Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.53 KB, 21 trang )

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU
MỞ ĐẦU
Nguyễn Minh Châu là nhà văn có tình yêu thương tha thiết với con người,
mang một mối quan hoài thường trực về số phận và những nỗi đau khổ của con
người ở xung quanh mình. Nhà văn muốn dùng ngòi bút của mình tham gia trợ lực
cho con người trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, đồng thời luôn đặt
niềm tin vào con người, ở khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi người. Tư
tưởng nhân bản là cơ sở vững chắc của mọi tìm tòi, khám phá sáng tạo của nhà
văn. Trên hướng đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người xuất sắc kế tục những
nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn trong nền văn học dân tộc. Hành trình văn học của
Nguyễn Minh Châu trải qua gần 30 năm với hai giai đoạn trước và sau 1975, gắn
liền với hai giai đoạn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nguyễn Minh Châu đã
có những tác phẩm góp phần đáng kể vào thành tựu của văn xuôi thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, nhưng vị trí và đóng góp nổi bật của ông là ở giai đoạn sau 1975,
trong vai trò của người đi tiên phong mở đường cho công cuộc đổi mới văn học.
Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người”...“Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn
mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương
con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa
là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh
phúc của những người chung quanh mình”.
Sự đổi mới văn học phải được bắt đầu từ sự đổi mới các quan niệm về văn
chương, về mối quan hệ của nhà văn với hiện thực và với công chúng. Ngay trong
những năm chiến tranh, khi sáng tác những tác phẩm mang đậm không khí sử thi
hào sảng của thời đại, Nguyễn Minh Châu đã thầm lặng suy nghĩ về những bước đi
1


sắp tới của nền văn học khi cuộc chiến đấu giành độc lập tự do của dân tộc đã hoàn
thành. Ông viết trong nhật ký: “Trong cuộc chiến đấu để giành lại đất nước với kẻ


thù bên ngoài hai mươi năm nay, ta rèn cho dân tộc ta bao nhiêu đức tính tốt đẹp
như lòng dũng cảm, sự xả thân vì sự nghiệp của Tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó, hai
mươi năm nay ta không có thì giờ để nhìn ta một cách kỹ lưỡng. Phải chăng bên
cạnh những đức tính tốt đẹp thì tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc,
vụ lợi, còn được ẩn kín và có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức lộ liễu. Bây giờ ta
phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho từng
con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới
lâu dài”.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn được mệnh danh là vị khai quốc công thần
của triều đại văn học mới, “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên
Ngọc). Ông quan niệm rằng “thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt
ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nếu trước năm 1975, nhà văn đi
tìm hạt ngọc ấy trong chất sử thi anh hùng với những tác phẩm tên tuổi như: Mảnh
trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông…thì sau năm 1975, nhà văn
khám phá vẻ đẹp của hạt ngọc ấy trong những con người đời thường lam lũ nhọc
nhằn, tiêu biểu là truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa , Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành, …
Như vậy, vấn đề con người luôn luôn là tâm điểm trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu trước và sau năm 1975. Trong toàn bộ khối lượng tác phẩm của ông,
người ta tìm thấy những trang viết là niềm rung cảm với con người. Từ đó hình
thành một quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu rất rõ rệt. Dù trước hay sau năm 1975, trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu
vẫn thể hiện một sự nhất quán quan niệm nghệ thuật về con người, như đã nói, là
con người với lấp lánh chất ngọc ẩn sâu trong tâm hồn …
2


Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn sẽ giúp chúng ta
hiểu hơn tư tưởng nghệ thuật của nhà văn và giá trị tác phẩm văn chương của chính
nhà văn đó. Vấn đề này với Nguyễn Minh Châu trên thực tế ít nhiều đã được tìm

hiểu, phân tích, chỉ rõ. Người viết tiểu luận này mong là người tổng hợp lại những
nghiên cứu đó để góp phần đưa Nguyễn Minh Châu đến gần hơn nữa với người
đọc các thế hệ sau này.
NỘI DUNG
I. Quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật là quan điểm của người nghệ sĩ được hóa thân, thăng
hoa vào tác phẩm. Như Bác Hồ đã từng phát biểu: “Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong” (“Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”), hoặc Nam
Cao mượn lời nhân vật Điền mà nói lên quan niệm nghệ thuật của mình trong
Giăng sáng: "Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh
trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp
người lầm than". Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm
thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người
của người nghệ sĩ nói riêng và thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử
cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm
hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người
được thể hiện trong tác phẩm của mình”. Nghĩa là, quan niệm nghệ thuật về con
người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người được thể hiện thành các
nguyên tắc, phương tiện, biện pháp trong các tác phẩm văn học, từ đó, thấy được
giá trị và chiều sâu triết lí của tác phẩm. Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa
quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời
sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù
phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, làm thành thước đo của hình thức
3


văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật”. Nhìn chung, tuy khác nhau về cách
diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan
niệm nghệ thuật về con người. Chúng ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con
người một cách khái quát như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu

là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà
văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao
giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể,
ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng.
Quan niệm nghệ thuật về con người là cách cắt nghĩa “có tính phổ quát, tột cùng
mang ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả con người”.
Nhưng mọi cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách lí giải về con người của nhà văn
đều là sản phẩm của lịch sử, xã hội và văn hóa thời đại nhà văn sáng tác. Không
chỉ vậy quan niệm nghệ thuật về con người còn mang dấu ấn sáng tạo của cá tính
nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ. Bởi vậy, quan niệm nghệ thuật về con người
của văn học trung đại sẽ khác văn học hiện đại, và mỗi nhà văn sẽ có một quan
niệm nghệ thuật về con người khác nhau. Quan niệm nghệ thuật về con người tạo
thành nhân tố vận động của nghệ thuật. Và khi nhà văn miêu tả những con người là
kết quả của sự vận động ấy thì sẽ làm văn học đổi mới. Quan niệm nghệ thuật
về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây
là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học nói
riêng và thành tựu của người nghệ sĩ nói chung.
Trong văn học, quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện ở các phương diện
khác nhau: qua mô hình nhân vật, qua các nguyên tắc xây dựng và miêu tả nhân
vật, qua cách tổ chức nhân vật, cốt truyện và qua hệ thống điểm nhìn của người kể
chuyện. Việc tìm ra, phát hiện ra quan niệm nghệ thuật về con người của nahf văn
qua các tác phẩm giúp ta tìm ra hệ quy chiếu, cái lí, cái logic bên trong của các
nguyên tắc, biện pháp miêu tả nhân vật cụ thể trên văn bản tác phẩm, từ đó giúp
4


chúng ta hiểu được chiều sâu của tác phẩm, của phong cách nhà văn.
II. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của các nhà văn trước
và sau năm 1975
Vì Nguyễn Minh Châu là nhà văn có thành tựu văn học từ những năm kháng

chiến chống Mĩ nên trong tiểu luận này, chúng tôi sẽ trình này những nét cơ bản
nhất quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của các nhà văn trước và
sau năm 1975.
Con người trong văn học kháng chiến chống Pháp là con người tập thể,
thường được miêu tả như những đám đông nổi bật lên như là từng nhóm người,
phải tìm thấy cái hay trong con người tập thể ấy. Con người này tuyệt vời trong
sáng và vô tư, họ có một tinh thần xả thân tuyệt vời. Đó là con người chuyển hóa,
chưa hình thành con người hoàn chỉnh trọn vẹn. Đó là con người vừa bước ra khỏi
cuộc đời cũ, đặt chân lên con đường của cuộc sống mới và sung sướng đón chào
cuộc sống mới. Đó là con người tập thể - chuyển hóa. Sang giai đoạn hòa bình,
vấn đề số phận cá nhân được đặt ra nhưng vẫn là cá thể của tập thể. Các sáng tác
của Nguyễn Huy Tưởng, Trần Đăng, Tô Hoài, Nam Cao, … và Nguyễn Minh Châu
đã thể hiện rõ điều đó.
Bước sang thời kỳ chống Mỹ, văn học xuất hiện con người xả thân. Trong
kháng chiến chống Pháp cũng có con người xả thân. Nhưng nếu trong kháng chiến
chống Pháp con người xả thân một cách hồn nhiên, chưa suy nghĩ nhiều về sứ
mệnh lịch sử trước thế giới mà chỉ lo khát vọng đổi đời, thì trong văn học chống
Mỹ con người ý thức rất rõ về sự xả thân vì sứ mệnh lịch sử của mình. Đó là con
người chủ yếu trong chiến đấu và sản xuất, con người vươn lên cuộc sống đạo đức.
Sáng tác của các nhà văn thời kỳ chống Mỹ như Nguyễn Thi, Nguyễn Trung
Thành, Nguyễn Quang Sáng, Hữu Mai … và Nguyễn Minh Châu đã chứng minh
cho sự xuất hiện của hình tượng con người này.

5


Sau năm 1975 mới có con người sinh hoạt, con người riêng tư, tức là con
người thế sự. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cũng được coi là một mảng đóng
góp quan trọng, và như đã nêu, Nguyễn Minh Châu được coi là người mở đầu tinh
anh và tài năng trong văn học thời kỳ đổi mới.

III. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu trước và sau 1975
1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 tại làng Thơi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nông dân khá giả, là con út trong một
gia đình có sáu anh chị em. Nguyễn Minh Châu được tạo điều kiện học hành khá
chu đáo, học ở quê rooid vào Huế, thi đỗ bằng Thành chung năm 1945. Đầu năm
1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An,
Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội. Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi
dự hội nghị bạn viết toàn quân. Năm 1960, ông được điều động về cục Văn hóa
quân đội, rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội vừa làm biên tập vừa làm phóng viên.
Trong thời gian này, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện
ngắn đầu tay nhưng chưa được dư luận quan tâm. Sự nghiệp văn học của Nguyễn
Minh Châu chỉ được khẳng định trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn
tiểu thuyết Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện
ngắn Những vùng trời khác nhau (1970). Với kinh nghiệm vốn sống và tâm hồn
giàu lòng trắc ẩn với con người, từng có nhiều chuyến đi thực tế trên chiến trường
từ Quảng Bình, Vĩnh Linh đến đường 9 Nam Lào và đặc biệt là chiến trường
Quảng Trị - nơi diễn ra nhiều chiến dịch hết sức quyết liệt trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, nhà văn đã phản ánh kịp thời những hình ảnh sinh động của cuộc chiến
đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ,
đồng thời, ông cũng có phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống xã hội
và số phận con người trong chiến tranh. Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu
6


đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học thời chiến tranh và dũng cảm tìm
kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản
năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại một sắc diện mới trong
sáng tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ra mắt bạn đọc ở

nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới về hiện
thực và con người, khiến Nguyễn Minh Châu trở thành một trong những “người
mở đường tinh anh và tài năng nhất của công cuộc đổi mới văn học” (Nguyễn
Khải). Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), ông đã có những phát biểu trực tiếp
cùng với những sáng tác đã đạt đến độ chín của tư tưởng và nghệ thuật thể hiện sự
tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà. Nhưng vì mắc bệnh hiểm
nghèo, Nguyễn Minh Châu đã qua đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 khi nhiều dự
định sáng tác còn đang ấp ủ.
Về đặc điểm con người, Nguyễn Minh Châu đã từng tự nhận xét: "Từ lúc còn
nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho
đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi
chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và
bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ" (trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi
buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108).
Nhưng trên thực tế, ông là một con người nhiều ưu tư trăn trở, có niềm tin vững
chắc vào sự lựa chọn của mình và một ý chí kiên định con đường đã chọn, dám
chấp nhận mọi khó khan, thách thức, mà có người gọi đó là “sự dung cảm rất điềm
đạm”. Tính cách ấy đã được nhà văn truyền vào nhân vật trong các tác phẩm của
mình, để nhân vật tỏa sáng. Nguyễn Minh Châu cũng là một nhà văn luôn suy nghĩ
về chính công việc viết văn của mình, với ý thức trách nhiệm của ngòi bút trước
thời đại, trước dân tộc và trước bạn đọc.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vinh dự được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh,
giải thưởng cao nhất cho những sáng tác Văn học Nghệ thuật. Người con làng Thơi
7


đã đi trọn con đường đời của mình với những ngẫm ngợi riêng, đóng góp riêng vào
ngôi đền văn học. Cuộc đời cầm súng, cầm bút của ông, của thế hệ ông là một cuộc
đời nhiều gian nan, thử thách và vô cùng đẹp đẽ. Mồ hôi, xương máu và nước mắt
thế hệ ấy đã đổ xuống cho tươi xanh hôm nay, cho nụ và hoa, cho trái ngọt của

buổi bình minh mới. Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông, chúng ta
thấy tin yêu hơn cuộc sống này.
2. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang mới đối
với đất nước và con người Việt Nam, chấm dứt ngàn năm chế độ phong kiến, hơn
tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp, để bắt đầu một thời đại mới - thời đại độc
lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng
phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì gian khổ
nhưng cũng rất hào hùng. Mọi đổi thay ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam
những sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm
nghệ thuật về con người.
Nếu con người trong văn học Việt Nam chặng 1945 - 1954 là “con người
tập thể”, “thức tỉnh về sức mạnh của cộng đồng”, “tham dự vào các biến cố lịch
sử, gánh vác cuộc kháng chiến qua các tổ chức, các đoàn thể của mình”, “ít có
những dằn vặt, suy tư, giằng xé nội tâm”, “dứt khoát, toàn tâm vì sự nghiệp
chung, hòa mình trong tập thể”; nếu con người trong văn học Việt Nam chặng
1955 - 1964 là “con người trong sự thống nhất riêng - chung”, “nhìn nhận giải
pháp duy nhất để giải quyết các số phận cá nhân và khát vọng hạnh phúc của con
người là sự hòa nhập với tập thể, cách mạng và cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa”;
thì con người trong văn học Việt Nam chặng 1965 - 1975 là mang vẻ đẹp của chủ
nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cuộc kháng
8


chiến chống Mĩ của dân tộc ta tuy vô cùng ác liệt, dữ dội nhưng đã khơi dậy được
sức sống tiềm tàng, ý chí đấu tranh, tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam.
Tất cả kề vai, sát cánh để phục vụ tiền tuyến, hướng đến chiến thắng. Văn học
chặng này đã nhanh chóng “nhập cuộc”, khai thác và thể hiện con người “trên
phương diện con người chính trị, con người công dân, nhưng mỗi cá nhân như là
biểu hiện tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc,

thậm chí của thời đại, của nhân loại”.
Với quan niệm con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ở thời kì trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã
xây dựng nên những hình mẫu nhân vật mang đậm cảm quan nghệ thuật của nhà
văn. Ông quan niệm một cách nhân bản: “Văn học và đời sống là những vòng tròn
đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Con người trong tác phẩm Nguyễn Minh
Châu trước hết là con người có lí tưởng sống cao đẹp, ý thức được tầm vóc lịch sử
và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Cô giáo Thùy trong Cửa
sông (1966) đã “dành một phần nhỏ thì giờ biên thư cho các học sinh của mình
hiện đang ở các đơn vị bộ đội” vì đã tự coi mình như “một người con gái ở hậu
phương có nhiệm vụ đem đến cho họ những lời động viên, có nhiệm vụ săn sóc các
chiến sĩ ngoài mặt trận”. Thùy luôn cố gắng “tìm cách không tách mình ra khỏi
cái guồng máy sinh hoạt chung của nhân dân đang hối hả chuyển sang thời
chiến” bởi như thế là ích kỉ, là coi trọng hạnh phúc cá nhân. Với Cửa sông,
Nguyễn Minh Châu viết về hình ảnh một làng quê hiền hoà bên sông Kiều, dòng
sông thơ mộng, những con người hồn hậu và bình dị của ngôi làng nhỏ bé ven
sông, nhưng trong khói lửa chiến tranh, mỗi người đều được trui rèn, hun đúc và
trở thành những người con quả cảm và gan dạ bên bến sông, kể cả cô giáo Thùy bé
nhỏ và hiền dịu năm nào... “Thùy cảm thấy trong khuôn ngực bé nhỏ của mình như
có một con chim đang vỗ cánh chực bay tung ra. Cô thở rất mạnh. Tuy đã ở làng
9


