Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (38.98 KB, 1 trang )
TUYÊN BỐ MẤT TÍCH
- Khái niệm : Đ.78 BLDS 2005
o Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thông béo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự nhưng vẫn khong có tin tức xác thực về việc người đó còn sống
hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa
án có thể tuyên bố người đó mất tích
o Thời hạn 2 năm được tính từ ngày có tin cuối cùng về người đó
Nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng, thì thời hạn hai năm
được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối
cùng
Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng, thì thời hạn
được tính tứ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng
- Đặc điểm
o Toà án chỉ có thể tuyên bố một người là mất tích theo yêu cầu của
những người thân thích hoặc những người có quyền , lợi ích liên quan
o Tòa án phải xem xét làm rõ động cơ, lý do yêu cầu tuyên bố mất tích
nhằm mục đích chính đáng hay không
o Trong các trường hợp áp dụng phương thức tính khác về thời hạn Theo
quy định của BLDS 2005, người yêu cầu Tòa án phải đưa ra các bằng
chứng cụ thể để chứng minh rằng vào các mốc thời gian nào, có những
chứng cứ xác định rằng đó chính là điểm thời gian xác định được tin tức
cuối cùng của người biệt tích
o Các chứng cứ có thể là các loại giấy tờ, văn bản, kể cả thư từ hoặc
người làm chứng. Trên cơ sở văn bản chính đã đưa, Tòa án mới xem xét
và xác định tính xác thực của các bằng chứng đó để xác định cách tính
thời hạn hai năm cho từng trường hợp cụ thể và thực hiện các thủ tục
cần thiết để tuyên bố một người bị mất tích
o Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly
hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn
- Hậu quả pháp lý của người bị tuyên bố là mất tích