường vụ Tỉnh ủy quản lý luôn được quan tâm đúng mức, xác định lựa chọn cán
bộ và bổ nhiệm cán bộ là khâu then chốt, quyết định trong công tác cán bộ nói chung,
trong quản lý cán bộ nói riêng. Việc lựa chọn cán bộ đúng là điều kiện, là tiền đề để
bổ nhiệm đúng. Bổ nhiệm đúng cán bộ lãnh đạo quản lý trong bộ máy của Đảng và
chính quyền là góp phần trực tiếp, quyết định biến đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương thành hiện thực. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế tồn tại đó là công tác
quản lý, đánh giá, điều động, luân chuyển cán bộ của một số cơ quan chưa được
thường xuyên. Việc quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các phòng ban của tỉnh chưa
rộng và đông nên tính khả thi chưa cao.
Qua thực tiễn công tác và vận dụng tài liệu, kiến thức được học tập trong khoá
Bồi dưỡng quản lý nhà nước Chương trình Chuyên viên chính K1 năm 2018 của Học
viện Hành chính quốc gia, do các thầy giáo cô giáo của Học viện trực tiếp giảng dạy.
Tôi mạnh dạn xây dựng đề tài:"Xử lý tình huống lựa chọn cán bộ huyện M tỉnh
H.Y" để hoàn thành khóa học của mình.
2. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công tác cán bộ của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó đóng góp một số giải pháp, kiến nghị xử
lý các tình huống xảy ra trong công tác cán bộ hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật, đề tài
sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học kết hợp với một số phương pháp như
thống kê, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn, chuyên gia để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ đề tài đã xác định.
2



3. Kết cấu của đề tài:
Tiểu luận gồm 03 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.

3


II. NỘI DUNG

1. Nội dung tình huống.
Huyện M tỉnh H.Y là một huyện nghèo, thuần nông. Tháng 11-2017 đồng chí
Chánh văn phòng Huyện ủy huyện M về nghỉ hưu theo chế độ. Tuy nhiên, việc bổ
nhiệm một chánh văn phòng mới với trọng trách làm tham mưu cho huyện ủy gặp rất
nhiều khó khăn do ở đây rất hiếm những cán bộ có trình độ và năng lực phù hợp với
chức vụ này. Qua xem xét và rà soát các đối tượng trong cơ quan, chủ tịch UBND
huyện nhận thấy, trong số các cán bộ của huyện chỉ có đồng chí Vũ Văn M hiện đang
là phó chánh văn phòng có tuổi đời là 52 tuổi, trình độ chuyên môn là cử nhân đại học
Luật, đã qua lớp cao cấp lý luận chính trị và lớp bồi dưỡng kiến thức nhà nước có
thâm niên công tác lâu năm, có tinh thần trách nhiệm trong công việc và giữ cương vị
phó chánh văn phòng từ năm 2012 đến nay… là người có đủ những điều kiện cần
thiết đảm nhiệm chức vụ đang thiếu khuyết của huyện ủy. Vì vậy, chủ tịch huyện ủy
và các đồng chí trong ban lãnh đạo huyện đã quyết định làm các thủ tục để bổ nhiệm
đồng chí Vũ Văn M. Tuy nhiên, khi thực hiện khâu bỏ phiếu tín nhiệm thì số phiếu
dành cho đồng chí Vũ Văn M lại không cao bằng các đồng chí tham gia ứng cử khác
(không có đủ những điều kiện như đồng chí Vũ Văn M).
Vấn đề đặt ra:
1. Ban lãnh đạo huyện ủy sẽ nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
2. Lãnh đạo huyện ủy huyện M sẽ giải quyết tình huống này ra sao để huyện ủy
sớm ổn định công tác tổ chức cán bộ của huyện.
2. Phân tích tình huống

2.1. Những sự kiện nổi bật trong tình huống
- Huyện M tỉnh H.Y là huyện nghèo, thuận nông có đồng chí chánh văn phòng
huyện ủy nghỉ hưu theo chế độ (cán bộ có năng lực về phục vụ tại huyện không
nhiều).

