Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO một số vấn đề về xây DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, ý NGHĨA SỐNG còn TRON sự NGHIỆP xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.62 KB, 58 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH –
NHIỆM VỤ THEN CHỐT CÓ Ý NGHĨA SỐNG CÒN CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ MỚI
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam những năm qua là kết quả tổng hợp của nhiều
yếu tố, nhưng nhân tố hàng đầu, quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của
Đảng ta - đội tiên phong chiến đấu dày dạn kinh nghiệm của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kết hợp thành công khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với nghị lực chiến
đấu và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, khơi dậy và phát huy được tiềm năng và
truyền thống quý báu của dân tộc, nắm bắt và tổng kết được những hoạt động thực tiễn
sáng tạo của quần chúng và tiến trình thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng từng
thời kỳ.
Trong sự nghiệp đổi mới, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế và mọi hoạt động xã hội. Không có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không có chủ nghĩa xã hội. Lúc bình thường, vai trò
lãnh đạo của Đảng đã rất quan trọng, ở những bước chuyển giai đoạn thì vai trò lãnh
đạo của Đảng.
càng đặc biệt tăng lên. Thực tế ở Liên Xô và Đông Âu trước đây đã cho thấy, chỉ cần một
chút dao động, mơ hồ, hạ thấp hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là đất nước đi
chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội; và khi Đảng mất vai trò lãnh đạo thì chủ nghĩa
xã hội không còn, đất nước ngả sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Điều đó cắt nghĩa vì sao suốt mấy chục năm qua, nhất là những năm gần đây,
các thế lực thù địch không ngừng tiến công vào Đảng Cộng sản, cổ vũ cho con đường
phát triển "kinh tế thị trường tự do", "đa nguyên đa đảng", dân chủ, nhân quyền theo
kiểu phương Tây, hòng tìm mọi cách để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội và thủ tiêu vai trò
lãnh đạo của Đảng.
Trong tình trạng hiện nay, để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng
đúng đắn và có hiệu quả, Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Là Đảng
duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, lại hoạt


động trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập hợp tác với các nước theo
tinh thần Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước. Vì vậy, Đảng cần
có ý thức sâu sắc về sự tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng xây dựng tổ chức phù
hợp điều kiện mới, nâng cao trình độ trí tuệ và phẩm chất mọi mặt của mình. Chăm lo
xây dựng Đảng, thường xuyên củng cố nâng cao sức mạnh của Đảng là một bảo đảm
cơ bản quyết định con đường đi đúng đắn của dân tộc. Trong quá trình đổi mới và
chỉnh đốn, Đảng cần giữ vững định hướng và không xa rời nguyên tắc; kiên định và
phát triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.


Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhằm xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo đảm thực hiện
có kết quả những nhiệm vụ chính trị, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững ổn định chính trị, xã hội,
phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Cho nên nó phải gắn với đổi mới các lĩnh vực của đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội, trước hết là với quá trình thực hiện và hoàn thiện các chính sách
và cơ chế quản lý, với toàn hệ thống chính trị, với phong trào hành động cách mạng
của quần chúng, khơi dậy và phát triển trí sáng tạo của nhân dân.
Do đó, trước hết cần tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong
của Đảng, bảo đảm cho Đảng thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Bản chất giai cấp của Đảng là vấn đề cơ bản, bao trùm, có tính nguyên tắc đối với tất
cả các đảng Mác-xít - Lê-nin-nít chân chính. Nó càng đặc biệt quan trọng đối với
Đảng ta - một đảng ra đời và trưởng thành ở một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp
công nhân còn nhỏ bé, tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân còn rất thấp. Hiện nay,
Đảng ta lại đang hoạt động trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội
nhập giao lưu quốc tế, môi trường xã hội rất phức tạp và đang đứng trước những
thách thức mới. Vấn đề giữ cho Đảng không biến chất của giai cấp công nhân là vấn
đề hết sức quan trọng trong việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn đảng và có ý nghĩa quyết

định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trước hết là phải
kiên định quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong thời kỳ mới và từ
thực tiễn mà tổng kết, khái quát, bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm học thuyết
cách mạng và khoa học đó. Thực tiễn những năm qua cho thấy, lúc nào máy móc rập
khuôn và không giữ vững quyền độc lập, tự chủ và tính năng động, sáng tạo là lúc đó
chúng ta gặp khó khăn.
Bản chất giai cấp công nhân đòi hỏi Đảng phải được tổ chức chặt chẽ theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự
phê bình, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, lỏng
lẻo kỷ luật, kỷ cương pháp luật đều trái với bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Bản chất giai cấp công nhân không tương dung với chủ nghĩa cơ hội, cục bộ, bản vị,
phân tán. Trái lại, nó đòi hỏi phải có tư tưởng đoàn kết thống nhất, hành động thống
nhất, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn xã hội.
Như vậy, bản chất giai cấp công nhân thể hiện chủ yếu và quyết định không phải là
số lượng đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân nhiều hay ít, mà ở lập trường
quan điểm, thế giới quan, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức,… của Đảng có thật
sự là của giai cấp công nhân và đường lối chính trị của nó có phản ánh đúng lợi ích
của nhân dân lao động và của cả dân tộc hay không.
Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, tính giai cấp hoà quyện chặt chẽ với tính
dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng chẳng
những phải giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân mà còn phải tiếp thu,


phát triển tinh hoa và truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc Việt Nam.
Đây là yếu tố rất quan trọng làm tăng cường sức mạnh của Đảng.
Là người lãnh đạo, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, đồng thời là lãnh tụ

chính trị của cả dân tộc, hơn ai hết, Đảng phải có trí tuệ cao, có tính tiên phong. Chiến
thắng được mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên
chủ nghĩa xã hội, trước hết là nhờ Đảng ta có trí tuệ tiên phong. Lúc này, muốn chiến
thắng nghèo nàn, lạc hậu, Đảng ta càng phải có trí tuệ tiên phong. Mọi cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc vấn đề này để
có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ tư duy lý luận
và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn.
Hai mươi năm qua, Đảng ta đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới
là do Đảng đã kiên định mục tiêu chiến lược, đồng thời đổi mới tư duy, nâng cao trình
độ lý luận, vận dụng một cách độc lập, sáng tạo những nguyên lý, lý luận, tổng kết
thực tiễn, phát huy được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, nắm bắt được những vấn đề
nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay cũng còn nhiều vấn đề cần phải
tiếp tục đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ. Nếu không đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn; nếu cán bộ, đảng viên không chịu học tập (học lý luận, học
quản lý, học chuyên môn, nghiệp vụ…), học trong nghiên cứu, trong cuộc sống thực
tiễn thì không thể tìm ra được câu trả lời cho các vấn đề đó. Cho nên, học
tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên. Lười học tập, lười suy nghĩ sẽ
dẫn đến thụ động, ỷ lại, không thể nâng được trí tuệ của từng đảng viên, tổ chức đảng
và toàn Đảng. Chính vì vậy, trong Báo cáo chính trị Đại hội IX, Đảng đã chỉ rõ: "Các
cấp ủy và chi bộ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học tập, rèn luyện, không
ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh
đạo, quản lý và công tác vận động nhân dân, phát huy vai trò tiền phong gương
mẫu"1.
Đảng không những là lãnh tụ chính trị, người lãnh đạo, mà còn là một tổ chức
chiến đấu của những chiến sĩ tiên phong có giác ngộ cách mạng. Vì vậy, tổ chức đảng
phải rất chặt chẽ, mọi thành viên phải đoàn kết thống nhất. Sự thống nhất của Đảng
được bảo đảm bằng tính tiên phong, bằng mục tiêu lý tưởng chung, đồng thời được
đảm bảo bằng tổ chức, bằng các nguyên tắc tổ chức, trước hết là những nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và
phê bình. Hiện nay, hơn lúc nào hết, càng phải kiên định, bảo vệ, phát triển và làm

