Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của thạch lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.58 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Văn học là nhân học, là khoa học về con người. Văn học lấy con người làm
đối tượng trung tâm, bởi nhân vật là con người được miêu tả, thể hiện trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Các nhà văn, nhà thơ sáng tạo ra nhân vật để
nhận thức con người và bộc lộ quan niệm nghệ thuật về con người của mình.
Nhưng khó mà hiểu hết đặc điểm trong quan niệm về thế giới và con người của
một nhà thơ nếu không tìm hiểu không gian nghệ thuật trong các sáng tác của
nhà thơ đó. Bởi vì, nếu như không gian , cũng như thời gian, là hình thức tồn
tại của vật chất, thì trong cuộc đời mỗi con người, không gian và thời gian cũng
chính là hình thức tồn tại của con người. Vì vậy, không thể hiểu hết về con
người nếu không hiểu được không gian tồn tại của họ.
Việc tìm hiểu không gian nghệ thuật sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn sâu
sắc hơn về quan niệm nghệ thuật của chính nhà văn về thế giới và con người.
Trong những thập niên gần đây, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã có rất
nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về không gian nghệ thuật như các
công trình nghiên cứu của Trần Đình Sử, Hồ Thế Hà, Nguyễn Xuân Kính,
Nguyễn Thị Bích Hải, Hồ Gia Long, Nguyễn Quốc Khánh... Đối với nhà văn
Thạch Lam, cũng có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về không gian
nghệ thuật. Tuy nhiên, các bài viết và công trình nghiên cứu của họ chỉ mang
tính khái quát về không gian nghệ thuật, mà chưa thực sự làm rõ những nét
không gian riêng biệt trong các tác phẩm của ông.
Qua quá trình tìm hiểu và khảo sát, chúng tôi thấy có hai quan niệm về
không gian nổi bật nhất và xuyên suốt hầu hết mọi sáng tác của Thạch Lam là:
không gian hiện thực hàng ngày và không gian bi kịch sau bi kịch. Ở tiểu luận
này, chúng tôi muốn góp một ít công sức của mình vào việc nghiên cứu hai
quan niệm về không gian nghệ thuật ấy trong một số sáng tác tiêu biểu của

1


Thạch Lam, để hiểu rõ hơn về thế giới nhân vật, đặc biệt là phong cách nghệ


thuật rất riêng của nhà văn Thạch Lam. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài: Hai
quan niệm về không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam.
Bài viết này chỉ dừng lại ở việc bước đầu vận dụng những lý thuyết đã tiếp
thu được của Thi pháp học để tìm hiểu không gian nghệ thuật trong sáng tác
của Thạch Lam.

2


CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG VĂN HỌC
1.1 Khái niệm “không gian nghệ thuật”
Giáo sư Trần Đình Sử đã nói rằng: Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế
giới và con người thì thời gian, không gian chính là hình thức để con người
cảm nhận thế giới và con người . Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ
tọa độ không - thời gian xác định, nên những cảm nhận của con người về thế
giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Từ sự đổi thay của
không gian - thời gian, con người nhận ra sự đổi thay trong chính mình.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính thì: thời gian và không gian là những
mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế
giới nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật
một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của
việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ
thuật.
Để hiểu được khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản và khái
quát nhất, tôi xin được viện dẫn cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học: Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình
tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó [1; 160].
Trần Đình Sử lí giải thêm: không gian nghệ thuật là phạm trù cảu hình

thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật
[4; 42]. Ông còn khẳng định một cách hết sức chắc chắn rằng không có hình
tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào không
nào không có một nền cảnh nào đó và không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng
tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định
3


về cuộc sống.
Như vậy, không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời
sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần thuật bên
trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn. Căn cứ vào
điểm nhìn mà xác định được vị trí của chủ thể trong không - thời gian, thể hiện
ở phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn.
Điểm nhìn không gian được thể hiện qua các từ chỉ phương hướng và vị trí để
tạo thành “viễn cảnh nghệ thuật”.
1.2. Đặc điểm của không gian nghệ thuật
1.2.1. Không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với
không gian khách thể. Bản thân không gian vật chất tồn tại khách quan, nghĩa
là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người, mà không gian
vật chất chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi được tác giả cảm nhận về nó
và qua đó thể hiện cách cảm cách nghĩ của nhà văn về thế giới, là một quan
niệm nhân sinh, một thái độ sống trước cuộc đời:
Em đi để lại tiếng cười
Tim tôi vỡ một khoảng trời pha lê
Trăng vàng đêm ấy bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may
(Lời thề Cỏ may - Phạm Công Trứ)
Thật vậy, đêm trăng chỉ là đêm trăng sáng vằng vặc hay hao khuyết như
bản thân nó tồn tại không một chút cảm xúc, tâm trạng nếu không được “thẩm