Kiều bao nhiêu năm, đã ra vào cái trụ sở hợp tác xã này bao nhiêu lần, nhưng hôm
nay, đứng ở đây, cô vẫn không sao khỏi bỡ ngỡ như người vừa mới đến. Thuỳ nhìn
lá cờ đỏ, trong lòng rất xúc động nghĩ đến bao nhiêu người đảng viên cộng sản của
làng Kiều đã ngã xuống...” Tiểu thuyết Dấu chân người lính nhằm ghi lại những
khoảnh khắc của cuộc chiến tranh tàn khốc cũng như khắc họa người lính cách
mạng với hàng chục nhân vật thuộc các thế hệ khác nhau, đến với quân đội từ
những vùng miền, những hoàn cảnh xuất thân khác nhau nhưng họ đều mang

những phẩm chất chung là lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với Tổ quốc,
niềm say mê chiến đấu và tâm hồn trong sáng. Đông đúc và sinh động nhất là thế
hệ trẻ, thế hệ trưởng thành trong chế độ mới ưu việt. Đọc Dấu chân người lính,
chúng ta có thể tìm về những giây phút sinh tử trong chiến tranh, tinh thần trách
nhiệm và chiến đấu cao độ và những tình cảm đồng điệu của những trái tim yêu
nước. Với cốt truyện phát triển từ nhiều điểm nhìn, tác giả lần lượt miêu tả những
nhân vật như Kinh, Lữ, Nhẫn, Lượng, Khuê, Cận, Nết, Xiêm,…xoay quanh chiến
dịch tại mặt trận Khe Sanh. Khuê là một chiến sĩ cần vụ thông minh, khéo léo,
nhạy bén, là cấp dưới của chính ủy Kinh, một cán bộ đầy lý tưởng, đầy hoạt
bát, đức độ và tình cảm, luôn quan tâm đến cấp dưới của mình. Trong những ngày
làm việc chung với chính ủy Kinh đã để lại trong lòng Khuê sự kính phục, yêu
mến. Nhẫn là trung đoàn trưởng trung đoàn 5, là một con người thanh lịch nhưng
nghiêm khắc, đó là biểu hiện trong tính cách của một cán bộ xuất thân tiểu tư sản
đã được rèn luyện một cách khắc khổ. Anh là cấp trên của Lượng, đại đội trưởng
đại đội trinh sát. Kinh, Khuê, Nhẫn, Lượng cùng làm việc với nhau, mỗi người mỗi
tính nhưng có chung một điểm đó là những con người tràn trề nhiệt huyết, chiến
đấu kiên cường và tin tưởng mãnh liệt vào sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. Trên
mỗi bước đường họ đi là biết bao kỉ niệm, bao câu chuyện cảm động về tình người,
ở đó không những có tình anh em, tình đồng đội mà còn có cả tình yêu đôi lứa.
Những người lính trong Dấu chân người lính (1972) đều xác định được trách
10


nhiệm cao cả của thế hệ mình trước tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất nước.
Không chỉ sống có lí tưởng và nhận thức được vai trò của mình trong cộng đồng,
con người của văn học kháng chiến chống Mĩ còn thể hiện lí tưởng và nhận thức ấy
thành hành động, ý chí. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu thường được đặt
trong những hoàn cảnh thử thách ngặt nghèo, trước những tình huống phải lựa
chọn giữa sống và chết để “càng làm kiên định ý chí cách mạng và bộc lộ sáng
chói chủ nghĩa anh hùng” (Nguyễn Văn Long). Nguyệt, cô gái đi nhờ xe

trong Mảnh trăng cuối rừng (1970), đã để cả quần áo “nhanh nhẹn lội phăng
sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời vào một gốc cây”, đã nấp ở mé ngoài để che
chở cho Lãm vì “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó!”, đã bình tĩnh,
rành rọt chỉ đường cho Lãm và khi bị thương vẫn tươi tỉnh, xinh đẹp. Trong Dấu
chân người lính, ta thấy hình ảnh của người lính anh dũng trong chiến đấu thông
qua thủ trưởng Kinh. Kinh được hiện lên trong tác phẩm chỉ với một con mắt, mắt
kia bị mất trong một trận đánh. Nguyễn Minh Châu vẽ lên một con người uy
phong, lẫm liệt đứng giữa bom đạn với bộ quân phục không lành lặn, “Trong bóng
tối, khuôn mặt Kinh già đi. Tiếng nói của ông cũng già đi. Nhưng lát sau đã nghe
tiếng ông nói oang oang át cả tiếng máy bay trinh sát và tiếng tít từng bầy phản lực
thỉnh thoảng rẹt qua cầu. – Kẻ địch không thể ngăn được chúng ta”. Chỉ cần nghe
giọng nói cũng có thể thấy sự dũng cảm của người chính ủy, chỉ sự gan dạ một
lòng đánh giặc ấy mới có khả năng át đi tiếng động cơ của máy bay. Kinh là một
người lãnh đạo sáng suốt, rất điềm tĩnh trong những trường hợp khó khăn, luôn
đưa ra những quyết định đúng đắn trước những tình thế khẩn cấp. Nhận được lệnh
xuất kích, từ chính ủy Kinh đến những người lính thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5
(tiểu thuyết Dấu chân người lính) đều náo nức xen lẫn hồi hộp. Họ mang súng và
một số cơ đạn, dây lưng to thắt rất chặt, mặt nghiêm trang, chuyện trò ít đi, ai nấy
đều nghĩ đến cuộc chiến đấu mở màn sắp tới với quyết tâm “làm sao cho đơn vị
mình đánh thắng trận đầu, nhất thiết phải đánh thắng giòn giã trận đầu”.
11