phong phú thêm nội dung, phương thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Xa
rời nguyên tắc tập trung dân chủ là Đảng tự phá hoại sức mạnh về tổ chức của mình.
Các thế lực thù địch đang mong muốn chúng ta vấp phải những sai lầm đó. Thực tế đã
không ít Đảng Cộng sản nội bộ rối loạn hoặc tan rã chỉ vì từ bỏ nguyên tắc tập trung
dân chủ. Đương nhiên, để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cần nhận thức
đúng và thống nhất nội dung, bản chất của tập trung dân chủ, mối quan hệ biện chứng
giữa hai mặt tập trung và dân chủ; đồng thời cần cụ thể hoá, thể chế hoá thành các
quy chế, quy định, quy trình cụ thể, nhất là trong việc dân chủ thảo luận, ra quyết
định và trong công tác cán bộ. Dân chủ là cơ sở của tập trung, phải phát huy mạnh mẽ
dân chủ trong Đảng, đồng thời phải thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, song dân
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001,

tr. 53.


chủ phải có lãnh đạo, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật của Nhà
nước.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là cơ sở để củng cố sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng. ở những bước ngoặt của cách mạng, trong những lúc khó
khăn, phức tạp, việc giữ vững nguyên tắc và sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước
hết là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của
cách mạng. Ngày nay, trong điều kiện mới, mọi cán bộ, đảng viên càng phải nêu cao
tinh thần đoàn kết, ý thức giữ gìn sự thống nhất của Đảng. Sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng được xây dựng trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, tình cảm cách
mạng trong sáng của những đồng chí thương yêu nhau, đồng thời thực hiện nghiêm
túc các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; thực hiện chính sách cán bộ một cách nhất
quán, công bằng.
Để thực hiện tốt những yêu cầu, nội dung của công tác tự đổi mới, tự chỉnh đốn,

thì một vấn đề hết sức quan trọng là Đảng cần gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa
vào dân. Liên hệ mật thiết với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động
của một Đảng Mác-xít - Lê-nin-nít chân chính và là nguồn gốc tạo ra sức mạnh của
Đảng và cách mạng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc liên hệ với quần chúng càng có ý thức đặc biệt
quan trọng. Quan liêu, xa rời quần chúng là biểu hiện nguy cơ thoái hoá của Đảng. Nó
chẳng những làm cho Đảng thoái hoá, rã rời về tổ chức, mà nguy hại hơn, còn có thể
làm cho Đảng sai lầm về đường lối chính trị.
Hơn nửa thế kỷ qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường lối chính
trị trong lòng dân, được nhân dân đồng tình và ủng hộ, cho nên Đảng và nhân dân đã
kết thành một khối vững chắc. ở đâu và lúc nào Đảng, cán bộ, đảng viên thường
xuyên chăm lo cho lợi ích của dân, sống đồng cam cộng khổ với dân, mọi việc làm
đều vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp, cán bộ, đảng
viên, được dân tin, dân phục, dân theo. Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân
thì ở đó sẽ bị dân oán ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua 20 năm thực hiện đường lối
đổi mới, với việc phát triển kinh tế, xã hội, cải thiện đời sống, mở mang dân trí, dân
chủ trong xã hội, Đảng đã ngày càng củng cố được niềm tin của nhân dân, khơi dậy
những tiềm năng, tạo ra được nguồn sinh lực mới của cách mạng.
Đất nước đang tiến vào thời kỳ phát triển mới, thời cơ thuận lợi đang mở ra, đồng
thời cũng còn không ít khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra vẫn diễn
biến phức tạp, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Những yếu kém trong công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, các vấn đề xã hội bức xúc, mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân, nếu không được kịp thời khắc phục có hiệu quả và sự chống phá của
các thế lực thù địch thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ sẽ là
nguy cơ tiềm ẩn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cần nhận thức sâu sắc vấn đề này và có nhiều biện pháp tích cực, thiết thực để xây
dựng Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân, xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, trong đó nòng cốt là khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức.
Điều đặc biệt chú ý là phải củng cố và xây dựng "thế trận lòng dân", mà nội dung cơ

bản là: củng cố sự nhất trí về chính trị - tinh thần trong nhân dân, sự gắn bó giữa nhân
dân với Đảng, giữa nhân dân với chế độ chính trị do Đảng lãnh đạo. Lòng dân hướng
về Đảng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đoàn kết gắn bó với Đảng,
với Nhà nước, với chế độ. Có thể nói: không có nguy cơ nào, thế lực thù địch nào làm


sụp đổ được chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta nếu Đảng ta, Nhà nước ta, chế độ
ta được đại đa số nhân dân đoàn kết gắn bó, ủng hộ và bảo vệ. Vì vậy, "bài toán lòng
dân" phải được giải quyết đồng bộ, trên nhiều mặt, cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hoá xã hội… để cùng tác động đến đời sống, tâm lý, tư tưởng các tầng lớp nhân
dân, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng
người dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân không
ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa được củng cố, mở rộng;
quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh, nâng cao
được sức chiến đấu; bộ máy nhà nước trong sạch, thực sự của dân, do dân, vì dân,
nâng cao được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng,
ra sức góp phần xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ.


Xây
dựng
chính
trị,

tưởng
Nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân ta, dân tộc ta đấu tranh cách mạng, giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn
đặt xây dựng chính trị, tư tưởng lên vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng.
Bởi lẽ, xây dựng chính trị, tư tưởng là nội dung xây dựng mang tính cơ bản nhất của

