Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

VAI TRÒ của PHÁP LUẬT THUẾ ở nước TA HIỆN NAY GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ đó TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG và hội NHẬP QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.89 KB, 11 trang )

VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY GIẢI PHÁP
PHÁT HUY VAI TRÒ ĐÓ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
“Thuế là nguồn chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước” – chúng ta bắt gặp và
đọc được những tấm pa – nô, áp – phích như thế này hàng ngày. Từ đó, chúng ta dễ dàng
hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của thuế nói chung và hệ thống pháp luật thuế nói riêng
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tích cực hội nhập quốc tế của
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức rõ về tầm quan trọng đấy, trong phạm vi bài tập học kỳ, em xin chọn đề tài:
“Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”.

I. Khái quát chung về thuế và pháp luật thuế
1. Khái quát chung về thuế
Thuế là hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện tượng kinh tế - xã hội
khác[1].


Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về thuế được đưa ra dưới các góc độ kinh tế học, luật
học. Do đó, việc đưa ra một định nghĩa duy nhất về thuế hoàn toàn không đơn giản. Tuy vậy,
có thể hiểu: Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải
thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban
hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không
phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và
nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra ba đặc điểm của thuế. Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp
bắt buộc vào ngân sách nhà nước. Thứ hai, thuế luôn gắn với yếu tố quyền lực nhà nước. Thứ
ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp.
Có rất nhiều tiêu chí và nội dung phân loại thuế, tùy theo mục đích của người nghiên


cứu đánh giá, chẳng hạn như:
Nếu căn cứ vào mục đích điều tiết, thuế có hai loại cơ bản là thuế trực thu và thuế gián
thu. Thuế trực thu là thuế mà người, hoạt động, đồ vật chịu thuế và nộp thuế là một. Thuế
gián thu là thuế mà người chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một, thuế này chuyển
sức mua khỏi người tiêu dùng cuối cùng bằng cách tạo khoảng chênh lệch giữa số tiền chi trả
cho nhà sản xuất và giá bán.
Nếu căn cứ vào đối tượng tính thuế, có thuế đánh vào tài sản, thuế đánh vào thu nhập
và thuế tiêu dùng.
Thuế tài sản là thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải đánh vào phần thu nhập
phát sinh từ tài sản đó.
Thuế đánh vào thu nhập chỉ thực hiện đối với những đối tượng có giá trị thặng dư phát
sinh từ tài sản của họ.
Thuế tiêu dùng, phần lớn là loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt.
Ngoài các tiêu chí phân loại và nội dung phân loại trên đây, còn có rất nhiều tiêu chí
phân loại và nội dung phân loại thuế, tùy theo mục đích của người nghiên cứu đánh giá.
2. Khái quát về pháp luật thuế
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế
nhằm hình thành nguồn thu ngân sách Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay bao gồm:
- Luật quản lý thuế năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012);
- Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
- Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013);
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013);


- Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2013);
- Luật thuế tài nguyên năm 2009;

- Luật thuế bảo vệ môi trường năm 2010
- Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010.
- Các Nghị định hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các Nghị định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế…
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp
nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế – thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo
quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong cơ
cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Nghiên cứu lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ, ở các quốc gia cho
thấy: thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách Nhà nước. Ở nước ta, từ những năm 1990 trở
lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các luật
thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách
Nhà nước”[2] như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoản 90% tổng thu ngân
sách Nhà nước. Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách Nhà nước được pháp luật ghi
nhận: “Ngân sách Nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ
thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích
lũy ngày càng cao vào đầu tư phát triển”[3].
Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế –
xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết. Điều này
đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật thuế.
Qua đó, bất kì quốc gia nào cũng mong muốn và cần phải có hệ thống pháp luật thuế
đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà
nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, mọi dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực
tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp
luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà
nước.
2. Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời

sống xã hội. Hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng thông qua sự phân bổ và sử dụng các
nguồn lực. Nó cũng là đòn bẩy kinh tế quan trọng, kích thích hiệu quả sản xuất kinh
doanh
Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công
cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà
nước thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và
tiêu dùng xã hội.


Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết mọi mặt của đời sống kinh tế –
xã hội. Qua hệ thống pháp luật thuế, Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối
phát triển kinh tế, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội.
Điều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các
loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn, giảm thuế… Nhà nước chủ động phát
huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở pháp
luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh,
hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể
thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến quan hệ
cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh quan hệ cung – cầu của
nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Qua
các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến quan hệ trong tất cả các giai
đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Để thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích
xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn
chế việc xuất khẩu, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này
thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chấp phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất
nhập khẩu.
Trong nên kinh tế thị trường, các tổ chức, các cá nhân có thể tồn tại và vận động theo

nhu cầu và lợi ích của chính mình điều này có thể tổn thương đến trật tự xã hội cũng như
định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp
luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt động, vào quyết định đầu tư
của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước.
Thông qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu
ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước
pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên
và đối tượng bị hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cơ hội tìm kiếm thu nhập của
đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này
sang khu vực đầu tư khác.
Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên.
Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với
từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành,
nghề, qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu
nhập trong từng trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định
hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế
chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện
tại. Trong đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với
những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.


Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn
đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề, lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có
các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn
định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong
việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các

nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung – cầu và cơ cấu ngành kinh tế.
3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế và công bằng xã hội
Hệ thống pháp luật thuế được áp dụng thống nhất cho các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và
nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông
qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều thiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế
đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội. Sự vận động của nền kinh tế
theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để
khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà
nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô thu nhập trong xã hội thông qua các
quy định của pháp luật thuế. Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng
nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế và cơ cấu các loại
thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập
trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế
theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất. Tuy vậy, việc
thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò pháp luật thuế là công cụ điều tiết
vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Có thể khẳng định pháp luật thuế có vai trò quan trọng trong việc giúp nhà nước thực
hiện các chính sách xã hội của mình. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu
nghèo, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Bằng những quy định của pháp luật
thuế, nhà nước phát huy trách nhiệm của mỗi cá thể đối với cộng đồng xã hội.
4. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối
tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn với chế độ chứng từ hóa
đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều

đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước
gián tiếp quản lý nền kinh tế, trên cơ sở đó có hệ thông pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ
sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ


trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra
việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát
hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá
trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
5. Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước thông qua pháp luật thuế
Để bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn yếu kém về nhiều mặt thì nhà nước phải
thông qua pháp luật thuế. Ví dụ: Hiện nay trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhà nước
ta đã mở cửa hội nhập nên có nhiều mặt hàng nhập khẩu về Việt Nam để đáp ứng nhu cầu,
thị hiếu của người tiêu dùng tuy nhiên điều đó sẽ làm cho các hàng hóa nhập khẩu tràn lan
trên thị trường khó kiểm soát và việc “người Việt tẩy chay hàng Việt” là điều không thể tránh
khỏi chính bởi thế mà pháp luật thuế đã có những quy định như đánh cao thuế nhập khẩu đối
với một số mặt hàng ngoại và giảm thuế đối với một số mặt hàng nội địa nhằm khuyến khích
sản xuất tiêu dùng hàng trong nước.
Song song, thì pháp luật thuế hiện nay còn được coi là một trong những vũ khí cạnh
tranh sắc bén của mỗi nước trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hầu hết ở các
nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều đang ra sức sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế của mình cho hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
6. Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu thuế và nộp thuế
Từ phương diện quản lý Nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu hiệu
trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế
những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế về bản chất là một quan hệ phân phối của
cải dưới hình thức giá trị nên tự bản thân nó đã là một mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các
hoạt động xã hội tiêu cực, làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng
pháp luật thuế, nhà nước đã đưa ra các giới hạn “hành lang”, thiết lập các “hàng rào pháp lý”
để các chủ thể có được sự tự do trong khuôn khổ. Vượt ra ngoài khuôn khổ đó, đương nhiên

họ sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc.
III. Thực trạng việc áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam – Giải pháp nhằm phát huy vai
trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
1.Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam
a. Thực trạng
Thứ nhất, năng lực thuế thấp. Việc hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các hiệp định
về tự do thương mại, đặc biệt kể từ khi tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) do cam
kết hội nhập, cam kết tự do hóa thương mại, việc cắt giảm thuế quan, nên thuế thu từ hoạt
động xuất, nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia tăng bị giảm sút.
Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế kéo dài, hang loạt các doanh
nghiệp phải giải thể, phá sản, nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thua lỗ, chưa ổn được
được sản xuất, kinh doanh giai đoạn sau suy thoái đã dẫn đến việc doanh nghiệp không thể
thực hiện nghĩa vụ thuế, ngân sách nhà nước mất đi một khoản thu lớn.
Ngoài ra, chính sách miễn thuế, giãn thuế, giảm thuế của nhà nước cũng đã làm giảm
nguồn thu nộp vào ngân sách nhà nước.