Là con người của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn, nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 đã
kết tinh được phẩm chất của con người Việt Nam, tiêu biểu cho vẻ đẹp cộng đồng.
Trong tiểu thuyết Cửa sông, người đọc cảm phục Bân có tình đồng chí gắn bó, keo
sơn - anh thầm hứa với lòng mình, nhất định sẽ trả thù cho Ái, sẽ sống xứng đáng
với sự hi sinh của Ái; thương mến sự lạc quan, vui tươi của Tốt - cô hát nhiều, cười
nhiều trước hôm đi dân công mở đường đợt sáu tháng tận miền tây khu Bốn. Chính

Thùy cũng đã từng nghĩ: “mỗi tấc đất làng Kiều, mỗi con người quen biết mà mình
từng chung sống, từng dạy dỗ con cái họ đều có một cuộc đời gắn liền với lịch sử
đất nước đầy thử thách, mỗi người đều mang trong lòng bao điều tốt đẹp mà mình
có thể học hỏi, có thể khám phá suốt đời”. Nguyệt (truyện ngắn Mảnh trăng cuối
rừng), như mọi cô gái Việt Nam khác, có một tình yêu thủy chung, một niềm tin
mãnh liệt. Sống giữa sự tàn phá của chiến tranh, bao năm cô vẫn chờ đợi người con
trai chưa hề gặp mặt, chưa hứa hẹn một điều gì, bởi vì trong lòng cô “cái sợi chỉ
xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn vẫn không phai nhạt, không hề
đứt”. Chỉ là câu nói đùa nhưng người đọc thấy được cách Nguyệt hành xử rất phù
hợp với truyền thống đạo lí của dân tộc, sống có trước có sau, trọn vẹn nghĩa
tình: “Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư”.
Để thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của thời đại cũng như của cá nhân
mình, trong các tác phẩm thời kì này, Nguyễn Minh Châu thường sử dụng bút pháp
lí tưởng hóa, lãng mạn hóa. Các nhân vật Kinh, Lữ, Khuê, Cận, Lượng v.v... (tiểu
thuyết Dấu chân người lính) đều là những viên ngọc, sáng đẹp, không có tì vết.
Khó có thể tìm thấy một khiếm khuyết trong phẩm chất của họ. Đúng như nhà phê
bình N.I.Niculin đã từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông, đại
ý: niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp, cái thiện được khúc xạ ở chỗ
Nguyễn Minh Châu đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được
bao bọc trong một bầu không khí vô trùng. Có những lúc, Lãm (truyện ngắn Mảnh
12


trăng cuối rừng) cảm thấy xe mình chạy trên lớp sương bồng bềnh, trong nền
không gian có mảnh trăng khuyết phía cuối trời sáng trong như mảnh bạc và bên
cạnh là người con gái có mái tóc dày, thơm ngát, có khuôn mặt tươi mát, xinh đẹp.
Lãm đã tưởng như mình trông thấy ảo ảnh và trong lòng anh từng dấy lên một tình
yêu mê muội xen lẫn cảm phục người bạn đường. Mặt khác, nhiều trang văn của
Nguyễn Minh Châu đều được viết bằng giọng điệu ngợi ca với chất trữ tình ấm áp.
Giọng điệu này, theo nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, được quy định do cảm

hứng của tác giả, một phần là từ nỗi xúc động thực sự trước những chiến công anh
hùng của quân và dân ta, một phần là do tác giả cổ vũ động viên nhân dân tham gia
chiến đấu. Đoạn miêu tả tâm trạng của Thùy (tiểu thuyết Cửa sông) khi được đứng
trong hàng ngũ của Đảng được nhà văn viết bằng sự hứng khởi, say mê: “Từ bên
này ngưỡng cửa của cuộc đời, Thùy thấy mọi vật đều đổi khác. Ba gian nhà trở
nên ấm áp hơn, một mối tình đồng chí trong trẻo, chất phác tỏa lên từ khuôn mặt
các đồng chí ngồi chung quanh. Thùy cảm thấy mình đang được bao bọc trong mối
tình lớn ấy”. Giữa cảnh những ngôi nhà bị bom tàn phá, những hàng dừa mọc sát
mép nước chỉ còn thân cây cháy sém, những người lính của Nguyễn Minh Châu
không giấu nổi sự ngỡ ngàng trước cảnh “xung quanh bản hoa dong riềng vẫn nở
đó, vẫn trông thấy những cô gái Lào vùng bãi sông đẹp yêu kiều mặc váy xanh
màu lá mạ đi vác nước… từng đàn voi nhà bước đủng đỉnh trong đám tàn
tranh” và “náo nức hẳn lên trong niềm mong đợi” khi nghe tin có đoàn văn công
phục vụ mặt trận sắp tới. Nhưng Nguyễn Minh Châu ngay từ thời kì này đã không
nhìn con người đơn giản, sơ lược. Nhà văn cũng đã chạm vào được nỗi trắc ẩn của
con người, đã khơi được phần chìm khuất của đời sống, “ngay giữa những trang
viết đầy hào sảng của Cửa sông, Dấu chân người lính, người đọc đã mong manh
cảm nhận dường như nỗi đau vẫn song hành tồn tại cùng niềm vinh quang, ngay
dưới chân tượng đài chiến thắng, và những nỗi éo le, ngang trái trong đời tư, sự
vênh lệch giữa số phận cá nhân với số phận cộng đồng là điều có thực, là điều
13