Đảng, là khâu trung tâm xuyên suốt các mặt xây dựng của Đảng, là tiền đề và cơ sở
để nâng cao sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Và do đó, nó cũng là một biện pháp
quan trọng để Đảng luôn giữ vững tính chất tiền phong của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của dân tộc.
Nhìn lại hơn 17 năm thực hiện đường lối đổi mới, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 5 (khoá IX) của Đảng đánh giá những ưu điểm, những mặt làm tốt của
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong thời gian qua, đồng thời cũng chỉ ra mặt
yếu kém, bất cập của công tác tư tưởng lý luận là còn thiếu sắc bén, tính chiến đấu
chưa cao, phương pháp chưa linh hoạt, chưa tạo được nhận thức thống nhất cao và
thông suốt đối với một số vấn đề trong đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng;
chưa thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; chưa phê phán mạnh
và đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, những
quan điểm mơ hồ, sai trái.
Chúng ta đều biết rằng, hiện nay, những thế lực chống cộng và những người phản
bội đầu hàng đã công khai bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bác
bỏ thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Các khuynh hướng cơ hội, hữu khuynh,
những người có quan điểm mơ hồ, sai trái, dù vô tình hay hữu ý, đã tiếp tay cho các
thế lực thù địch chống phá ta trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong quá trình đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Cần hiểu rằng, những lệch lạc về tư tưởng của một số cán bộ, đảng viên chủ yếu là
do nhận thức chưa rõ ràng về những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển trong đường lối cách mạng của Đảng
ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới; thiếu vững vàng về chính trị, tư tưởng… Trong số
này, cũng có những người do thành tâm tìm tòi đổi mới, nhưng nhất thời có nhận thức
sai lầm, còn số có ý thức chống đối và những phần tử cơ hội, cực đoan chỉ là số rất ít.
Song, điều cần lưu ý là trong số những người có quan điểm lệch lạc đó có cả một số
cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ nghiên cứu đang tác động tiêu cực không nhỏ đến
nhận thức chính trị, tư tưởng của không ít người, nhất là đối với lớp trẻ. Điều đáng
quan tâm ở đây là những biểu hiện tư tưởng dao động về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối đổi mới, về sự lãnh đạo của Đảng… Những tư

tưởng đó hiện nay phải được giải quyết không chỉ bằng thực tiễn mà phải bằng cả lý
luận và từ lý luận.
Đảng
ta
lấy
chủ
nghĩa
Mác
Lê-nin,

tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, đó là cơ sở lý luận
chung chỉ đạo, định hướng cơ bản chung cho hoạch định Cương lĩnh, đường lối cách
mạng của Đảng. Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; mở cửa hội nhập với các nước trên thế giới và khu vực, thực
hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại theo phương châm thêm bạn, bớt
thù, Việt Nam là bạn và là đối tác tin cậy đối với các nước… Và do đó, các thành


phần kinh tế, các hình thức tổ chức, các phương thức tạo việc làm, các quan hệ lợi ích
và các phương thức phân phối trong xã hội ở nước ta ngày càng đa dạng hoá. Nhưng
quan điểm, đường lối chính trị chỉ đạo là một, đó là đường lối chính trị
do
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
lãnh
đạo.

Đường
lối
đó thể hiện sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
gắn với sự phát triển của thời đại, của thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, định ra đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù
hợp với yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, dân tộc ta. Vì vậy mà nó
có sức sống mãnh liệt và đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Đó là sự kế thừa,
làm phong phú và phát triển lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ
đổi mới. Bởi lẽ, lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận không ngừng
phát triển, là phương pháp khoa học và kim chỉ nam chứ không phải là kinh thánh,
giáo điều.
Có thể nói, xuyên suốt quá trình lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh cách mạng, giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước và nhất là trong công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nếu không có sự phát triển mới về lý luận và sáng
tạo trong thực tiễn thì Đảng ta, nhân dân ta, đất nước ta không thể có hôm nay. Điều
này đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải nhận thức rõ hơn ai hết để có cơ
sở lý luận, thực tiễn, tự hào về Đảng, củng cố niềm tin, không ngừng nâng cao trình độ
năng lực, phẩm chất chính trị, trách nhiệm chính trị của mình đối với Đảng; tích cực
đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận lý luận, chính trị, tư tưởng, chống các quan điểm
thù địch, sai trái; bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của
Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân ta, dân tộc ta, đấu tranh bảo vệ chân
lý, để lý luận, quan điểm, đường lối chính trị của Đảng phát triển một cách mạnh mẽ
và vững chắc trong sự nghiệp đổi mới. Thế nhưng, để thực hiện tốt điều đó, cần để
các quan điểm nhận thức khác nhau được bộc lộ rõ ràng, được tranh luận với nhau
một cách trung thực, thẳng thắn, làm rõ đúng sai, với trách nhiệm chính trị cao trước
nhân dân, trước dân tộc. Bởi lẽ, những quan điểm nhận thức khác nhau ngay trong nội
bộ Đảng nếu không được trao đổi, tranh luận, phân biệt đúng sai thì đến một lúc nào
đó tất yếu sẽ bộc lộ ra. Khi ấy e rằng sẽ là một sự hỗn loạn về lý luận, chính trị, tư
tưởng trong Đảng mà chúng ta không còn làm chủ và không kiểm soát được nữa. Sự
hỗn loạn đó trong Đảng tất yếu sẽ dẫn đến sự lạc hướng chính trị trong nhân dân. Đó

là điều đã từng diễn ra ở một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây mà chúng ta phải tự
rút ra những bài học cho mình. Vì những quan điểm ấy trực tiếp dẫn đến những
đường lối, chính sách thực tiễn khác nhau, mà trong đó nhất định là có đường lối
đúng và đường lối sai. Và khi đã nói đến chính trị thì không thể không đặt ra các
tranh luận có nguyên tắc không khoan nhượng, bởi lẽ chính trị có liên quan đến hàng
triệu con người, đến vận mệnh của chế độ, đến sự nghiệp cách mạng của cả một dân
tộc. Do đó, cần hiểu rằng, công tác chính trị, tư tưởng hiện nay có sự phát triển mới
so với trước, không chỉ dừng lại ở chỗ tuyên truyền, quán triệt làm rõ cơ sở lý luận
của
chủ
nghĩa
Mác
Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; cơ sở lý luận, thực tiễn đường lối đổi mới của Đảng, mà còn
phải
đi
sâu
làm rõ những quan điểm, nguyên tắc nào cần vận dụng, tiếp tục nghiên cứu phát triển,
những vấn đề nào không còn phù hợp phải điều chỉnh hoặc sửa đổi, v.v… Cho nên
cần phải có sự nghiên cứu trao đổi, tranh luận khoa học một cách có nguyên tắc.


Cần khẳng định rằng, trong Đảng ta kiên quyết không chấp nhận đa nguyên tư
tưởng, Đảng chỉ có một nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh mà thôi, nhưng có thể chấp nhận những cách nghiên cứu tiếp cận vấn đề
khác nhau để cùng nhau tranh luận tìm chân lý, làm sáng tỏ thêm bản chất cách mạng,
khoa học chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Có
thể nói, sự chấp nhận đó chính là sự mở rộng nguyên tắc. Điều lệ Đảng cho phép
thiểu số được quyền bảo lưu ý kiến trong lĩnh vực nghiên cứu, thảo luận, tranh luận lý
luận. Song, đã nói đến quyền được bảo lưu ý kiến thì phải nói đến nguyên tắc tập