4


- Để hoạt động của huyện diễn ra bình thường thì huyện ủy cần phải sớm bổ
nhiệm một đồng chí có năng lực để đảm nhiệm chức trách Chánh văn phòng của
huyện.
- Trong thực tế, do là một huyện nghèo, thuần nông nên huyện rất hiếm cán bộ
có trình độ và năng lực cao.
- Huyện ủy cũng sáng suốt tìm kiếm và có ý lựa chọn đồng chí phó chánh văn
phòng Vũ Văn M có đủ những điều kiện và năng lực để giữ chức vụ chánh văn phòng
(theo góc nhìn của các đồng chí lãnh đạo huyện ủy).
- Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo đã được thực hiện theo quy trình do huyện đặt
ra từ trước đến nay.
- Vấn đề đặt ra là đồng chí Vũ Văn M không được sự ủng hộ nhiệt tình của anh
em trong tổ chức nên số phiếu không đạt yêu cầu, làm cho huyện ủy rơi vào tình thế
khó khăn.
2.2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của tình huống
2.2.1. Cơ sở lý luận: Việc phân tích tình huống dựa trên những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam về công tác cán bộ.
2.2.2. Cơ sở pháp lý
Việc bổ nhiệm cán bộ giữ các chức vụ trong các tổ chức nhà nước cần phải căn
cứ vào các quy định của pháp luật, cụ thể là: mục 5 Điều 51 Luật Cán bộ công chức
năm 2008 về bổ nhiệm công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức cơ
quan hành chính nhà nước quy định:

- Khoản 1: Việc bổ nhiệm công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải căn cứ
vào: nhu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị; tiêu chuẩn, điều kiện của chức
vụ lãnh đạo, quản lý; thẩm quyền, trình tự, thủ tục bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản
lý được thực hiện theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.
- Khoản 2: Thời hạn bổ nhiệm công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý 05
năm; khi hết thời hạn, cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền phải xem xét bổ nhiệm
lại hoặc không bổ nhiệm lại.
2.2.3. Cơ sở tâm lý
5


- Để giải quyết tình huống trên một cách hiệu quả cần phải căn cứ vào lý thuyết
hình thành tập thể, các đặc trưng tâm lý của tập thể và tâm lý của từng đối tượng liên
quan, cụ thể là:
- Đặc trưng tâm lý của tập thể:
+ Tập thể là những người có cùng mục đích chung và được hình thành theo con
đường pháp quy (nhiều người làm việc cùng nhau trong mối quan hệ phức tạp);
- Tập thể được hình thành qua nhiều giai đoạn khác nhau, sự phát triển của từng
thành viên trong tập thể cũng đánh giá các bước trưởng thành của tập thể. Ý kiến
chung của tập thể nếu đồng nhất theo hướng tích cực với mục tiêu phát triển tổ chức
một cách đúng đắng thì chứng tỏ tập thể đã phát triển ở mức độ cao song nếu ý kiến
chung lại bắt nguồn từ một số phần tử xấu, vì lợi ích cá nhân hay bè cánh tạo ra thì sự
phát triển của tập thể đang ở mức độ thấp.
- Đặc trưng tâm lý của các đối tượng liên quan:
+ Đối tượng thứ nhất: cá nhân đồng chí Vũ Văn M: là người có năng lực lãnh
đạo, đang giữ chức vụ phó chánh văn phòng của huyện; có tinh thần trách nhiệm cao,
được ban lãnh đạo khẳng định là cán bộ tốt (có thể giữ vị trí chánh văn phòng thay
đồng chí đã nghỉ hưu). Tuy nhiên, thực tế đồng chí Vũ Văn M không được tín nhiệm
của đồng nghiệp (bỏ phiếu không đạt yêu cầu). Thực tế này có thể giải thích bởi hai lý
do làm cơ sở giải quyết tình huống, đó là:

Một là, có thể đồng chí Vũ Văn M chỉ quan tâm đến chuyên môn, ít quan tâm
đến các mối quan hệ khác hoặc tính cách của đồng chí này có gì đó không ổn.
Hai là, chất lượng các thành viên trong tập thể có vấn đề, tập thể chưa phát triển
tốt có hiện tượng gây bè kết cánh vì lợi ích của nhóm.
+ Đối tượng thứ hai: Ban lãnh đạo huyện ủy huyện M (về nhân thức, tinh thần,
thái độ và khả năng thực hiện công việc): có ý thức lựa chọn cán bộ lãnh đạo tài đức
cho huyện, song có cảm giác chưa hiểu đầy đủ về nhân sự trong cơ quan nên lúng
túng trong lựa chọn cán bộ.