không tránh khỏi”. Trong Dấu chân người lính, bi kịch mà ông Phang và Xiêm,
con dâu ông phải trải qua cũng là nỗi đau của bao nhiêu người Việt Nam khi có
người thân trong gia đình như con, như chồng cầm súng bắn vào đồng bào, phản
bội quê hương. Thái độ có thể có trong tương lai của đứa con đi học ở nước ngoài
cũng làm cho chính ủy Kinh trăn trở. Ngày mai, đứa con đó trở về khi tiếng súng
đã dứt, những người anh hùng hôm nay đã trở lại với đời thường, liệu nó có biết
ơn, có nhớ đến sự hi sinh xương máu của những người lính, trong đó có cả Lữ, anh

em của nó. Những nhánh rẽ trong mạch văn hào hùng đã tạo cho tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu trước 1975 ít nhiều sự ám ảnh với giọng suy tư, triết lí.
Nói tóm lại, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã dành gần hai thập kỉ để khám phá và
ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kì ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến
tranh với tâm niệm tất cả vì sự sống còn của dân tộc, của đất nước.
Trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Châu có thể là niềm kiêu
hãnh về chiến thắng, có thể là sự thăng hoa lãng mạn vượt cả những biên độ bình
thường, có khi là nỗi đau chiến tranh, nỗi đau nhân thế và cả những dự báo khắc
nghiệt… Nhưng dù thế nào trong sáng tác văn xuôi của Nguyễn Minh Châu, tính
nhân văn vẫn là một sợi chỉ xanh (nói theo cách của ông) xuyên suốt và lấp lánh.
3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau 1975
Thời kì hậu chiến, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu
sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người. Ông đã chú trọng khai thác nhiều
khía cạnh khác nhau trong tính lưỡng diện, đa diện và luôn biến đổi của con người.
Trong tiểu thuyết Miền cháy sáng tác năm 1977, hình ảnh người anh hùng trở về
từ chiến tranh hiện lên đầy tâm trạng. Đó là sự khắc khổ, dằn vặt, bất an trước
mảnh đất miền Trung xác xơ sau khói bom lửa đạn. Người anh hùng kiên cường
trong chiến đấu thì cũng phải bản lĩnh để đối mặt với ngổn ngang đổ nát, với bộn
14


bề lo toan để quê hương nhanh chóng được hồi sinh. Tiểu thuyết Lửa từ những
ngôi nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu là sự phát triển của nguồn cảm hứng đã
được khơi từ Miền cháy, vẫn là bộ mặt khắc khổ của những người lính từng là anh
hùng nơi chiến trường nhưng xa lạ với lo toan đời thường sau chiến tranh, sống bất
an trong hòa bình.
Phải đến với truyện ngắn Bức tranh (1987), sự thay đổi quan niệm nghệ
thuật về con người của Nguyễn Minh Châu mới được thể hiện trực tiếp, đầy đủ.
Nhân vật người họa sĩ tự nhận thức “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người

tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ”. Con người trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đã được đặt ra ngoài bầu không khí vô trùng
vốn có, vừa đi vừa vấp ngã trước thế giới đa chiều đầy biến động. Con người phải
đối diện với chính mình, với số phận của mình, với tư cách là một con người riêng
lẻ, không nhân danh ai, không dựa vào ai. Hàng loạt những thể nghiệm sau Bức
tranh như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ
lau, Phiên chợ Giát đã làm cho quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn
Minh Châu càng thêm vẹn đầy và sự biểu hiện quan niệm nghệ thuật đó càng thêm
đa dạng, phong phú.
Điều cần phải khẳng định là con người trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau 1975 vẫn tiếp nối đạo lí truyền thống của dân tộc, vẫn nuôi dưỡng hoài
bão xây dựng quê hương giàu đẹp nhưng đã biết bám rễ trên mảnh đất hiện thực.
Lực (truyện vừa Cỏ lau) đã hi sinh thời trai trẻ, hi sinh tình cha con, vợ chồng, anh
em cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngày trở về, em mất, vợ đã có
một gia đình mới, người cha già phải sống nhờ cô con dâu tái giá, tuy đau đáu nỗi
niềm, song anh hiểu“cuộc sống đã an bài… chẳng dễ thay đổi được hoàn cảnh”,
anh lựa chọn cho mình tương lai của “một người lính già sống suốt đời cùng với
một ông bố”, nơi có “những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn”. Lại một lần
nữa, Lực nhận về mình phần thiệt thòi nhưng người đọc cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp
15


giàu chất nhân văn của tâm hồn người Việt Nam. Trước khi ra đi vĩnh viễn, Hòa
(truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã chia sẻ với người yêu
về những dự định, những ước mơ của anh. Hòa từng “mơ tưởng sau này lớn lên sẽ
chế tạo được một chiếc máy cày” để những ông già đầu bạc, những em bé không
còn phải “giơ cao những chiếc cuốc rất nặng bổ xuống một cánh đồng đất rắn như
gang”, để bàn tay mẹ không giống như một tấm da trâu sau mỗi vụ cày ải. Ra khỏi
chiến tranh, Quỳ (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã có mặt
trên mặt trận kinh tế ở ngay tại mảnh đất mà người thân yêu và đồng đội của chị đã