trung dân chủ trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chúng ta đều biết rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học,
nhưng là loại khoa học đặc biệt, là khoa học hệ tư tưởng, là khoa học thế giới quan và
là cơ sở trực tiếp của đường lối chính trị. Không thể công bố và truyền bá công khai
mà không có bất cứ sự hạn chế nào các quan điểm khác nhau trên các phương tiện
thông tin đại chúng hay ở các bục giảng, diễn đàn… Vì như vậy sẽ cung cấp cho các
thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" - một vũ khí rất lợi
hại - để tiến công ta. Điều đó còn dẫn đến sự hỗn loạn về tư tưởng, mất ổn định về
chính trị chẳng những trong Đảng mà cả trong xã hội. Chính vì vậy mà Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5, khoá IX, Đảng ta đã chỉ rõ: "Phát huy tự do tư tưởng, khai
thác mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, đồng thời
giữ vững kỷ cương trong việc phổ biến kết quả nghiên cứu". Như vậy, có sự khác biệt
quan trọng trong việc tạo ra một môi trường dân chủ cao trong nghiên cứu thảo luận,
tranh luận khoa học với tinh thần đề cao tính khách quan, khoa học và tính đảng của
người làm công tác tư tưởng, lý luận, xây dựng không khí dân chủ, cởi mở, có nguyên
tắc trong thảo luận, tranh luận khoa học và tính tổ chức, kỷ luật trong việc công bố,
truyền bá những quan điểm lý luận. Điều quan trọng là qua thảo luận, cùng nhau làm
rõ vấn đề đúng, sai, cấp có thẩm quyền cần có kết luận những quan điểm lý luận
chính thống mà toàn Đảng, trong đó có cả giới trí thức của Đảng phải nói và làm
thống nhất. Trên cơ sở đó tạo ra sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động đấu tranh
chống lại những quan điểm thù địch, sai trái, cơ hội, xét lại một cách có cơ sở lý luận,
thực tiễn và có sức thuyết phục hơn.
Phải
bảo
vệ
sự
trong
sáng
của
chủ

nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, quan điểm, đường lối của
Đảng, làm cho Đảng ta luôn luôn xứng đáng là bộ tham mưu, là lãnh tụ chính trị của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, việc xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng luôn là nhiệm vụ hàng đầu của nguyên tắc xây
dựng Đảng. ở đây đòi hỏi cán bộ, đảng viên các cấp phải có năng lực trí tuệ, nhãn quan
chính trị nhạy bén, sắc sảo, có năng lực, tư duy sáng tạo nghiên cứu tiếp thu Cương lĩnh,
nghị quyết của Đảng có cơ sở lý luận, thực tiễn. Trong quá trình tổ chức thực hiện phải
biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của ngành mình, cơ quan mình, địa phương
mình. Và qua thực tế có thể phát hiện những vấn đề mới nảy sinh và những vấn đề nghị
quyết đề ra nhưng thực tiễn đã phát triển để nghiên cứu, khái quát, tổng hợp, kiến nghị
với Đảng, chứ không phải tiếp thu nghị quyết của Đảng một cách thụ động, máy móc,
giáo điều, biến nghị quyết của Đảng thành những câu chữ trích dẫn cứng nhắc, làm
cho nghị quyết của Đảng chỉ dừng lại ở những văn bản giấy tờ mà không thâm nhập
được vào đời sống xã hội, v.v…
Nhìn lại công tác xây dựng Đảng những năm qua, Báo cáo chính trị Đại hội IX của
Đảng chỉ rõ: bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết


điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên;
chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức, lối
sống… Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập, v.v… Vì vậy, các cấp
ủy và chi bộ ở cơ sở phải đẩy mạnh việc tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học
tập, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến
thức lãnh đạo, quản lý và vận động nhân dân, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu;
cần phải nghiên cứu, học tập có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức vận dụng và
phát triển tư tưởng đó một cách sáng tạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là
hiện thân trọn vẹn nhất của sự kết hợp đó, là tiêu biểu cho sự sáng ngời của việc kết

hợp giai cấp với dân tộc, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội. Tư tưởng đó bao gồm một hệ thống quan điểm lý luận chính trị toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế, văn hoá, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Tư tưởng của Người soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi,
là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta và dân tộc ta. Do đó, việc nghiên cứu, học tập
có hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức quán triệt,
vận dụng thực hiện tốt tư tưởng của Người, là những nội dung rất quan trọng trong
công tác xây dựng chính trị, tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và xây dựng,
chỉnh đốn Đảng hiện nay.


Xây

dựng
Đảng
trong
sạch
vững
mạnh
nhân
tố

hàng
đầu
làm
thất
bại
chiến
lược
"diễn
biến
hoà
bình"
của các thế lực thù địch
"Diễn biến hoà bình" là một chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch tiến hành một cuộc "chiến tranh mềm, không có tiếng súng", chống phá các nước
xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, trong đó hướng chủ yếu là tiến công vào Đảng
Cộng sản, nhằm hạ thấp và thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm cho chủ
nghĩa xã hội suy yếu và mất dần bản sắc của mình, tự diễn biến, chuyển hoá một cách
"hoà bình" theo con đường tư bản chủ nghĩa, hoà nhập vào thế giới tư bản. Chiến lược
này được các thế lực thù địch thực hiện mỗi nơi, mỗi lúc khác nhau, với những thủ
đoạn, biện pháp khác nhau. Song, nét nổi bật là bằng mọi cách, kết hợp mọi âm mưu,
mọi thủ đoạn để tạo dựng lực lượng đối trọng chống phá từ bên trong mà trước hết là
trong Đảng Cộng sản, trong ban lãnh đạo của Đảng. Họ tập trung đả kích sự lãnh đạo,
hạ thấp vai trò, đi đến chia rẽ và làm cho Đảng mất ổn định, phân liệt, tan rã. Đảng
chia rẽ thì dân mất phương hướng, Đảng suy yếu thì dân mất niềm tin. Đó là thời cơ
tốt để các thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu thực hiện "diễn biến hoà bình", bạo loạn
lật đổ từ bên trong.
Để thực hiện chiến lược trên đối với nước ta, họ thường áp dụng những thủ đoạn
sau:
Tập trung gây sức ép với Đảng và Nhà nước ta cả về chính trị và kinh tế, nhằm làm
cho ta bị cô lập về chính trị, suy yếu về kinh tế. Họ tăng cường các hoạt động chiến

tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng, trước hết nhằm đánh vào ý thức hệ chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với chủ nghĩa

hội

sự
lãnh
đạo
của
Đảng
Cộng
sản;
liên
tiếp
mở các chiến dịch phá hoại tư tưởng như: chuyển lửa về quê nhà, đưa sách vở, báo
chí, bản tin phản động, v.v… vào trong nước. Họ đã đưa vào nước ta hàng ngàn ấn
phẩm có nội dung phản động, đồi truỵ, đồng thời thông qua các cuộc hội thảo đưa ra
nhiều thuyết giáo phản động, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "tự do"
để kích động phá hoại tư tưởng. Nội dung chủ yếu của các hoạt động này là: ca ngợi
chủ nghĩa tư bản, tuyên truyền lối sống phương Tây; xuyên tạc, bóp méo tình hình
nước ta, khuếch đại những khuyết điểm sai lầm của Đảng và những khó khăn tạm thời
trước mắt về kinh tế, xã hội của nước ta, v.v… Thông qua các hoạt động kinh tế, họ
lôi kéo hòng làm biến chất một số cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của nước ta, tạo
điều kiện cho những hoạt động "diễn biến hoà bình" về tư tưởng, chính trị, ngoại giao
và các hoạt động phá hoại ngầm khác.
Trong những thủ đoạn để thực hiện "diễn biến hoà bình", Ních-xơn - cựu Tổng
thống Mỹ, hết sức tâm đắc "những hoạt động ngầm". Theo ông ta, hoạt động ngầm là
một công cụ hết sức lợi hại trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Ông ta khẳng định:
nếu chúng ta từ bỏ hoạt động bí mật, một công cụ của chính sách đối ngoại thì cũng
chẳng khác nào ta tự trói tay trong cuộc chạy đua với Liên Xô. Hoạt động ngầm bằng
nhiều hình thức như: cung cấp ngân sách, vũ khí cho các lực lượng chống đối, lôi kéo