6


* Việc giải quyết tình huống trên cần phải nhìn nhận từ cả hai phía tập thể và cá
nhân đồng chí Vũ Văn M thì mới đảm bảo được tính khách quan và chân thực.
Tóm lại: Trên cơ sở pháp lý và những đánh giá về đặc trưng tâm lý cán bộ,
công chức của huyện M, để giải quyết tình huống này và câu hỏi đặt ra:
Thứ nhất, ban lãnh đạo huyện ủy sẽ nhìn nhận vấn đề xảy ra như thế nào?
- Huyện ủy đã thấy được một đồng chí có đủ các tiêu chí để đảm nhiệm vị trí
mới, song đồng chí này lại không được sự ủng hộ từ phía quần chúng (qua kết quả bỏ
phiếu tín nhiệm). Qua sự kiện này, ban lãnh đạo huyện ủy thấy rõ được tính phức tạp
đang nảy sinh trong công tác nhân sự của huyện. Sự việc xảy ra có thể do một trong
các nguyên nhân sau:
- Có thể cách nhìn nhận của ban lãnh đạo về cán bộ có phần chủ quan, chưa
chính xác.
- Có thể đồng chí Vũ Văn M rất tốt, nhưng do tính cách của đồng chí có vấn đề
làm anh em không yêu quý, ủng hộ.
- Có thể tập thể có những vấn đề phức tạp, nhiều phe cánh, họ dùng là phiếu để
chống đối nhau…
- Để thực hiện tốt công tác nhân sự của huyện, lãnh đạo huyện phải lắng nghe,
tìm hiểu các nguyên nhân để có những phương án đúng đắn và kịp thời.

Thứ hai, lãnh đạo huyện ủy huyện M sẽ giải quyết tình huống này ra sao để
huyện ủy sớm ổn định công tác tổ chức cán bộ của huyện.
2.2.3. Cơ sở thực tiễn: Từ thực tiễn công tác cán bộ tại huyện M, tỉnh H.Y
2.3. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
- Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc xác định nguyên nhân cần phải
nhìn nhận từ cả hai phía:
- Về phía tập thể: sự phát triển tập thể chưa đạt đến mức độ cao, chất lượng cán
bộ, nhân viên trong tập thể chưa tốt… (nếu tập thể có đội ngũ cán bộ không có tinh
thần hợp tác vì tập thể kéo bè, kéo cánh để phản đối ý kiến cấp trên thì ý kiến chung
của tập thể chỉ là để tham khảo, lãnh đạo huyện không nên dựa vào những ý kiến này
để quyết định).
- Cá nhân đồng chí Vũ Văn M: tính cách của đồng chí có thể không phù hợp,
không được lòng anh em. Đó cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tình huống.
7


- Vì việc khuyết thiếu vị trí lãnh đạo ở huyện M là vị trí rất quan trọng nên có
nhiều người muốn được giữ vị trí đó. Do vậy, họ có thể tìm cách nói xấu những cán
bộ có năng lực để mưu cầu cơ hội cho bản thân…
Theo đó, vấn đề đặt ra từ tình huống
- Ban lãnh đạo huyện ủy sẽ nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
- Lãnh đạo huyện ủy huyện M sẽ giải quyết tình huống này ra sao để huyện ủy
sớm ổn định công tác tổ chức cán bộ của huyện?
2.4. Hậu quả của tình huống:
- Nếu không bổ nhiệm được cán bộ có năng lực, trình độ, đạo đức tốt sẽ không
đảm đương được nhiệm vụ chính trị được phân công
- Nếu việc xử lý của lãnh đạo Huyện Ủy không khéo léo sẽ gây mất đoàn kết
nội bộ, giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
3. Xử lý tình huống:
3.1.Mục tiêu xử lý tình huống