thấu” qua tâm hồn tác giả, không mang suy nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ.
Nhà thơ Phạm Công Trứ hồi tưởng lại không gian đêm trăng ở bờ đê mà nuối
4


tiếc cho tình yêu không thành.
1.2.2. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có một ranh giới phân
biệt với không gian vật chất bên ngoài, nhưng không dễ thấy như cái khung của
một bức tranh, cái sân khấu của một vở diễn. Nó thể hiện tính chất của một thế
giới tinh thần:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
(Từ ấy - Tố Hữu)
Không gian trong văn học chia thành những ranh giới giá trị thể hiện
quan niệm về trật tự thế giới và sự lựa chọn của con người. Đó là sự tách biệt
về ranh giới của không gian, giữa không gian bên trong và không gian bên
ngoài, giữa ranh giới bất biến và khả biến:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt
(Lời kĩ nữ - Xuân Diệu)
1.2.3. Không gian nghệ thuật mang tính ước lệ, mang ý nghĩa cảm xúc
Không gian của “bãi bể nương dâu” luôn gợi tới sự trôi chảy của thời
gian, sự đổi thay của không gian của kiếp người. Vì thế, không gian bãi bể,
nương dâu luôn được chọn làm nền cảnh cho các cuộc chia li, nó dự báo trước
sự biến đổi lớn lao trong đời người. Chẳng thế mà :
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
5



Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm)
Không gian trong văn học được biểu hiện bằng không gian điểm mang
tính ước lệ tượng trưng: Thiên đình, thượng giới, làng quê, trong nhà, ngoài
vườn, bến sông, tha hương, thành phố, biển khơi… Ví như mỗi khi nhắc đến
nỗi nhớ quê hương của khách lữ thứ, người ta lại mượn không gian sông nước
mênh mông với làn khói lam chiều:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
(Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu)
Không gian biểu thị bằng các từ chỉ không gian vốn đã mã hoá sẵn về ý
nghĩa trong đời sống, như: trên cao, dưới thấp, nghiêng... Về tính chất thì có
thể là: rộng - hẹp, dài - ngắn, phóng khoáng…:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
(Tràng giang - Huy Cận)
Không gian nghệ thuật thể hiện tập trung vào cái nhìn, điểm nhìn, điểm
quan sát. Điểm nhìn là vị trí của chủ thể trong không thời gian, thể hiện ở

6


phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn.
Trong nguyên tác thi phẩm Tân xuất ngục học đăng sơn, Hồ Chí Minh viết:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân

Thế nhưng bản dịch thơ đã dịch là:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Nếu hiểu rõ về điểm nhìn ta có thể thấy sự khác biệt về ý nghĩa giữa bản
dịch thơ với nguyên tác. Hiểu theo bản dịch thơ thì nhà thơ đứng ở vị trí dưới
thấp mà nhìn lên cao hơn mới thấy núi trước rồi thấy mây sau. Bởi thế trình tự
mây đến núi không phải là sự sắp xếp ngẫu nhiên mà nó chịu sự chi phối bởi
điểm nhìn của chủ thể, nhà thơ đứng ở vị trí cao hơn nhìn xuống thấy mây tầng
tầng lớp lớp bao phủ lấy núi.
Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ
thuật. Không gian nghệ không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm
văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế
giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ
sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của
các hình tượng nghệ thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không
gian mà nó tồn tại.

7


CHƯƠNG 2
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
2.1. Không gian hiện thực hằng ngày
Người đọc đến với Thạch Lam, họ quên và hầu như không cần thiết xem
ông là nhà văn lãng mạn hay hiện thực mà điều hấp dẫn đối với họ là toàn bộ
bức tranh nhân gian của ông với sự hiện diện của đủ mọi hạng người, đặc biệt
là những con người nghèo khổ.
Thạch Lam có một số truyện ngắn được xếp vào những truyện hay của văn
học Việt Nam đầu thế kỷ XX như: Gió lạnh đầu mùa, Cô hàng xén, Hai đứa
trẻ, Hai lần chết, Tối ba mươi, Sợi tóc...
Xuyên suốt hầu hết các sáng tác của mình, Thạch Lam quan tâm hàng đầu