ngã xuống. Chị đã “cứu Ph ra khỏi sự lầm lạc, trả lại vị trí xứng đáng để người kỹ
sư cơ khí phát huy năng lực sở trường”, “đã nhận ra được vai trò quan trọng của
tài năng, của tri thức trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới”.
Đọc các tác phẩm Nguyễn Minh Châu viết trong thời kì đổi mới, độc giả dễ dàng
nhận thấy con người hiện lên qua mỗi trang văn của ông không phải là con người
nhất phiến mà là con người đa chiều và phức tạp. Chứng kiến người đàn bà làng
chài (truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa) bị người chồng vũ phu đánh đập, nghệ
sĩ Phùng tưởng chị là người “cam chịu, đầy nhẫn nhục” bởi “không hề một tiếng
kêu, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Nhưng khi trò chuyện trực
tiếp với chị, Phùng mới nhận ra sau vẻ lam lũ, khổ sở là một người phụ nữ sâu sắc,
thấu hiểu lẽ đời. Chị khước từ sự giúp đỡ của nghệ sĩ Phùng và chánh án
Đẩu: “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó” vì “các chú không phải là đàn bà, chưa bao
giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền
không có đàn ông”. Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: “Ông trời sinh
ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn” và hứng chịu mọi
nhọc nhằn, khổ đau để các con được hạnh phúc: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi
phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Người phụ nữ ấy
còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên
như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền
16


lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh ta
tha hóa. Điều đặc biệt ở người đàn bà là chị vẫn giữ được trong tâm hồn mình ngọn
lửa của hi vọng, của niềm tin. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt
lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng
nó được ăn no”, “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống
hòa thuận, vui vẻ”. Hòa (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) là
một trung đoàn trưởng tài khiến người lính ở hàng ngũ bên kia cũng phải ngưỡng
mộ. Nhưng trong sinh hoạt hàng ngày, Hoà cũng có những thói nọ tật kia như

những con người bình thường khác. Anh mừng rỡ, hí hửng khi được thăng cấp;
chăn một đàn gà riêng, đánh một cái quần xà lỏn đi phát rẫy; yêu người này, nói
xấu sau lưng người kia; có hai bàn tay lúc nào cũng dấp dính mồ hôi… Hòa vừa là
một thánh nhân nhưng cũng lại là con người phàm tục với ham hố, nhược điểm.
Nhân vật Hòa là một hình mẫu hoàn toàn mới khác hẳn với những con người trong
tiểu

thuyết,

truyện

ngắn

của

Nguyễn

Minh

Châu

trước

1975.

Nguyễn Minh Châu cũng chú ý khám phá con người ở góc độ đời sống riêng tư
của từng cá nhân. Thai (truyện vừa Cỏ lau) vừa tham gia công tác xã hội vừa chịu
tù đày, một tay chôn cất em chồng và chăm sóc phụng dưỡng bố chồng. Chị có một
phẩm chất đặc biệt là suốt đời chỉ có thể yêu được một người. Số phận đã đẩy chị
vào hoàn cảnh trớ trêu, phải lựa chọn giữa hai người đàn ông cũng rất đặc biệt,

người thì hai mươi bốn năm nay không yêu một ai, người thì khổ sở, nhục nhã vì
không được vợ yêu mà lại vẫn yêu vợ, quý vợ hơn bất cứ ai. Lão Khúng (truyện
ngắn Phiên chợ Giát) có cuộc đời vô cùng khổ cực, nhọc nhằn. Lão phải giành
từng tấc đất với cỏ lau và đá hộc để nuôi lớn cả bầy con cứ“tự nhiên” ra đời. Con
người lão “hữu danh mà vô thực”, “trong bóng đêm đối mặt với sự thật của đời
mình, con người lão càng trở nên lầm lũi”. Số kiếp của lão có lẽ cũng quẩn quanh,
cổ xưa như số kiếp của con bò Khoang. Lão đã giải phóng cho nó mà nó vẫn tìm
về với lão.
17


Bởi quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi nên tất yếu giọng điệu trong
những trang viết thời kì sau 1975 của Nguyễn Minh Châu không còn hào sảng, say
mê, bay bổng. Giọng văn của ông trầm tĩnh hơn, xen lẫn chút chiêm nghiệm và suy
ngẫm. Các nhân vật đầy suy tư, trăn trở khi nói về mình và mọi người. Dự một
cuộc gặp gỡ sau hai mươi năm giữa hai mẹ con, đáng lẽ vui mừng cảm động thì lại
giống như một phiên tòa đại hình, nhân vật trong truyện ngắn Mùa trái cóc ở
miền Nam cảm thấy“lòng mình bị tổn thương nặng nề và hình như cả con người
tôi tự nhiên bị ngập chìm trong lo âu, một nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc
khoải về con người” và thấp thoáng trước mặt anh là người mẹ chỉ có một mình
vì “con người có những lúc rất cần cô độc, cũng là để đi trốn cái thế giới loài
người đầy nhiễu sự và cũng để sống hết với con người mình”. Có thể nói màu sắc
triết lí thấm đẫm trong nhiều truyện ngắn viết sau 1975 của Nguyễn Minh Châu.
Bên cạnh đó, vì nhìn thấu những chấn động trong đời sống và tâm lí của con
người, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng những dạng tình huống nhận thức thể hiện
sự tự nhận thức của cá nhân con người về bản thân và xã hội. Nhĩ (truyện
ngắn Bến quê) từng đi không sót một xó xỉnh nào trên trái đất nhưng đến lúc ốm
liệt giường mới phát hiện ra“một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì chưa hề bao
giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình”và mơ ước
được đặt chân lên bờ bên kia dù chỉ giây lát. Sự tự nhận thức về sai lầm của mình,