- Giúp cho huyện M có một chánh văn phòng huyện ủy có đủ tài đức để gánh
vác công việc cùng ban lãnh đạo huyện, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của
huyện.
- Có được những bài học kinh nghiệm thực tế để làm tốt công tác nhân sự trong
các tổ chức giai đoạn hiện nay.
- Rèn luyện kỹ năng lãnh đạo cho học viên và các cán bộ quản lý trong lĩnh vực
quản lý nhân sự ở các tổ chức hiện nay.
3.2. Xây dựng và lựa chọn các phương án giải quyết
3.2.1. Xây dựng các phương án giải quyết
Để có cách xử lý tình huống tốt nhất, tôi xin đưa ra hai phương án giải quyết sau:
* Phương án 1
- Xem xét kỹ sự việc xảy ra, nguyên nhân chủ quan (có thể do từ phía tập thể,
hoặc có thể xuất phát từ phía đồng chí Vũ Văn M) và nguyên nhân khách quan để xác
định rõ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cả tập thể đúng hay sai:

8


+ Nếu tâm tư, nguyện vọng của tập thể là chính đáng và cá nhân đồng chí Vũ
Văn M chưa đủ tư cách nắm giữ vị trí mới thì tạm dừng việc bổ nhiệm để xem xét
thêm.
+ Nếu tập thể có vấn đề hoặc đồng chí Vũ Văn M có một số khiếm khuyết nhỏ
so tính cách chưa phù hợp, có thể sửa đổi được thì vẫn ra quyết định bổ nhiệm.
- Ưu, nhược điểm của phương án 1:
+ Ưu điểm: quyết định bổ nhiệm cán bộ sẽ hợp tình hợp lý trên cơ sở hiểu rõ
bản chất của vụ việc, lựa chọn đúng cán bộ tốt cho vị trí quan trọng của tổ chức.
+ Nhược điểm: mất thời gian và tốn nhiều công sức.
* Phương án 2
- Vẫn quyết định bổ nhiệm đồng chí Vũ Văn M giữ vị trí chánh văn phòng
huyện ủy vì lãnh đạo đã nhìn nhận là hoàn toàn đúng. Việc bỏ phiếu chỉ là một kênh

thông tin để tham khảo.
- Ưu, nhược điểm của phương án 2:
+ Ưu điểm: Công việc ổn định các vị trí lãnh đạo được nhanh chóng hoàn
thành, ít tốn thời gian và công sức.
+ Nhược điểm: cách giải quyết này mang tính chủ quan, có thể dẫn đến sai lầm
vì lựa chọn cán bộ không chính xác, gây mất lòng tin của tập thể đối với ban lãnh đạo.
3.3. Lựa chọn phương án
- Trên cơ sở xác định ưu, nhược điểm của các phương án đặt ra, chúng tôi nhận
thấy phương án 1 là phương án khả thi, vì việc xử lý tình huống chỉ dựa trên những cơ
sở pháp lý mà dựa trên cả những cơ sở tâm lý xác đáng (dựa vào những yếu tố tâm lý
quy định hành vi xã hội của cá nhân như tính cách cá nhân hay đặc trưng tâm lý của
tập thể…).
4. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
9


4.1. Lập kế hoạch thực hiện phương án đã lựa chọn
- Kế hoạch về thời gian, địa điểm/ nội dung công việc:
+ Đầu tiên, lãnh đạo huyện họp bàn và thống nhất phương án hành động là tạm
dừng việc bổ nhiệm cán bộ vào vị trí quan trọng là chánh văn phòng UBND huyện để
tìm hiểu đầy đủ thực trạng của tổ chức và có thời gian nhìn nhận cán bộ một cách đầy
đủ, tránh những sai lầm đáng tiếc trong việc lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ.
+ Thứ hai, xác định nguyên nhân của vấn đề trên cơ sở cái nhìn toàn diện về
tập thể và về cá nhân đồng chí Vụ Văn M…
+ Thứ ba, đánh giá chính xác bản chất vấn đề nhìn từ các góc cạnh khác nhau.
+ Thứ tư, đưa ra các quyết định bổ nhiệm cán bộ một cách hợp lý.
- Kế hoạch về nguồn nhân lực, vật lực:
+ Tham gia lấy ý kiến để xác định bản chất của vấn đề, từ đó có cơ sở chọn
hướng giải quyết phù hợp.
+ Nguồn vật chất cần thiết để tổ chức hội họp, bàn bạc lấy ý kiến…