đến không gian hiện thực hằng ngày. Ông ít tô vẽ và cách điệu nó, bởi vì, như
ông nói: Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm
tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp kín đáo
và che lấp của sự vật. Chính vì thế, không gian hiện thực hằng ngày trong tác
phẩm Thạch Lam là một xóm chợ, một ngõ hẻm, một ga xép, một phố huyện
nghèo nàn hoặc một con đường làng vùng nông thôn nào đó. Ở đây, các nhân
vật của ông bị tù túng, luẩn quẩn với những đói nghèo, lo âu, dằn vặt thường
nhật. Họ luôn bị ám ảnh bởi miếng cơm, manh áo hoặc day dứt với những bi
kịch tinh thần.
Hình ảnh người nông dân nghèo quanh năm suốt tháng phải vật lộn với
miếng cơm manh áo hiện lên khá chân thực trong truyện ngắn Nhà mẹ Lê. Câu
chuyện xoáy sâu vào số phận của một bà mẹ nghèo phải nuôi đàn con mười
một đứa .Hoàn cảnh của nhà mẹ Lê thật khốn khổ. Nếu như ta bắt gặp hình ảnh
ngôi nhà chị Dậu xiêu vẹo mà trông xa người ta cứ ngỡ là chuồng lợn hay nơi
8


chứa phân… thì Thạch Lam miêu tả nhà mẹ Lê sống cũng tương tự như thế:
một căn nhà lụp xụp, chừng ấy người chen chúc trong khoảng rộng độ bằng
hai cái chiếu ,có mỗi chiếc giường nan bị gãy nát ,mùa rét thì rãi ổ rơm đầy
nhà, mẹ con cùng ngủ trên đó trông như một cái ổ chó, chó mẹ chó con lúc
nhúc [2; 245].
Hiện thực khắc nghiệt khiến cho con người trong cảnh đói rét có được một
căn nhà như vậy cũng là sung sướng lắm. Không gian hiện thực tù túng bủa
vây lấy con người, cái gì cũng rách nát, cái gì cũng ngột ngạt, cả phố chợ đều
nghèo khổ, hai dãy nhà lụp xụp đã mục nát.
Trong Đói: Chỗ chàng thuê là một căn nhà hẹp và dài, chia làm nhiều
phòng, mỗi gian phòng là một gia đình chen chúc ở, tòn những người nghèo
buôn bán nhỏ ở khắp nơi [2; 251]. Con người trong toàn bộ truyện ngắn của
Thạch Lam đều hiện diện trong khoảng không gian như thế.

Dường như, truyện ngắn của Thạch Lam tái hiện toàn bộ những cảnh đời
ông đã sống, đã chứng kiến. Ông có một tuổi thơ ở quê ngoại - phố huyện Cẩm
giàng và tuổi thanh niên, ông lập nghiệp ở Hà Nội ba sáu phố phường. Vì vậy,
văn ông như sự thu nhỏ của xã hội Việt Nam trong sự giao lưu đông tây, sự
giao thoa giữa cái mới và cái cũ. Tất cả dấu vết của tuổi thơ, của đời sống đều
trải đều vào văn ông làm thành những mảng sống vừa u buồn, vừa phủ một
chất thơ, hiu hiu, đạm đạm, không có sự chói gắt, những vang động mạnh,
nhưng lại gợi bao ám ảnh về số phận của kiếp người.
Các nhân vật của Thạch Lam thường bị đặt trong cái không gian “nửa màu
thôn ổ, nửa đã thị thành”. Nếu Thanh Tịnh chọn không gian nghiêng về phía
“làng”, thì Thạch Lam nghiêng về “phố”: phố huyện, chợ huyện, nhà ga.
Không gian phố huyện là không gian tiêu biểu ở truyện ngắn Thạch Lam.
Một mặt, nó hơi hướng thị thành những cô gái răng trắng, môi đỏ, vui vẻ đi
mau hàng ở một phiên chợ huyện, với sự xuất hiện của vài thức hàng mới như
9


phấn xoa mặt, dầu bôi tóc, son thoa môi (Cô hàng xén).
Hay những con tàu chở đầy ánh sáng từ Hà Nội về và đi qua giây lát trong
Hai đứa trẻ: Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để
nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên
chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người,
đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại
những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái
chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng
tre.
Có thể nói, tác giả đã lựa chọn và tô đậm một không gian đầy bóng tối, xen
kẽ với những luồng ánh sáng le lói, vụt sáng rồi vụt tắt hoặc ở mãi trên cao, ở
xa tít tắp... Không gian ở đây không chỉ làm “phông” cho tác phẩm. Chính
không gian là một yếu tố vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính nội dung,