về khả năng hữu hạn của bản thân đã làm Nhĩ ân hận, đau đớn. Anh đã không thể
làm được gì để bù lấp nổi sự trống vắng, thiếu hụt của đời người vì đã đi con
đường vòng chùng chình. Nhờ sự tự nhận thức: “già rồi mà vẫn chơi trồng bỏi,
chắc anh đang vừa cười tôi lại vừa chửi tôi như thế”, nhà văn T (truyện ngắn Sắm
vai) đã từ bỏ lối sống giả tạo, làm đẹp lòng người khác mà đánh mất đi bản thân
mình. Anh không phải là một thứ “tiện nghi”, “đồ đạc” của vợ mà là một nhà văn
muốn đi đến tận cùng của sự sáng tạo. Đặt ra những tình huống này, Nguyễn Minh
Châu “đã tạo nên những cái cớ để trở đi trở lại, lật xới những vấn đề vốn vẫn thao
18


thức trong ông”. Phải chăng đó là niềm băn khoăn về thước đo giá trị con người
trong xã hội khi mà sự tự nhận thức đã nâng con người lên tầm cao mới, hiểu mình
và đủ bản lĩnh để là mình.
Như vậy, có thể nói, tiểu thuyết và đặc biệt là truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu viết sau 1975 đã có sự thay đổi mạnh mẽ về quan niệm nghệ thuật về con
người, khẳng định những thành tựu nghệ thuật đặc sắc được hình thành từ sự dồn
nén những trăn trở của nhà văn và những đóng góp của ông trong công cuộc đổi
mới văn học nước nhà.
KẾT LUẬN
Tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975, chúng ta thấy
quan niệm nghệ thuật về con người đã chi phối sự nghiệp sáng tác của mỗi tác giả
nói chung và của nhà văn Nguyễn Minh Châu nói riêng. Sự biến đổi trong quan
niệm nghệ thuật về con người là trung tâm mọi biến đổi của nền văn học, là tiêu
chí để đánh giá sự đổi mới của một cây bút hay của một thời kì văn học.
Con đường đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu là con đường nhiều
trăn trở và nhiều trải nghiệm sâu sắc. Trước 1975, là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn
Minh Châu ý thức sâu sắc về sứ mệnh cao cả, nhiệm vụ thiêng liêng của người cầm
bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tâm
niệm sáng tác duy nhất của ông lúc này là hướng đến cuộc chiến đấu vì sự sống

còn của cả dân tộc, đất nước. Do vậy, nhà văn đã dành gần hai chục năm sung sức
của cuộc đời để tìm tòi, khám phá, thành tâm và say sưa ngợi ca vẻ đẹp lung linh,
kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh.
Với quan niệm nghệ thuật về con người: “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng
những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức
khám phá tất cả những cái đó”, hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu trước
1975 là hành trình “cố gắng đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con
người”. Đây chính là ngọn nguồn của sự tìm tòi, lòng tin, niềm lạc quan về vẻ đẹp
19


con người, làm nên một cảm hứng lãng mạn bay bổng của Nguyễn Minh Châu khi
khắc họa hình ảnh con người trong chiến tranh. Sau 1975, Nguyễn Minh Châu trăn
trở tìm tòi và sáng tạo để đổi mới nghệ thuật, và ông trở thành một người tiên
phong, “người mở đường tinh anh” cho một giai đoạn văn học sau 1975. Điểm
xuất phát và cũng là vấn đề cốt lõi nhất cho sự đổi mới nghệ thuật ấy, chính là
quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu. Trăn trở với số phận con người
sau chiến tranh, suy tư về con người khi họ hòa nhập vào cuộc sống đời thường với
những mất mát, thua thiệt, đớn đau, và nhìn con người trong muôn vàn mối quan
hệ phức tạp của đời thường, Nguyễn Minh Châu đã thay đổi quan niệm nghệ thuật
về con người. Nhìn con người đa chiều trong nhiều mọi quan hệ, trong nhiều góc
độ, trong chiều sâu ẩn khuất của nó là một cái nhìn mới của Nguyễn Minh Châu
sau 1975. Nó không chỉ thể hiện sự tìm tòi đổi mới không ngừng của nhà văn, nó
còn thể hiện chiều sâu nhân văn trong sáng tác của ông. Nguyễn Minh Châu xứng
đáng là “người mở đường tinh anh” cho văn học thời kỳ đổi mới. Như nhà
văn Nguyễn Khải đã nhận xét: "Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc
những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho
những cây bút trẻ tài năng sau này".

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Long (Chủ biên), Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2007.
2. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (Đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975
– Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
3. Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ
1992 – 1996, Hà Nội - 1993.
4. Trần Đình Sử, Giáo trình thi pháp học, Thành phố Hồ Chí Minh - 1993

21



×