móc nối xây dựng lực lượng phản động từ bên trong, tài trợ tiền, phương tiện cho các
tổ chức xã hội, báo chí nhằm thành lập các tổ chức, đảng phái, lực lượng phản động,


tạo dựng ngọn cờ chống phá Đảng Cộng sản, khi có thời cơ thì nổi dậy gây bạo loạn
lật đổ chính quyền, v.v…
Vào thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, họ thực hiện chiến lược "vượt trên ngăn chặn" để
thủ tiêu các nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi tình hình thế giới thay đổi, cục diện chiến
lược toàn cầu thay đổi, cùng với sự thay đổi cục diện chiến lược chung, hầu như các
nước đều tiến hành điều chỉnh chiến lược của mình cho phù hợp, bởi vậy họ cũng tiến
hành điều chỉnh phương châm chiến lược. Đó là chiến lược "triệt tiêu kẻ thù" thay
vào chiến lược "vượt trên ngăn chặn". Chiến lược này được đưa ra áp dụng vào những
năm gần đây khi họ thay đổi chiến lược ngoại giao từ "bao vây phong toả" sang "hợp
tác hội nhập". Tư tưởng chủ đạo của chiến lược này là áp dụng các biện pháp cần thiết
để tiếp cận kẻ thù, lôi kéo các nước đối lập từ đối đầu sang đối thoại, tiếp đó đưa các
nước vào vị trí cùng hợp tác hoặc hoà nhập với họ trong các tổ chức quốc tế hoặc
song phương. Làm như vậy, họ thực hiện được mục tiêu biến các nước này từ kẻ thù
của họ thành đối tác kinh tế và các lĩnh vực khác, từ đó khống chế các nước theo sự
chỉ huy và chi phối của họ, lệ thuộc vào họ từ kinh tế, tiền tệ đến chính trị… và cuối
cùng, thực hiện được mục tiêu "triệt tiêu kẻ thù", như trước đây đã từng thực hiện
mục tiêu "không đánh mà thắng" đối với Liên Xô và Đông Âu. Theo tính toán của các
nhà chiến lược phương Tây thì phương châm chiến lược này đạt được mục tiêu là tiêu
diệt kẻ thù nhưng không phải bằng vũ khí mà bằng biện pháp tuyên truyền và kinh tế,
tài chính, tiền tệ,…
Đối với nước ta, việc mở cửa hội nhập, hợp tác với các nước là cần thiết để phát
triển kinh tế, xây dựng đất nước. Thế nhưng phải luôn tỉnh táo, giữ vững nguyên tắc,
không mơ hồ mất cảnh giác.
Việc đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "diễn biến hoà
bình" của các thế lực thù địch, vấn đề cơ bản hàng đầu là phải xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trước hết là tiếp tục xây dựng và

củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo về chính trị,
lãnh đạo công cuộc đổi mới thành công, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguồn sức mạnh tiềm tàng, giúp Đảng ta vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Sức mạnh của sự đoàn kết đó bắt nguồn từ sự đúng đắn của đường lối cách
mạng, sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong Đảng, từ niềm tin và ý
chí kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nổi bật, nhất quán của Bác Hồ, của Đảng ta, của
nhân dân ta và của dân tộc ta trong suốt tiến trình lịch sử từ 1930 đến nay. Chỉ có độc
lập thực sự mới tạo điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chỉ có xây dựng chủ
nghĩa xã hội mới giữ vững độc lập dân tộc, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc đích thực
cho nhân dân lao động và cho cả dân tộc. Vì vậy, việc giữ vững ổn định về chính trị
và sự lãnh đạo công cuộc đổi mới thành công, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ
vững độc lập chủ quyền dân tộc là lương tâm, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên
trước nhân dân và dân tộc, đồng thời cũng là cơ sở tồn tại của Đảng ta. Đi chệch
phương hướng, mục tiêu đó, Đảng sẽ trở thành thoái hoá biến chất, bị nhân dân lên án
và không còn lý do tồn tại.
Nhìn lại những sai lầm, khuyết điểm của Đảng Cộng sản ở một số nước xã hội chủ
nghĩa trước đây khi bước vào cải cách, đổi mới, ta thấy Đảng Cộng sản đã không
nhận thức rõ và có đường lối, chủ trương đúng trong việc giữ vững sự lãnh đạo về
chính trị của mình, nên đã tạo ra "khoảng trống về quyền lực chính trị" và mất ổn


định chính trị. Trong Đảng thiếu sự đoàn kết, không thống nhất được quan điểm, định
hướng và bước đi của công cuộc cải cách, đổi mới. Sự vi phạm nguyên tắc lãnh đạo
và sinh hoạt của Đảng, chia rẽ trong lãnh đạo làm cho các tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên mất phương hướng, quyền lực chính trị và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều
hành của Nhà nước do Đảng lãnh đạo bị suy yếu. Đó là cơ hội cho các phần tử cơ hội,
bất mãn và phản động trong xã hội nổi lên chống Đảng. Đó cũng là điều mà các thế
lực đế quốc và phản động bên ngoài mong muốn chống phá từ bên trên và từ bên