biểu đạt chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Bóng tối và ánh sáng ở đây không phải được miêu tả một cách khách quan.
Nó hiện lên qua cái nhìn, dõi theo của nhân vật chính. Nó thâm nhập vào thé
giới tâm hồn của hai đứa trẻ. Ta bắt gặp trong tác phẩm một ần số khá cao
những động từ diễn tả hành động như nhìn, thấy, quan sát, tìm kiếm...
“Hai chị em ngồi nhìn ra phố... Liên trông thấy mấy đứa nhỏ con nhà
nghèo cuối lom khom... Bây giờ Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm. Hai
chị em đưa mắt dõi theo những người về muộn... Liên và An ngước mắt lên
nhìn vòm trời ngàn sao lấp lánh để tìm sông Ngân Hà... Chúng còn nhìn theo
các chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng càng xa xa mãi...”.
Ở đây, có sự chuyển dịch điểm nhìn của nhà văn sang điểm nhìn của nhân
vật. Đằng sau nhân vật là cái nhìn chăm chú theo dõi của nhà văn vào từng cử
chỉ, ánh mắt của chúng, cảm nhận nỗi sợ hãi bóng tối và niềm khát khao ánh
sáng từ mọi phía... Mọi chi tiết trong truyện rất chân thực và bình dị như đời
10


sống thực. Nhưng trong cái tĩnh lặng của không gian chiều phố huyện, ta nhận
ra sự vận động có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối; cái đẹp
đẽ nằm ngay trong cái bình thường; cái khao khát, ước mơ nằm ngay trong cá
nhẫn nhục, cam chịu; cái xôn xao, biến động nằm ngay trong lặng lẽ đời
thường...
Hay hai nhân vật Huệ và Liên trong Tối ba mươi đã tìm đến chính mình
trong những giá trị tinh thần bền vững và thiên liêng nhất là gia đình, quê
hương, làng xóm - chỗ dựa tinh thần duy nhất còn lại, nhưng rồi vẫn phải chịu
giam hãm trong cái đêm ba mươi đầy sương mù, gió lạnh, ngõ tối để chờ tiếng
giao thừa vang lên, nhằm xua đi một năm cũ nặng nề, u ám.
Mặt khác, phía sau phố huyện ấy là những cánh đồng, những con đường
mấp mô vết chân trâu, những lối cỏ ướt đẫm sương sớm, là tiếng ếch kêu ran
mỗi khi chiều về... Không gian này khiến cho người ta thấy đó là một hiện thực

khắc nghiệt và nhân vật của Thạch Lam là những con người nhỏ bé cứ “sống
mòn” một cách đáng thương ở những phố huyện này.
Có thể thấy hầu hết truyện ngắn của Thạch Lam đều sử dụng không gian
hiện thực hằng ngày làm môi trường cho nhân vật hoạt động. Nhưng không
gian hiện thực ở đây được bó hẹp lại trong không gian đời tư, không gian cá
nhân chứ không phải trong không gian xã hội rộng lớn, nên không gian càng
dồn nén, thu nhỏ, đông lại, càng hiu hắt hơn. Chính không gian hẹp đó, nhân
vật bộc lộ bản chất, hành vi, suy nghĩ của mình một cách cụ thể, chân thật nhất
- và khi họ thấy bất lực trước hoàn cảnh thì lập tức ngôn ngữ độc thoại, ngôn
ngữ giấc mơ hiện ra, khi ấy không gian hồi tưởng xuất hiện. Không gian hẹp
mà Thạch Lam quan tâm miêu tả giúp cho nhân vật tự vấn, tự ý thức để đối
chiếu, so sánh niềm vui, nỗi buồn của mình trong từng thời gian một cách cụ
thể.
Nhân vật Dung trong truyện ngắn Hai lần chết hiểu rõ nỗi bất hạnh của
11


mình, cứ sau mỗi lần vùng vẫy, ước mơ thì lại bị nhấn chìm xuống đáy, nhưng
khổ nỗi, không thể chết được, dù toại nguyện mà lại cứ phải sống trong buồn
đau, trói buộc. Sự đối lập giữa mơ ước nhỏ nhoi và hiện thực tàn nhẫn làm cho
cuộc đời cứ chết mòn chết mỏi. Vì vậy, cái không gian phố huyện của Thạch
Lam thường xao xác, là một không gian tù đọng, vô cùng cũ kĩ và không bao
giờ có sự thay đổi.
Bên cạnh cái không gian tưởng chừng không bao giờ có sự thay đổi ấy,
Thạch Lam còn có ý thức chắt chiu cái đẹp, bình dị của đời sống, cái bình dị
không làm giảm đi cái ý nghĩa sâu xa, to lớn về nhân sinh.
Cái đẹp trong truyện ngắn của Thạch Lam còn là cái đẹp trinh nguyên của
thiên nhiên, của “bầu không khí” bao quanh nhân vật. Nhiều người gọi đó là
thiên nhiên tâm trạng. Nó thay đổi cũng với tâm trạng của người trong cuộc.
Mặt khác, thiên nhiên cũng là một nhân vật trữ tình, nó dâng hiến vẻ đẹp cho