Thứ hai, Thất thu thuế lớn. Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các
biện pháp chống thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được
với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn
thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể hiện trong thuế thu nhập cá nhân
mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa
hàng… không làm hóa đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không
có nhu cầu lấy hóa đơn. Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được
thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây
tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công
dân, vô hình chung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Thứ ba, Cơ quan quản lý thuế xác định sai số tiền thuế. Việc xác định sai số thuế
thường dẫn đến tranh chấp, khiếu nại do cơ quan thuế đã xác định số tiền thuế phải nộp nhiều
hơn thực tế.[4]

Thứ tư, cơ quan thuế thụ động trong việc ra quyết định, còn trông chờ hướng dẫn
của cấp trên. Đặc trưng của việc áp dụng pháp luật chính là đưa những quy định áp dụng
chung vào từng trường hợp cụ thể. Tuy những hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền như Bộ Tài chính và Tổng cục thuế đã tương đối đầy đủ, nhưng việc vận dụng tại các
cơ quan quản lý thuế tại địa phương còn nhiều lúng túng. Nếu chỉ nhìn vào số lượng những
thắc mắc của Cục thuế địa phương gửi lên Tổng cụ thuế, sẽ rất dễ dẫn đến quan niệm rằng
pháp luật thuế còn rất nhiều bất cập cần khắc phục hoặc nhiều trường hợp còn chưa có quy
định. Tuy nhiên, nếu đọc công văn trả lời của Tổng cục thuế thì sẽ thấy ngay rằng đại đa số
các trường hợp thắc mắc đều đã được giải thích hết sức rõ ràng qua Thông tư hướng dẫn thi
hành. Điều đó chứng tỏ, việc nắm vững và vận dụng pháp luật thuế của các Cục thuế địa
phương còn rất nhiều hạn chế.[5]
Thứ năm, chậm trễ trong việc thực hiện các ưu đãi thuế. Ưu đãi thuế là những quy
định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể nộp thuế trong hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc chia sẻ gánh nặng thuế khi chủ thể nộp thuế gặp những sự cố khách quan bất lợi (thiên
tai, địch họa, tai nạn bất ngờ…). Chính sách ưu đãi thuế chỉ thực sự có hiệu quả khi việc
triển khai thực hiện được nhanh chóng và đúng đối tượng.
Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế hoặc
hoàn thuế bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ. Đôi khi, công chức quản lý thuế còn đòi
hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sách vượt ra ngoài những yêu cầu của pháp luật.
Không kể dến mục đích gây khó khăn để thực hiện hành vi tham nhũng, thì những yêu cầu
quá mực này đã cản trở chủ thể nộp thuế thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp, làm
giảm hiệu ứng tốt của chính sách ưu đãi thuế.[6]
Thứ sáu, còn nhiều tranh chấp về thuế dẫn đến khiếu nại tố cáo không được giải
quyết thỏa đáng. Với thực trang đã phân tích ở trên, thì hiện tượng khiếu nại, tố cáo chắc
chắn sẽ xuất hiện. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng, việc khiếu nại, tố cáo là quyền của cá
nhân, tổ chức và việc có khiếu nại, tố cáo không đồng nghĩa với việc công chức quản lý thuế
hay cơ quan quản lý thuế đã vi phạm pháp luật. Bên cạnh những trường hợp giải quyết khiếu
nại, tố cáo thỏa đáng, đúng pháp luật, cũng vẫn còn xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo không
được giải quyết đúng thời hạn, dây dưa, vòng vo dẫn đến những phản ứng tiêu cực tiếp theo