trong để tiến tới lật đổ chế độ.
Một sai lầm nghiêm trọng nữa trong lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền là
việc xử lý những vấn đề về hệ thống chính trị xã hội. Điều phổ biến là từ việc không
kiên quyết bảo vệ những giá trị đã đạt được đi đến việc phủ nhận những thành quả
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phê phán, lên án một chiều mô hình xã hội chủ nghĩa cũ,
bóp méo, xuyên tạc lịch sử. Mặt khác, trong lãnh đạo xuất hiện những khuynh hướng
tô hồng chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa tư bản là nhờ có kinh tế thị trường tự
do và chế độ dân chủ đại nghị và sự tồn tại của nhiều chính kiến, của nhiều đảng thay
nhau cầm quyền qua các cuộc bầu cử. Những sai lầm nói trên biến tâm trạng và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động muốn có cải cách, đổi mới để có chế
độ xã hội chủ nghĩa ngày một tốt hơn thành thái độ hoài nghi, dao động, mất phương
hướng, tạo ra một "khoảng trống về ý thức hệ" trong xã hội và ngay trong nội bộ
Đảng Cộng sản. Đó là cơ hội cho các lực lượng phản động chống đối Đảng Cộng sản,
bọn đầu cơ chính trị trong nước và cho các thế lực đế quốc, phản động quốc tế lấp
"khoảng trống về ý thức hệ" đó bằng các tư tưởng phản động mang mọi màu sắc. Hậu
quả là hệ thống chính trị xã hội bị rối loạn; lãnh đạo Đảng Cộng sản lún sâu vào thế bị
động. Các lực lượng phản động hầu như làm chủ trên mặt trận tư tưởng, lũng đoạn
các phương tiện thông tin đại chúng, tạo thế chủ động tiến công, gây sức ép với Đảng
Cộng sản.
Trong chiến lược "diễn biến hoà bình" nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa thì
một trong những thủ đoạn thâm độc nhất của các thế lực thù địch là đề cao nền dân
chủ, tự do của phương Tây, công kích sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
tuyên truyền cho "chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập" và bầu cử tự do với sự tham
gia của nhiều đảng. Bầu cử tự do và khuynh hướng chính trị xã hội thiết lập chế độ
dân chủ đại nghị, là bước cuối cùng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và là
bước mở đầu cho lực lượng chống chủ nghĩa xã hội lên cầm quyền đưa đất nước đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa. Các nước này rơi vào bầu cử tự do trong tình hình
Đảng Cộng sản bị động và thoái hoá nghiêm trọng cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, dẫn đến "khoảng trống về ý thức hệ" và hỗn loạn về tư tưởng, "khoảng trống về
quyền lực chính trị" và hỗn loạn về chính trị, "khoảng trống về quản lý kinh tế" và

hỗn loạn về kinh tế. Trong khi đó, các lực lượng phản động trong nước được sự hỗ trợ
của các lực lượng phản động đế quốc, khi tranh cử và bầu cử đã dùng bạo lực chính
trị gây sức ép với Đảng Cộng sản và các thế lực tiến bộ, cô lập họ và dùng các khẩu
hiệu mị dân để tranh thủ cử tri và giành thắng lợi. Do đó dẫn đến sự tan rã của Đảng
Cộng sản và sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội là tất yếu. Điều đó cũng là cái giá phải trả
khi Đảng thoái hoá biến chất, xa rời quần chúng, để mất vai trò lãnh đạo và đất nước
rơi vào tình trạng hỗn loạn về chính trị.
Tình hình trên giúp chúng ta có thêm nhiều bài học về xây dựng Đảng. Đó là nguy
cơ chống sai lầm về đường lối, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, sai lầm
về lựa chọn và bố trí cán bộ, tệ quan liêu xa rời quần chúng…


Chúng ta cần đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn rút ra những
bài học có tính nguyên tắc, lý luận của thực tiễn hơn 10 năm đổi mới, trang bị những
kiến thức cơ bản về lý luận, chính trị và nguyên tắc cho cán bộ, đảng viên. Thực hiện
nghiêm nghĩa vụ học tập chính trị của đảng viên đã ghi trong Điều lệ Đảng, làm cho cán
bộ, đảng viên hiểu rõ và kiên trì vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào trong tiến trình đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đủ sức
giải đáp những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống. Nâng cao cảnh giác cách mạng,
chủ động và khôn khéo đối phó với những thủ đoạn chống phá Đảng của các lực
lượng phản động, bất mãn, cơ hội được sự hỗ trợ của các thế lực đế quốc, phản động
bên ngoài. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với các luận điệu sai trái của các phần tử
cơ hội về chính trị phủ nhận quá khứ tốt đẹp của Đảng và dân tộc, muốn đưa đất nước
đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa.
Thời gian qua, Đảng ta đã có những chỉ thị và tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị
rộng lớn, nâng cao tinh thần cảnh giác của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lên một
bước; đấu tranh và có đối sách cụ thể đối với một số trường hợp, làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, tinh thần
cảnh giác cách mạng của một số cán bộ, đảng viên chưa cao. Điều đáng suy nghĩ là
"sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một

bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển. Việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng
cố, đổi mới", như trong Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của Đảng đã chỉ ra.
Qua một số vụ tham nhũng, một số "điểm nóng" ở một số địa phương gần đây đặt
ra cho chúng ta phải suy nghĩ nhiều về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
từ cơ sở đến Trung ương. Đảng cần có chủ trương đúng về phát triển kinh tế, xoá đói
giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Đồng thời phải kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, giải quyết những bất bình trong nhân
dân, thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố mối quan hệ máu thịt
giữa
Đảng
với
nhân
dân,
củng
cố
niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi
hỏi
trước
hết

đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh vững vàng, không dao động trước những
khó khăn, thử thách, một lòng, một dạ vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đồng thời phải có kiến thức và năng lực tư
duy sáng tạo, phải biết kết hợp tính kiên định về quan điểm, nguyên tắc với sự khôn
khéo, sáng tạo, mềm rẻo trong xử lý những tình huống cụ thể đúng quan điểm của
Đảng. Đó cũng là nội dung của bản lĩnh chính trị, thiếu nó thì cán bộ, đảng viên

không thể có định hướng chính trị, tư tưởng đúng để xem xét, xử lý những động thái
chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đang diễn ra khá phức tạp
hiện nay.
Nhìn lại hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, có thể nói thành công
lớn nhất mà Đảng ta đã đạt được là từng bước nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, xây dựng được đường lối đổi mới đúng đắn và đã đạt được
những thành tựu rất quan trọng. Có được đường lối chính trị đúng đắn trong hoàn
cảnh phát triển bình thường đã là việc khó; ở những bước ngoặt của lịch sử, với bối


cảnh trong nước, quốc tế có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp thì việc xác định
được một đường lối chính trị đúng và bảo đảm cho đường lối đó thành hiện thực càng
khó khăn hơn nhiều.
Đảng ta tuyệt đối trung thành với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không dao động về tư tưởng và con đường
đã lựa chọn; đổi mới nhưng không phủ nhận truyền thống và quá khứ tốt đẹp của cách
mạng, không từ bỏ nguyên tắc, mà biết kết hợp chặt chẽ sự kiên định về chiến lược
với sự vận dụng mềm dẻo, uyển chuyển về sách lược. Đảng nắm vững và vận dụng
một cách độc lập, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Đây là cả một quá trình suy tư gian khổ, tìm tòi đổi mới tư duy lý luận, tổng kết thực
tiễn phong phú và sáng tạo của quần chúng, của cơ sở, có khi phải thể nghiệm làm đi
làm lại nhiều lần, thậm chí có lúc đã không tránh khỏi sai lầm và tạm thời thất bại. Và
trên thực tế, Đảng ta cũng đã phạm những khuyết điểm sai lầm. Điều quan trọng là
Đảng không che giấu khuyết điểm, sai lầm mà đã công khai thừa nhận, thành tâm
lắng nghe ý kiến nhân dân, khắc phục những khuyết điểm, sai lầm, quyết tâm phấn
đấu đi lên, từ đó Đảng càng trưởng thành và vững vàng bản lĩnh.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu phát triển mới của sự nghiệp cách mạng, sự chống
phá ngày càng tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch và trước những khuyết điểm
tồn tại hiện nay mà Đảng ta đang đấu tranh khắc phục, đòi hỏi Đảng phải thường