con người.
Đó là khung cảnh bình yên, êm ả, toát lên từ một phố huyện lúc hoàng hôn:
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa
hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát (Hai đứa trẻ). Hoặc là cánh đồng lúa
ngày mùa: Cánh đồng lúa chín lóe dưới mặt trời buổi trưa. Từng chỗ ở thửa
ruộng nào đã gặt rồi, gốc rạ lấp lánh như giát bạc. Phía xa, làng mạc ở chân
trời rung động trong ánh nắng (Những ngày mới). Hoặc cảm giác mát lạnh
bỗng trùm lên hai vai của một người từ đường cái rẽ vào một ngõ nhỏ có bóng
tre râm mát; cảm giác mặt trăng nhỏ lại, sáng vằng vặc ở trên không và ru ru
như sáo diều (Đêm trăng sáng)...
Đó cũng có thể là không gian yên tĩnh, nhẹ nhàng của thiên nhiên nông
thôn thấm đẫm trong cảm xúc trở về của Thanh (Dưới bóng hoàng lan): Ngoài
vườn trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tà áo trắng của Nga.
Những búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào trong kẽ lá. Gạch
12


mát và phủ rêu khiến Thanh nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga ngày nào
đi trên đó. Không gian đầy sắc màu và thanh khiết ấy đã khiến cho chàng thấy
mát hẳn cả người... Một mùi tươi non phảng phất trong không khí... Yên tĩnh
quá, không một tiếng động nhỏ trong vườn, tựa như bao nhiêu ồn ào ở ngoài
kia đều ngừng lại trên bực cửa.
Những bức tranh thiên nhiên ấy rất có hồn, bởi bao giờ nó cũng thấm đẫm
hơi thở của đất trời, sông nước, làng mạc quê hương. Trong những bức tranh
ấy, dường như là cảnh vật, màu sắc, hương vị... đã làm thành một thứ “không
khí” rất đặc biệt, mở ra một sự giao cảm tuyệt vời giữa con người và ngoại
cảnh, tạo thành một không gian tươi mới và đầy sức sống.
Tất cả thế giới nghệ thuật của Thạch Lam đều sử dụng không gian hiện
thực như vậy. Bên cạnh không gian rộng mở, tươi mới của cuộc sống, còn có
một xã hội nhân sinh bị thu nhỏ lại, bị dồn nén mà trong đó còn có những kiếp

người cam chịu, mòn mỏi. Không gian hiện thực ấy còn có ý nghĩa tích cực
khác trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn: nó gợi cho người đọc
cảm giác thèm khát một không gian thoáng đãng và rộng rãi; đầm ấm và chan
chứa tình người.
2.2. Không gian bi kịch sau bi kịch
Một kiểu không gian khác trong toàn bộ tác phẩm Thạch Lam là không
gian bi kịch sau bi kịch. Mới nhìn tưởng như là nhà văn tàn nhẫn với con người
nhưng thực ra ông là nhà văn hiện thực nghiêm ngặt và nhân đạo. Bởi vì sau bi
kịch ấy là tiếng lòng, tiếng gọi khẩn thiết đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho
con người.
Nỗi đau đời của Thạch Lam nằm sau câu chữ, sau hình tượng. Ông tỉ mỉ và
chính xác đến tận cùng, không ngần ngại chỉ ra cái bi kịch nhân gian và đẩy nó
lên đỉnh điểm. Có thế, mới thấy cái giới hạn mà bước nhảy vọt sớm muộn gì
cũng sẽ xảy ra. Bước nhảy vọt sang một hoàn cảnh tốt đẹp hơn sẽ diễn ra khi
13


nào? Chưa bao giờ Thạch Lam nói ra điều ấy. Bi kịch của Dung (Hai lần chết)
càng bi kịch hơn dẫu cô đã quyết định kết liễu cuộc đời để được giải thoát.
Nhưng có được đâu, nước mắt tủi buồn lăn trên má khi trông thấy dòng sông
chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này, về nhà
chồng, mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu được [2; 263].
Trong truyện ngắn Cô hàng xén, bên cạnh cảnh náo nhiệt của buổi chợ mà
Tâm ngày nào cũng chứng kiến, còn lại là tâm trạng. Tâm ra về trên con đường
làng lúc đêm tối sương mù ảm đạm phủ cả cánh đồng và gió lạnh nổi lên, lòng
se mệt, khiến Tâm mơ hồ, miên man nghĩ về em, về mẹ và những nỗi niềm
riêng tư, uẩn khúc. Chính không gian tối đen, thăm thẳm ấy giúp Tâm hiểu
được cuộc đời mình như tấm vải thô sơ, ngày nào cũng như ngày nào và nàng
phải chạy vào cái khoảng tối dày đặc ấy để trốn cái tai ương mà nàng sắp đón
nhận.