của cá nhân, tổ chức khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, hiện tượng bao biện, không nhận trách
nhiệm và không xử lý đúng pháp luật công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế mắc sai
phạm cũng làm cho sự việc càng trở nên phức tạp hơn.[7]
b. Nguyên nhân
Đầu tiên, ý thức chấp hành pháp luật thuế của nhiều chủ thể nộp thuế còn yếu
kém.
Việc nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật nhằm đảm
bảo duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, và đồng thời để nhà nước thực hiện các chức
năng của mình. Tuy nhiên, do các lợi ích nhận được của nhà nước thường không cụ thể, nên
đối với một số chủ thể nộp thuế, những thiệt hại vật chất cụ thể dường như lớn hơn so với
những giá trị vô hình mà nhà nước đem lại. Chính vì vậy, thay vì hợp tác, nhiều chủ thể nộp
thuế sử dụng nhiều thủ đoạn để làm giảm số thuế phải nộp một cách trái pháp luật.
Bên cạnh đó, cũng cần phải nhận thức rằng, ý thức chấp hành pháp luật thuế không
phải có được ngay lập tức bằng các mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở nước ta còn non trẻ, do vậy chưa đủ thời gian để các cá nhân, tổ chức trong xã hội
thật sự quen với những đòi hỏi của nó, trong đó có nghĩa vụ nộp thuế. Ý thức chấp hành pháp
luật được nâng lên thông qua nhiều phương thức, trong đó, công tác tuyên truyền phổ biến
phải được thực hiện hiệu quả. Theo đánh giá của chúng tôi, mặc dù đã có nhiều chuyển biến,
nhưng công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật thuế hiện nay còn cứng nhắc, chung chung,
do vậy hiệu quả còn nhiều hạn chế.[8]
Tiếp đó, trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế.
Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật thuế có nhiều thay đổi căn bản, số lượng
chủ thể nộp thuế ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh đó, những thủ đoạn gian lận thuế ngày càng
tinh vi hơn đã gây khó khăn không nhỏ cho công tác quản lý thuế. Mặc dù hầu hết công chức
quản lý thuế đều ý thức được việc trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng mức độ
không đồng đều. Nhiều địa phương, trình độ học vấn của công chức quản lý thuế chưa đáp
ứng được yêu cầu công tác, nên khi thực hiện công tác áp dụng pháp luật còn nhiều lúng
túng, làm sai hoặc sợ làm sai dẫn đến chậm trễ trong việc ra quyết định.
Bên cạnh đó, chính vì nhận thức không đúng về vai trò của chủ thể nộp thuế, nên một

số công chức thuế luôn giữ quan niệm, chủ thể nộp thuế là “những kẻ muốn trốn thuế”, nên
nhiều trường hợp, đáng lẽ có thể giải quyết ngay, nhưng vẫn cẩn thận kiểm tra, gây ách tắc,
chậm trễ, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.9
Thứ ba, việc quản lý, ra quyết định quản lý thuế còn nhiều
tiêu cực.
Những tiêu cực như đưa và nhận hối lộ, công chức thuế thông đồng với chủ thể nộp
thuế để gian lận thuế vẫn còn xảy ra. Những tiêu cực này đã dẫn đến những quyết định trái
pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể khác nên thường gây ra
tình trạng khiếu kiện, tố cáo và thất thoát cho ngân sách nhà nước. Mặc dù trong thời gian
vừa qua, công tác phòng và chống tham nhũng được đẩy mạnh, nhưng nhiều vụ việc trốn lậu
thuế bị phát hiện thường có liên quan đến công chức quản lý thuế. Từ những phản ánh trên
các phương tiện thông tin đại chúng và các vụ việc đã được cơ quan chức năng phát hiện và


xử lý, thì có thể khẳng định rằng, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động
quản lý thuể còn khá phổ biến như đưa và nhận tiền hối lộ, hoặc đòi được hối lộ bằng nhiều
hình thức tinh vi khác.10
Thứ tư, cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành thuế còn chưa thỏa đáng để đáp ứng nhu
cầu nhiệm vụ.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, thì
những ứng dụng tiến bộ này vào hoạt động quản lý nhà nước ngày càng được đẩy mạnh. Với
số lượng rất lớn các chủ thể nộp thuế, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản
lý thuế như khai thuế qua mạng internet, phần mềm dữ liệu quản lý thông tin người nộp thuế,
các trang website thông tin về ngành thuế…, nếu được đầu tư thoả đáng sẽ đem lại những cải
thiện đáng kể, nhằm giảm chi phí xã hội dành cho công tác quản lý thuế, đem lại hiệu quả
kinh tế cao.
Tuy nhiên, hiện nay, việc triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành thuế nhìn
chung còn chậm và chưa đồng đều, cùng với hạn chế trong công tác đào tạo công chức quản
lý thuế và chủ thể nộp thuế về các kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ thông tin, nên đã
hạn chế đáng kể đến hiệu quả áp dụng pháp luật.[9]