4.2. Tổ chức thực hiện phương án được lựa chọn (phương án 1)
- Ban lãnh đạo tìm hiểu thực tế, thu thập nhập thông tín về đồng chí Páo và về tập thể:
+ Trường hợp 1: qua xác minh tìm hiểu, nếu ban lãnh đạo huyện thấy: tập thể tốt,
có cùng tâm nguyện là lựa chọn được một cán bộ lãnh đạo tốt cho tổ chức, nhưng thực tế
đồng chí Vũ Văn M có quá nhiều nhược điểm và không được lòng tin của tập thể thì việc
quyết định bổ nhiệm đồng chí Vũ Văn M cần phải được ban lãnh đạo cân nhắc kỹ.
+ Trường hợp 2: Tiến hành xác minh tìm hiểu nguyên nhân, nếu tập thể có
nhiều phần tử xấu, gây bè kéo cánh tạo ra một thể lực đối lập với mục tiêu chính đáng
của tập thể vì một lý do nào đó có sự bất đồng với đông chí Vũ Văn M hay ban lãnh
đạo của huyện;

10


Qua tìm hiểu từ các kênh thông tin thấy đồng chí Vũ Văn M thực sự tốt và có
năng lực nhưng do tính cách của đồng chí không đem lại sự hữu hảo trong quan hệ
với đồng nghiệp thì ban lãnh đạo vẫn cần mạnh dạn bổ nhiệm đồng chí Vũ Văn M
vào vị trí khuyết thiếu;
Góp ý để đồng chí Vũ Văn M thấy được những hạn chế về tính cách của bản
thân để sửa đổi và làm tốt hơn công việc được giao (trường hợp đồng chí Vũ Văn M
có những vấn đề về tính cách dẫn đến hành xử không được lòng tập thể).
- Sau khi bổ nhiệm đồng chí Vũ Văn M vào vị trí chánh văn phòng của huyện,
ban lãnh đạo cần phải quan tâm đến việc xây dựng và phát triển tập thể cùng đoàn kết
thực hiện tốt mục tiêu đề ra (nếu tập thể có nhiều phần tử không tốt, có tư tưởng
chống đối lại tập thể).

11


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1.Kết luận.
Trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu phải tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả hơn nữa của công tác cán bộ cũng như công tác bổ nhiệm
cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại đúng đắn hơn để vận dụng và tổ chức thực
hiện cho đúng theo quan điểm chỉ đạo của Đảng.
Công tác đề bạt, bổ nhiệm là một khâu của công tác cán bộ, do vậy nó có vai
trò hết sức quan trọng được thể hiện trên các mặt, thứ nhất, công tác bổ nhiệm cán bộ
kết hợp cùng với các khâu khác tạo cho công tác cán bộ trở thành một hệ thống hoàn
chỉnh và hợp lý. Thứ hai, công tác bổ nhiệm cán bộ có vai trò gắn liền với vai trò của
công tác cán bộ cùng tạo ra một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng.
Công tác cán bộ có vai trò rất quan trọng, nó tạo nên đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong lịch sử, chưa
hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình, những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có khả
năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”, do đó giai cấp vô sản muốn có cán bộ tốt phải
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phải tìm ra những cán bộ có bản lĩnh, có năng lực công tác
tốt để giao trọng trách, phải xây dựng cho được “những nhà chính trị của giai cấp thực
sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không được thua kém các nhà chính trị
của gia cấp tư sản”.
Khi Đảng chưa có chính quyền, vấn đề công tác cán bộ đã rất được quan tâm,
khi có chính quyền, thì vấn đề đó càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn. V.I. Lênin
đòi hỏi giai cấp công nhân phải xây dựng được cho mình một đội ngũ những người
“tâm huyết”, lấy đấu tranh cách mạng làm “chuyên nghiệp”. Đội ngũ cán bộ giỏi, có
phẩm chất, có nhiệt tình là điều kiện để giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp tư sản.
12


Ông nhấn mạnh: “Mấu chốt là vấn đề người, vấn đề lựa chọn người” và “kiểm tra
việc chấp hành”, đó là mấu chốt để chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành hiện thực.