Hay cái chết của mẹ Lê là một bản cáo trạng buộc tội sâu sắc bọn cường
hào, ác bá ở nông thôn. Những ngày mùa màng vất vả là những ngày nhà mẹ
Lê được sung sướng nhất. Họ đi làm mướn, đi mót lúa, có lúa đem về xay
thành gạo thổi cơm. Những buổi tối cả nhà xúm xít quanh nồi cơm nóng bốc
hơi cho dù bên ngoài có gió lạng rít qua từng mái tranh, kẽ lá. Những ngày vui
như thế không nhiều. Mùa đông đến gió bấc thổi hun hút, đồng ruộng trơ
cuống rạ, ao hồ cạn nước không còn tôm cá để bắt, nguồn thức ăn nhà mẹ Lê
trông đợi không còn. Cả nhà lâm vào cảnh đói rét. Trước tình cảnh đó , mẹ tìm
đến ông Bá giàu có nhất làng để vay gạo. Nhưng ông Bá không những không
cho mà còn thả đàn chó ra đuổi. Mẹ Lê bị chó cắn chết.
Cái chết của mẹ Lê đã kết thúc bi kịch của cuộc đời người nông dân nghèo
khổ, nhưng đồng thời lại mở ra một bi kịch mới. Đó là bi kich của những đứa
con thơ dại trong căn nhà lạnh lẽo, âm u và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè
lên lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo
14


khổ cú đeo đuổi mãi không biết bao giờ dứt [2; 249].
Không gian trong Sợi tóc lại là một không gian mờ ảo giữa cao thượng và
thấp hèn, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái tốt đẹp và xấu xa, bần tiện. Mà có
lẽ ranh giới ấy chỉ mờ nhạt mong manh như “sợi tóc”, một làn khói mơ hồ,
giống như cái sân khấu của không gian tuồng chèo và thế giới bên ngoài dường
như không có khoảng cách mà đôi khi lại hoà làm một. Chỉ cần vượt qua ranh
giới ấy, kẻ lương thiện cũng có thể gây tội lỗi, người cao thượng cũng có thể
thấp hèn. Con người được vây lấy một một không gian tiềm thức vô tận. Ở đó,
họ dằn vặt, họ sống với những bi kịch của đời giống như trò đùa của tạo hóa.
Bi kịch nối tiếp bi kịch, cái không gian mà nhân vật của Thạch Lam sống
cứ bí bách, ngột ngạt như thế! Những ám ảnh về sự nghèo đói khiến họ cảm
thấy khinh bỉ, mỉa mai, chua xót với đời.
Chính không gian bi kịch sau bi kịch đã làm xuất hiện nhiều kiểu không

gian phát sinh khác: không gian hồi tưởng, không gian khát vọng trong tác
phẩm của Thạch Lam. Bao giờ cũng thế, khi hiện tại xấu xa, mù mịt thì con
người thường quay về với quá khứ để so sánh, đối chiếu và mơ ước tương lai
(dẫu tương lai ấy chưa thể có). Diên (truyện ngắn Trong bóng tối buổi chiều)
trong căn phòng chật chội, tối tăm tưởng chừng nghẹt thở, chàng đã hồi tưởng
đến cánh đồng ruộng quê hương đầy ánh sáng ban mai, nhưng rồi cái quá khứ
ấy không khỏa lấp được nỗi buồn và sự nghèo hèn của anh trong hiện tại Diên
thấy tủi thân rớm nước mắt, anh nấc lên một tiếng rồi cúi đầu chạy trốn trong
bóng tối của buổi chiều vừa xuống.
Hay khi vừa nghĩ đến những ngày đói rét, khổ sở đã qua, đến mấy năm nay
phải sống trong cảnh nghèo hèn, Sinh uất ức, căm giận cho chính số phận của
mình (truyện ngắn Đói). Sự đau đớn bủa vây lấy Sinh trong không gian chật
hẹp. Sinh phải lựa chọn giữa việc ăn và không ăn những miếng bánh ô nhục mà
vợ bán thân để đem về cho mình. Sinh chửi vợ, hắt đồ ăn xuống đất. Nhưng khi
15