Thứ năm, còn nhiều hạn chế về tính hợp lý và sự minh bạch của hệ thống pháp luật
thuế.
Hiệu quả áp dụng pháp luật chịu ảnh hưởng lớn nhất từ các quy định pháp luật được áp
dụng. Nếu pháp luật phù hợp với thực tiễn kinh tế – xã hội và có tính định hướng, sẽ góp
phần phát triển kinh tế xã hội và ngược lại, nếu pháp luật bất cập thì sẽ kìm hãm sự phát
triển.
Hệ thống pháp luật thuế của nước ta hiện nay đang trong quá trình hoàn thiện nêncòn
nhiều bất cập. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển nhanh, khiến những quy định về thuế đang
bị “lạc hậu hóa”. Hệ thống pháp luật thuế còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo và
không hợp lý, khi áp dụng vào thực tiễn gặp khó khăn, vướng mắc, không hiệu quả.12
2. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế
Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế.
- Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, phải huy động mọi nguồn
thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất vừa phải và đơn giản.
- Cần xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế là kích thích, điều tiết kinh tế và
tăng thu cho ngân sách Nhà nước, không nên đặt ra cho thuế phải thực hiện một lúc nhiều
mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội.
- Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp
dân cư, tránh tình trạng trùng lặp trong thuế, thuế chồng thuế.
- Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ hiểu, dễ thực
hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận.


- Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu
nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội.
- Pháp luật thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay
đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của
người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế.

- Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính
sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế –xã hội.
- Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh
hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không hiệu quả, do chi phí để
thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được.
Thứ hai, kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của
mỗi cán bộ thu thuế, mặc khác cũng tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý
ngay sai phạm.
Cơ quan thuế các cấp thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá, phân tích, dự báo những
yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn
thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.
Tăng cường phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh tế, những
tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước đến tình hình
thu nộp ngân sách Nhà nước của khối doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp
kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành, các cấp có
thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử lý kịp thời
các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp, tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để
các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế,
tập trung lực lượng triển khai các biên pháp thu hồi nợ thuế, triển khai cá biện pháp cưỡng
chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng.
Thứ ba, tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát triển cơ sở
hạ tầng ngành thuế.
Sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển tương xứng. Những cải cách trong hoạt động quản
lý Nhà nước và ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải
được bồi dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế

cũng cần phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu
thời gian và chi phí cho chủ thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
Thứ tư, cải cách thủ tục hành chính về thuế, phòng chống tham nhũng trong ngành
thuế.


Cải cách thủ tục hành chính thuế là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
công tác quản lý thuế. Trong đó, xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, đơn giản, rõ
ràng, minh bạch; sửa đổi, bổ sung các thủ tục hành chính thuế đảm bảo nguyên tắc thủ tục
phải đơn giản, cụ thể, rõ ràng, giảm thiểu tối đa thời gian, chi phí cho người nộp thuế; thực
hiện công tác Tuyên truyền hỗ trợ và giải quyết các thủ tục hành chính thuế của Người nộp
thuế theo cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” là công việc chủ đạo.
Tiến hành thanh tra, kiểm tra đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, công khai, minh
bạch, dân chủ theo quy định của pháp luật và các quy định, quy trình, quy chế về thanh tra,
kiểm tra. Thực hiện nghiêm việc giám sát, kiểm tra hoạt động của đoàn thanh tra, đoàn kiểm
tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng.
Công chức, viên chức ngành thuế khi có hành vi tham nhũng (nếu chưa đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự) thì tuỳ theo tính chất, mức độ của vụ việc sẽ bị xử lý kỷ luật
bằng một trong những hình thức từ khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; giáng chức; cách
chức đến buộc thôi việc.
Thứ năm, cần phải tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ
chức và dân cư về các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách
nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt, tránh tình trạng trốn thuế, lậu
thuế, không nộp thuế,…
KẾT BÀI
Pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của cuộc sống các quan hệ thuế. Đến
lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát sinh, phát triển theo
chiều hướng mà Nhà nước mong muốn. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiến

tạo một môi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, tiến bộ, làm nền tảng, cơ sở vững
chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công.
Đất nước ta đang tiếp tục triển khai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, điều này đã và đang rất cần một nguồn tài chính đủ
mạnh. Trong bối cảnh như vậy, việc hoàn thiện quản lý thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân
sách Nhà nước là vấn đề cốt lõi quan trọng cần được thực hiện nhanh chóng, kịp thời.



×