Nhận thức sâu sắc và trung thành tuyệt đối với những tư tưởng, quan điểm của
C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt công tác cán bộ ở vị trí
quyết định trong mọi giai đoạn cách mạng, để có cán bộ tốt đáp ứng được cho phong
trào, cho nhiệm vụ cách mạng. Người khẳng định: “Vấn đề cán bộ là một vấn đề trọng
yếu, rất cần kíp”, vì vậy “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu gương trong việc hoạch định đường lối, chính
sách vừa nguyên tắc, vừa linh hoạt trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Không chỉ dừng
lại ở những bài nói, bài viết, những chỉ thị về công tác cán bộ mà người còn trực tiếp
mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, tham gia giảng dạy và chỉ dẫn công việc,
hướng dẫn, dạy bảo cán bộ trong công tác thực tế. Người coi công tác cán bộ cũng
như việc đào tạo nhân tài là trọng yếu và cần thiết. Người nói: “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Trong suốt quá trình cách mạng nước ta, nhất là trong công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta luôn khẳng định vai trò quan
trọng của công tác cán bộ coi đây là khâu then chốt của mọi vấn đề then chốt. Do đó,
Đảng ta đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, của hệ thống chính trị,
các cấp ủy đảng và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng với mục tiêu: “có một đội ngũ
cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức
thực hiện thắng lợi đường lối, đó là vấn đề cốt lõi của lãnh đạo, là sinh mệnh của
Đảng cầm quyền”.
Mỗi người cán bộ khi được tổ chức, được thủ trưởng cất nhắc, bổ nhiệm có tác
dụng tinh thần rất lớn trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp công tác. Họ cảm
thấy được vinh dự hơn, hãnh diện hơn khi những cố gắng trong công việc của mình đã
được nhìn nhận và đánh giá chính xác. Từ đó họ cảm thấy phấn khởi, tin tưởng vào tổ
chức, vào lãnh đạo, xóa bỏ được tư tưởng “Ba năm phấn đấu, không bằng một lần cơ
13


cấu” và công việc cũng vì đó được tiến hành nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn. Nhưng
ngược lại, nếu do phe phái, bè cánh mà bổ nhiệm hay vì một lý do nào đó mà được bổ

nhiệm thì người cán bộ đó sẽ có tư tưởng coi thường người khác, coi thường hiệu quả
công việc do vậy công việc cũng không thể nào hoàn thành tốt được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mặc dù không sử dụng trực tiếp khái niệm “Bổ nhiệm cán bộ”
nhưng qua quan điểm của người về cất nhắc cán bộ cũng nói lên tầm quan trọng của
công tác bổ nhiệm cán bộ. Theo Người, cất nhắc cán bộ là công việc cần kíp nhưng
phải làm cho đúng. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem những người bô lô,
ba la, chỉ nói mà không làm vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại. Cất nhắc
cán bộ phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như
thế công việc nhất định chạy. Người chỉ rõ, cất nhắc cán bộ không nên làm như “giã
gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi không giúp đỡ
họ, khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị
nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Ảnh hưởng của việc bổ nhiệm đúng
cán bộ không chỉ có tác động tới tinh thần, tâm lý của bản thân người được bổ nhiệm,
mà còn tác động tới cả đội ngũ cán bộ nơi có người được bổ nhiệm. Có những nơi do
bổ nhiệm không đúng cán bộ, cán bộ được bổ nhiệm không đúng với năng lực, sở
trường, không đúng với cống hiến, uy tín trước quần chúng đã gây tình trạng hoang
mang, dao động, chán nản trong đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần
chúng sẽ không còn niềm tin vào tổ chức, vào người lãnh đạo, động lực phấn đấu từ
đó cũng không còn, nhiệm vụ được giao cũng sẽ bê trễ, khó hoàn thành.
Bổ nhiệm đúng cán bộ còn là sợi dây đoàn kết đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần
chúng trong một cơ quan, đơn vị tránh được những bất đồng do bổ nhiệm cán bộ
không đúng tạo ra.
Như vậy, có thể nói đề bạt, bổ nhiệm cán bộ có vai trò hết sức to lớn đối với
công tác cán bộ, đối với từng cán bộ và cả đội ngũ cán bộ, nó là sợi dây thắt chặt tình
đoàn kết trong cơ quan, tổ chức và đăc biệt đó còn là điều kiện để bảo đảm cho việc
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của tổ chức, đơn vị, địa phương, của mỗi cán
14