vợ đi khỏi, cái đói ập đến cồn cào khiến Sinh bỏ qua mọi tự ái của mình để ăn
vội vàng, không kịp nhai, không kịp nuốt thức ăn do vợ mang về. Sinh khinh bỉ
mình, chua xót cho thân phận mình, Sinh thực sự đã khóc. Có thể nói không
gian lúc này đã hòa quyện vào thời gian của nhân vật - không gian tâm tưởng,
khiến cho nhân vật sống thật với chính mình với tất cả những vui buồn, đau
đớn...
Hành trình trở về với quá khứ, với những hồi tưởng, những kí ức miên man
về một thời đã qua đã mở rộng thời gian và không gian quá quãng, vừa giúp
nhân vật tìm lại dáng vẻ đã khuất của mình nhưng cũng vừa đẩy chính họ vào
bi kịch.
Những hoài niệm về một thời trẻ dại ở quê hương với những chuỗi ngày
bình yên, trong sáng như thiên thần, là điểm sáng soi rọi cho cuộc đời tăm tối
và nhơ nhớp của hai cô gái điếm Liên và Huệ, giúp cho họ trong bùn lầy vẫn

giữ được khoảng sáng riêng cho mình (Tối ba mươi). Nhưng điểm sáng soi rọi
ấy vô tình lại đẩy họ đến một bi kịch dường như không còn lối thoát. Đêm ba
mươi Tết lẽ ra là đêm sum họp gia đình thì hai cô gái ế khách, không tiền, ngồi
buồn rầu nhớ lại những kỉ niệm trong trắng thời xưa của mình. Càng hoài niệm
càng đau khổ. Không gian tâm tưởng chẳng qua chỉ làm roc thêm tâm trạng mà
thôi: Huệ gục xuống vai bạn không trả lời. Nước mắt ứ lên rồi lặng lẽ trào ra
má. Nàng quàng tay ôm hết sức chặt lấy Liên [2; 278].
Không gian bi kịch còn hiện diện rõ qua những tâm hồn trẻ thơ trong cuộc
sống tù đọng, quẩn quanh, mòn mỏi. Trong phố huyện nghèo nàn, đêm nào
cũng vậy, hai chị em Liên và An (Hai đứa trẻ) cũng cố thức đợi cho bằng được
chuyến tàu từ Hà Nội về lúc mười hai giờ đêm rồi mới đi ngủ. Hai chị em đợi
tàu không phải để đón người thân, để bán hàng, mà chính đoàn tàu đem đến
cho chúng một thế giới khác: Đó là sự huyên náo, rực rỡ, đẹp đẽ như một ánh
sáng cổ tích, tương phản hoàn toàn với thế giới tù đọng mà chúng đang sống.
16


Đoàn tàu đêm nào đến rồi cũng vụt đi, để lại những bâng khuâng, xao động
trong tâm hồn hai đứa trẻ, mang theo cả nỗi niềm của chúng khuất dần vào đêm
tối. Từ cái khoảnh khắc vụt sáng ấy, chúng khao khát và ước mơ đến những thế
giới khác sáng sủa, đẹp đẽ hơn. Nỗi khát khao chờ tàu của hai đứa trẻ gợi lên
niềm thương cảm, xót xa trong lòng người đọc. Cả truyện gợi lên một nỗi buồn
hiu hắt, đậm đà hương vị đồng quê, nhiều bóng tối nhưng cũng chói sáng một
tình thương yêu hiền hòa, nhân hậu của tác giả, phảng phất chất thơ tỏa lên từ
quê hương đất nước.
Bên cạnh cái nghèo, cái đói, Thạch Lam ý thức được rằng những giá trị đạo
đức truyền thống là cái không bao giờ có thể đánh đổi. Con người ý thức sâu
sắc về bi kịch giàu - nghèo như Tâm (trong Trở về) sẽ không bao giờ nhận ra
một điều rằng chính cái không gian cuộc sống tưởng chừng sung túc của anh
đã gây ra nhiều bi kịch khác.

