Vẻ đẹp tâm hồn của Bác Hồ trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó
Mở bài
Bác Hồ sáng tác bài thơ Tức cảnh Pác Bó khi người sống và làm việc tại hang Pác
Bó ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian đầu mới trở về nước xây dựng lực lượng cách
mạng. Bài thơ diễn tả niềm vui thú chân thực của nhà thơ trong những ngày gian
khổ ở Pác Bó. Qua đó làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Bác: vừa là một chiến sĩ say
mê cách mạng vừa như một ẩn sĩ ung dung, tự tại, sống hòa mình với thiên nhiên
rộng lớn.
Thân bài
Tức cảnh Pác Bó
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Đó là niềm vui sống toát lên phong thái ung dung, tự tại giữa núi rừng. Câu thơ đầu
có giọng điệu thật thoải mái, thanh thản hòa nhập với nhịp điệu của thời gian:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Câu thơ là hai vế sóng đôi, thể hiện nếp sông nhịp nhàng, nề nếp bất chấp hoàn
cảnh gian khó thể nào. Ở đó, Bác có lốì sống của một ẩn sĩ thanh tao, lấy núi, mây,
chim, cảnh làm bầu bạn. Thế nhưng, như Phạm Văn Đồng đã từng nói đó không
phải cách sống của một vị hiền triết yếm thế, dù ở nơi giản dị nhưng tâm hồn của
Người luôn lộng gió thời đại.
Nếu câu một miêu tả nới ở, thì đến câu thứ hai lại miêu tả cuộc sóng sinh hoạt
cópha giọng đùa vui:
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẫn sàng.
Tuy gian khổ, nhưng lúc nào, Bác cũng nhìn cuộc sống với niềm tin tưởng lớn.
Lương thực, thực phẩm được rừng núi ban tặng đầy đủ đến mức dư thừa (vẫn sẵn
sàng: lúc nào cũng sẵn có). Rõ ràng niềm vui thích “thú lâm tuyền” đã khiến nhà
thơ biến thiếu thốn thành dư thừa, biến kham khổ thành sang trọng.
Niềm lạc quan toát lên cái “sang” của cuộc đời cách mạng. Câu thơ thứ ba cũng
chẳng có gì cầu kì, đó hoàn toàn tả thực:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Núi rừng cho Bác rau măng để ăn, lại sẵn có cho Người nào bàn, nào ghế đá làm
việc. Nhưng câu thơ cũng lại rất “sang”, nó làm nổi bật lên hình tượng người lãnh
tụ cách mạng. Người dịch sử Đảng để giảng dạy, đào tạo cán bộ cách mạng cho
phong trào. “Bàn đá chông chênh”, ba thanh bằng nhẹ nhõm, đối sánh với dịch sử
Đảng toàn thanh trắc làm nên giọng thơ khỏe chắc, gân guốc: cái bàn chông chênh
nhưng lại chắc chắn.
Câu thơ vừa thực vừa lớn lao và cổ kính như tứ tuyệt cổ điển. Thơ tứ tuyệt của Bác
thường khắc họa nhân vật trữ tình: đó là nhà thơ. Ở câu thơ thứ ba, để tạo dà
chuyển sang câu kết trực tiếp bộc lộ cảm xúc. Đó là một kết cấu hợp lí.
Cuôc đời cách mạng thật là sang.
Chỉ một chữ “sang’’ được nhấn mạnh bởi từ cảm thán “thật là” đổi lập với con
suối, cái hang, cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh, tác giả làm tăng sự khẳng
định dứt khoát cuộc sống này hơn hẳn các cuộc sống khác trên đời. Bởi vì đó là
cuộc đừi cách mạng, là niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại sau ba
mươi năm xa. nước nay được sông giữa lòng đất nước yêu dấu; là niềm vui lớn lao
khi Người biết thời cơ cứu nước đã tới gần.
Như vậy “thú lâm tuyền” của Bác vừa giống vừa khác các ẩn sỉ: cùng vui với rừng
với suối, cũng sống thanh bần, nhưng không hề quay lưng với đời mà sông giữa
đời để làm thay đổi cuộc đời. Nhân vật trữ tình tuy có dáng dấp ẩn sĩ nhưng vẫn là
người chiến sĩ kiên trung. Chữ “sang’’ ấy chính là “nhãn tự” đã kết tinh và tỏa sáng
toàn bài.
Kết bài:
Tức cảnh Pác Bó là bài thơ tứ tuyệt vừa cổ điển (thú lâm tuyền tiêu dao của ẩn sĩ)
vừa hiện đại (niềm lạc quan của chiến sĩ); giọng thơ hóm hĩnh, hình ảnh hàm súc,
diễn tả sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: dù trong bất kì gian nan nguy hiểm
nào vẫn ung dung. Bởi với Người, làm cách mạng và sống hòa nhập với thiên
nhiên là một niềm vui lớn.