bộ và của cả đội ngũ cán bộ. Do vậy, mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức và người đứng đầu có

hiểu đúng về đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, xác định đúng vai trò của công tác bổ nhiệm
cán bộ trong công tác lụa chọn cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ mới mong thực
hiện đúng công tác này.
Ngày nay sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đang đứng trước yêu cầu mới
với bao thời cơ và vô vàn thách thức không thể xem thường, để công cuộc đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi như mong muốn, việc tiếp tục đổi
mới công tác bổ nhiệm cán bộ góp phần xây dựng một đội ngũ cán bộ đảm bảo về
chất lượng, số lượng, cơ cấu nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng không chỉ
là yêu cầu khách quan mà còn là mệnh lệnh của chính cuộc sống.
2. Kiến nghị.
Để lựa chọn, bổ nhiệm đúng cán bộ, công tác cán bộ cần phải tuân thủ nghiêm
ngặt những quan điểm cơ bản của Đảng thể hiện trong các văn kiện của Đại hội toàn
quốc lần thứ VII, VIII và các Nghị quyết Hội nghị của Ban chấp hành Trung ương 3
và Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Những quan điểm đó được cụ thể hoá thành những nguyên tắc, quy định, quy chế
mang tính bắt buộc, thống nhất trong phạm vi cả nước, đòi hỏi các cấp, các cơ quan
làm công tác cán bộ phải thực hiện chặt chẽ.
Đối với Đảng, Nhà nước:
+ Tiếp tục hoàn thiện và bổ sung các hướng dẫn, các văn bản quy phạm pháp
luật về công tác quản lý, đánh giá, điều động, luân chuyển, lựa chọn bổ nhiệm cán bộ
đê các cấp thực hiện thống nhất, đồng bộ. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện để kịp thời đánh giá những
mặt ưu và hạn chế cần điều chỉnh cho phù hợp từng thời kỳ.

15


+ Mở rộng đối tượng cán bộ để theo học các lớp bồi dưỡng về quản lý nhà
nước chương trình chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp để họ có điều kiện nâng
cao kiến thức về quản lý nhà nước.

- Đối với cấp uỷ, chính quyền cấp trên.
+ Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vấn đề đặt ra cho các
cấp uỷ Đảng, chính quyền phải luôn quan điểm đúng đắn về đánh giá cán bộ và đề bạt
sử dụng cán bộ. Đánh giá cán bộ đúng sẽ đề bạt đúng cán bộ, người được đề bạt sẽ
phát huy được năng lực quản lý điều hành theo đúng quy định của Nhà nước, tư đó
thúc đẩy phong trào ngày càng phát triển, phát huy được sức mạnh tổng hợp hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
+ Việc quy hoạch cán bộ phải gắn đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Nếu
không thực hiện tốt quy trình sẽ bị động trong công tác cán bộ, không chấm tốt được
đội ngũ kế cận sẵn sàng thay thế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
+ Khi đề bạt, bổ nhiệm phải tuân thủ các tiêu chuẩn cụ thể và yêu cầu công
việc. Vì vậy, không được đánh giá cán bộ theo ý chủ quan, cá nhân, cục bộ mà phải
căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ quản lý đã quy định, cụ thể: về phẩm chất chính trị, phải
có đạo đức tốt, có lập trường tư tưởng vững vàng về năng lực lãnh đạo là phải biết
vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ
thể của địa phương. Biết xây dựng mối quan hệ cấp dưới, hoà đồng với cán bộ nhân
viên trong cơ quan, đơn vị. Năng động, sáng tạo trong điều hành, giải quyết công
việc; về kiến thức và năng lực chuyên môn, phải có trình độ chuyên môn phù hợp với
nhiệm vụ được giao. Có kinh nghiệm thực tiễn, am hiểu công việc và phải có kiến
thức quản lý Nhà nước.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII.
2. Nghị quyết số 11 - NQ/TW ngày 15 - 01 - 2002 của Bộ chính trị khoá IX về
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý.
3. Văn kiện Đại hội Đảng khóa XI, XII.

4. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
6. Nghị định số 06/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/1/2010 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Cán bộ, công chức.
7. Tài liệu bồi dưỡng về quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính.

17


18



×