Tâm giàu có, nhưng Tâm cũng bi kịch trong khát vọng giàu sang của mình.
Tâm trở về với “cảnh cũ người xưa” trong tình thế bất đắc dĩ. Tâm bị đẩy vào
một không gian mà mọi đường về đã bị cắt đứt , trước hết là bẻo đường trong
tâm thức anh ta. Sự thân mật của người xưa chỉ làm cho anh khó chịu, bởi Tâm
sợ họ nhờ vả mình. Tâm sợ sự nghèo nàn, cũ kĩ của quê hương mình, của chính
người thân trong gia đình mình và tự phụ rằng may mà mình thoát khỏi tình
cảnh đó. Đối với Tâm dĩ vãng là dĩ vãng, không thể có sự hòa hợp với hiện tại.
Thạch Lam phê phán Tâm - một con người đã đánh mất những giá trị đạo
đức, một con người được cho là tri thức của thời đại. Từ bi kịch của chính bản
thân mình, Tâm đã đẩy chính mẹ của mình vào không gian bi kịch. Khi thấy
mẹ đứng ngay bên lề đường vầ nhận ra mình, Tâm vỗi vã lái xe đi, làm bắn cả
bùn đất lên người mẹ tội nghiệp.
Các câu truyện cứ kết thúc ngập ngừng như thế khiến cho không gian cứ
giãn rộng ra. Nhân vật sống trong bi kịch và đằng sau những bi kịch ấy lại chứa
17


đựng muôn vàn bi kịch khác của một kiếp người.
Vậy cái không gian bi kịch sau bi kịch mà Thạch Lam miêu tả là một tất
yếu. Nó như sự kéo dài, sự giãn ra một cách chậm chạp, nặng nề, kéo lê kiếp
đời đau khổ của con người dưới xã hội cũ. Con người trong tác phẩm của
Thạch Lam phải tiếp tục cuộc đời buồn tủi trong không gian tù hãm, trong bốn
bức tường nhà xăm... Ngay trong tiểu thuyết Ngày mới, không gian khát vọng
cũng bấp bênh dù có hé ra một tia hi vọng khi Tâm chợt thấy ở chân trời xa cái
khoảng mờ của tỉnh thành Hà Nội.
Nhưng Thạch Lam là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Ông không thể không an
ủi và mong muốn con người được sung sướng và hạnh phúc. Lòng nhân ái ấy
bàng bạc trong tác phẩm của ông, hé ra một chút ánh sáng và hy vọng cho con
người, dù mong manh. Trong không gian trầm mặc, u tối, tiếng tàu xình xịch
với hồi còi inh ỏi trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, tiếng tre kĩu kịt ngỡ là tiếng

chim trong đêm mưa trong truyện ngắn Tiếng chim kêu, tiếng rao đêm của anh
xích lô vắng khách trong truyện ngắn Điều ân hận...
Đó chính là không gian khát vọng, không gian nhân bản mà tác giả thấp
thoáng nhìn thấy và đưa vào tác phẩm như một thủ pháp nghệ thuật để tạo cho
không gian không khí êm dịu, đỡ ngột ngạt, căng thẳng và tạo niềm vui an ủi
con người. Đó là điều mà Thạch Lam hằng tâm niệm: Văn chương là một thứ
khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo và thay đổi một
cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và
phong phú hơn.

18


KẾT LUẬN
Bức tranh nghệ thuật sinh động trong truyện ngắn Thạch Lam không chỉ tái
hiện đời sống hiện thực vô cùng sinh động, mà còn là đời sống tâm hồn, tính
cách của mỗi nhân vật. Ở đó, trong cái không gian thực tại, con người sống và
khát khao về một chân trời rộng mở, họ sống với chính cuộc đời mình. Cho dù
thực tại có khắc nghiệt đến nhường nào, bi kịch như thế nào đi chăng nữa, họ
vẫn chấp nhận nó như một sự tất yếu của cuộc đời.
Đinh Tùng đã từng nhận xét rằng: Thạch Lam là người nghệ sĩ của cái đẹp
toàn diện. Có thể nói Thạch Lam đã sử dụng linh hoạt và thành công yếu tố
không gian nghệ thuật. Từ những đặc điểm về hai không gian nghệ thuật chủ
yếu nêu trên đã kéo theo nhiều kiểu không gian nghệ thuật phát sinh khác như:
không gian quá khứ, không gian đồ vật, không gian khát vọng, không gian tâm
linh... Tất cả các kiểu không gian này đều góp phần lý giải sự vận động của
tính cách, tình cảm của nhân vật và tư tưởng của nhà văn.
Vì vậy không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam không chỉ là
không gian trong truyện xoay quanh nhân vật mà còn có sự chuyển hóa thành
không gian người đọc làm cho họ cùng đau buồn, cùng chia sẻ với số phận của

nhân vật.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010.
2. Nguyễn Hoàng Khung (chủ biên), Truyện ngắn Việt Nam 1930-1945, NXB
Giáo dục, 2004.
3. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 2006.
4. Trần Đình Sử, Giáo trình Thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục, 1993.
5. Trần Đình Sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục, 1993.
6. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt
Nam, 1987.

20



×