xuyên xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng, tổ chức. Có như vậy Đảng mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn
trong chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, lãnh đạo toàn dân thực hiện
thắng lợi đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Kiên
định
con
đường

hội
chủ
nghĩa
sự
lựa
chọn
duy nhất đúng đắn của Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta
Trước khi sự khủng hoảng và sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu, chủ nghĩa xã hội đã bị phê phán gay gắt chưa từng thấy từ nhiều hướng.
Đáng tiếc là ngay trong hàng ngũ những người cộng sản cũng có một số ít người biểu
hiện thoái hoá biến chất, dao động về lập trường, tư tưởng, muốn phủ định các thành
tựu cách mạng, dẫn đến phủ định con đường xã hội chủ nghĩa. Từ đó họ kiến nghị từ
bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ bỏ chủ nghĩa xã hội, v.v…
Trong bối cảnh phức tạp đó, điều đặc biệt có ý nghĩa là qua các đợt góp ý xây dựng
các dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, hầu hết ý kiến của cán bộ, đảng viên và
nhân dân đều nhất trí khẳng định tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, con
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn; khẳng định
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn tới

mục tiêu ấy.
Cần khẳng định rằng, đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát
từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta trong lúc các phong trào cứu nước từ lập
trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử
đều
lần
lượt
thất
bại.
Nhân
dân
ta,
dưới
ngọn
cờ
của
Đảng,
của
Bác,
phát
huy
cao
độ
truyền
thống anh hùng bất khuất của dân tộc, đã chiến đấu hy sinh ròng rã mấy chục năm
trời, hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, đã chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đạt được những thành tựu cả
về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh… cho nên, không có



nay
lại
rẽ
sang
con
đường
khác
ngược
với
mục tiêu đã chọn. Chẳng lẽ bao nhiêu thành quả cách mạng giành được bằng mồ hôi,
xương
máu
của biết bao thế hệ người Việt Nam lại đem trao vào tay những lực lượng đưa đất
nước
đi
vào
con đường tư bản chủ nghĩa, con đường chắc chắn không thể bảo đảm độc lập thật sự
cho
dân
tộc, tự do, hạnh phúc thật sự cho tuyệt đa số nhân dân. Chính vì vậy, trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh" 1. Thế nhưng quan
niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như thế
nào? Liệu có được một quan niệm chính xác về điều đó hay không, khi mà chủ nghĩa
xã hội đang khủng hoảng cả về lý luận, cả trong thực tiễn?
Quả là đang có những hạn chế nhất định về lý luận và thực tiễn khi chúng ta bắt tay
xây dựng Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết trong công cuộc
đổi

mới
xây
dựng

bảo
vệ
Tổ
quốc

hội
chủ
1

83

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.


nghĩa ngày nay. Tuy nhiên, đó không phải là trở ngại không thể vượt qua. Bởi lẽ, chủ
nghĩa

hội
đã
có thành công, có thất bại, đó là nguồn kinh nghiệm vô giá. Lại có cả kinh nghiệm đổi
mới,
cải
tổ,
cải
cách những năm qua đã gợi mở cho Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta thấy nhiều vấn đề
quan

trọng,
từ
mặt
thành
tựu

từ
cả
những
vấp
váp.
Đó

những

sở
thực
tiễn
để

thể
rút
ra
những
kết
luận
cần
thiết
dưới
sự

chỉ
dẫn
của
phương
pháp luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng một cách sáng tạo. Nhờ
đó mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được
hình thành trên những vấn đề cơ bản. Đương nhiên, những gì mà nhận thức chúng ta đạt
tới hôm nay sẽ còn tiếp tục được nghiên cứu bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển
của thực tiễn và của tư duy lý luận. Song, ở thời điểm hiện nay, đó là những quan niệm
đúng, thể hiện tập trung ở những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
xây dựng. Đó là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu; có một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Những phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là
kết quả của sự dày công suy nghĩ và sự đóng góp trí tuệ rộng rãi của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân trên cơ sở tính đến những kinh nghiệm thành công và không thành
công trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước khác. Các
phương hướng đó vừa mang tính nguyên tắc bảo đảm không chệch định hướng xã hội
chủ nghĩa, vừa quán triệt tinh thần đổi mới, cho phép không lặp lại những sai
lầm cũ. Do đó, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, một lần
nữa Đảng ta khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi
hoạt động của Đảng hiện nay và những năm sắp tới.
Mô hình con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta do Đảng ta và nhân dân ta
từng bước tìm ra, đến Đại hội IX được đúc kết thành những luận điểm rõ hơn, phù
hợp hơn với điều kiện lịch sử mới và có bước đi cụ thể hơn.

Trước hết, Báo cáo chính trị đã làm rõ cơ sở nguồn gốc, vị trí, nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại…
Đây là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều mô hình tổ chức kinh tế - xã hội có tính quá độ.


Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh
trong nội bộ nhân dân, đoàn kết hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích
toàn dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Báo cáo chính trị cũng chỉ rõ: nội dung chủ yếu của đấu tranh giai
cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Vì vậy, động lực chủ yếu để phát triển đất nước và đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, kết hợp hài hoà các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực từ các thành phần kinh
tế của toàn xã hội.
Trong văn kiện này, Đảng ta cũng khẳng định rõ kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng

trở thành nền tảng vững chắc. Và tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng
quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời khẳng
định rõ: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và phát triển giáo dục, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực của đất nước, v.v…
Như vậy, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn nắm vững
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là
nguyên tắc cơ bản định hướng tư tưởng, quan điểm. Đổi mới quyết không phải là thay
đổi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thay đổi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
thay
đổi
chủ
nghĩa
Mác
Lê-nin,

tưởng
Hồ
Chí
Minh
bằng
học thuyết khác. Thế nhưng, quá trình đổi mới nếu quan niệm rằng, cứ áp dụng
nguyên xi những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà không tính đến tình
hình phát triển của cách mạng, tình hình phát triển của thực tiễn thế giới, khu vực và
trong nước, thì lại rơi vào bảo thủ, giáo điều và chắc chắn sẽ lại dẫn đến thất bại trong
thực tiễn. Bởi lẽ những nguyên lý cơ bản được thể hiện trong cuộc sống ở thời gian và
không gian cụ thể như thế nào, phải tìm câu trả lời chính trong cuộc sống. Không ở

đâu tồn tại những nguyên lý chung trừu tượng, chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng
tạo.
Nắm vững những quan điểm, nguyên tắc và phương pháp luận trên, ngay từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã tỏ rõ thái độ trong việc đánh giá tình hình
là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đó cũng là sự vận dụng phương pháp
luận mác-xít, coi việc nhận thức đúng thực tế khách quan là điều kiện quan trọng
hàng đầu để có hướng đổi mới đúng đắn.


Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt
làm được, phân tích làm rõ những sai lầm, khuyết điểm, đề ra đường lối đổi mới một
cách toàn diện. Điều đó thể hiện ở chỗ Đảng ta luôn chú trọng trên cả ba mặt: một là,
phát huy những thành quả đã đạt được; hai là, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm;
ba là, nghiên cứu đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp tình hình của đất nước,
bối cảnh của khu vực và quốc tế trong thời kỳ mới. Nhờ những đường lối, chủ trương
đúng đắn, sáng tạo đó mà công cuộc đổi mới của đất nước 15 năm qua đã đạt được
những thành tựu to lớn, rất quan trọng.
Do đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX Đảng ta đã rút ra kết luận là: qua 15 năm đổi
mới đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại
hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn, nhất là những bài
học chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đó cũng chính là những cơ sở lý luận và thực tiễn để tiếp tục khẳng định và củng cố
niềm tin vào thắng lợi và sự kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta, nhân
dân ta, dân tộc ta đã lựa chọn.



Mấy
suy
nghĩ
về
sự
đúng
đắn,
sáng
tạo
của Đảng trong sự nghiệp đổi mới
Nhìn lại 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chúng ta thấy rằng, đổi
mới là một sự nghiệp cách mạng đầy khó khăn, phức tạp. Khó khăn của quá trình đổi
mới càng đặc biệt gay gắt, vì nó bắt đầu diễn ra đúng vào lúc đất nước đang khủng
hoảng nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và đang bị bao vây cấm vận… Quá trình đổi
mới đã trải qua những năm tháng đầy sóng gió, có lúc tưởng chừng như khó vượt qua.
Đó là những năm lạm phát đến chóng mặt, đời sống của những người ăn lương điêu
đứng, nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã thủ công nghiệp đình đốn, thua lỗ,
sản xuất cầm chừng, thậm chí phải đóng cửa và giải thể hàng loạt; hàng chục vạn
công nhân phải rời dây chuyền sản xuất, ra khỏi biên chế tự tìm đường sống; nhiều
cán bộ văn hoá, giáo dục lương không đủ ăn phải bỏ nghề. những vụ lừa đảo đổ vỡ tín
dụng có tính dây chuyền khiến nhiều người vỡ nợ, sạt nghiệp; nhiều xí nghiệp, công ty
mất vốn không thanh toán được nợ nần phải phá sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô, Đông Âu sụp đổ gây thêm những khó khăn vô cùng to lớn về kinh tế, chính trị, tư
tưởng tâm lý, lòng tin giảm sút. Mặc dù vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vượt
qua hết khó khăn này đến thử thách khác, đưa công cuộc đổi mới từng bước tiến lên,
như Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đánh giá: "Công cuộc đổi mới
trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng…
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" 1.
Đạt được thành tựu trên, trước hết là do Đảng ta luôn nắm vững những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới và
coi đây là nguyên tắc cơ bản của đổi mới. Đồng thời nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo,
vạch ra những hình thức, phương pháp, bước đi thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của ta
để từng bước tháo gỡ những khó khăn, đưa đất nước tiếp tục phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Tiến hành đổi mới khắc phục tình trạng trì trệ, xơ cứng của đời sống kinh tế, xã hội
là yêu cầu hết sức bức bách. Song quá trình đổi mới phải tính đến tình hình phát triển
của cách mạng, tình hình phát triển thực tiễn của thế giới, khu vực và trong nước. Bởi
lẽ, những nguyên lý cơ bản chung thể hiện trong cuộc sống ở thời gian và không gian
cụ thể như thế nào, phải tìm câu trả lời chính trong cuộc sống. Chân lý luôn luôn là cụ
thể, cách mạng là sáng tạo. Cái chung không ngoại trừ cái riêng mà thể hiện trong cái
riêng, cái riêng làm phong phú cái chung. Và cũng do đó, nếu nhân danh "sáng tạo",
"đổi mới" để từ bỏ các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh thì lại rơi vào chủ nghĩa xét lại phủ định thành quả cách mạng, phản bội lại
lợi ích của nhân dân lao động. Thật không có gì tệ hại nguy hiểm hơn là dao động và
sai lầm trên những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản, vì chúng là ranh giới giữa
những người cộng sản và không phải cộng sản, xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ
nghĩa, cách mạng và cải lương.
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996,

tr. 68.


Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng, Nhà nước ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối đổi mới trên các lĩnh vực,
củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đả ng

trong xã hội; đã ban hành Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung và ban hành mới nhiều
văn bản pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà nước;
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ của nhân dân trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá được phát huy. Các tầng lớp
nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng hướng
về quê hương vì đại nghĩa ấy. Chính vì vậy, qua tổng kết 10 năm đổi mới, trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội VIII, Đảng ta đã rút ra một kết luận là "Xác định rõ đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về
chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện
pháp phù hợp. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự
linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy bén nắm bắt cái mới. Đổi mới phải được
thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và
những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm túc sai lầm, khuyết điểm
đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không phủ nhận sạch trơn quá khứ,
không hoang mang mất phương hướng từ thái cực này chuyển sang thái cực khác" 1.
Trong đổi mới Đảng ta chú trọng trước hết là đổi mới tư duy, vì có hiểu đúng thì
làm mới đúng. Phải thừa nhận rằng, những năm qua chúng ta đã có những điểm nhận
thức chưa đúng và vận dụng sai chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nên đã dẫn đến nhiều quan niệm không đúng: Cho rằng tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì không thể chấp nhận cơ chế thị trường, xem thường nghề buôn bán,
hiểu sai vấn đề xoá bỏ tư hữu; nói xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học nhưng làm thì
không tuân thủ theo quy luật, chủ quan duy ý chí, nhất là công nghiệp hoá, về cải tạo
xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông, v.v…
Vì vậy, Đảng ta rất chú trọng bài học xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Nắm và thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế

thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo hướng
này, Đảng ta có nhiều chủ trương mới: Coi nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến là mặt
trận hàng đầu. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Bảo đảm sự phát triển
hài hoà giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý
thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các
hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác
cả trong và ngoài nước. áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đa
dạng hoá các hình thức sở hữu, có công, có tư thì gọi là thành phần kinh tế công tư
hợp doanh, thì nay trong mỗi thành phần theo chủ thể kinh doanh khác nhau lại có
nhiều loại hình sở hữu đan xen. Ví như trong doanh nghiệp nhà nước có sở hữu toàn
dân, nhưng cũng có sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu các tổ chức chính trị, xã
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996,

tr. 70.


hội tham gia cổ phần cùng bỏ vốn, kinh doanh. Trước đây chỉ xác nhận quyền sở hữu,
nay còn phân biệt với quyền sử dụng. Trong quyền sử dụng còn phân ra nhiều quyền
cụ thể: quyền cho, quyền bán, quyền trao đổi, quyền thừa kế, quyền thế chấp… Trước
đây chỉ nói đến phân phối theo lao động và trong lúc nói đến lao động thì ít chú ý đến
lao động quản lý là loại lao động phức tạp, quyết định hiệu quả kinh tế, nay nhận thức
về lao động đúng đắn hơn và ngoài phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn
và tài sản. Trước đây thấy vai trò của sản xuất, nhưng chưa thấy hết vai trò của phân
phối lưu thông, hoạt động dịch vụ, không thấy vị trí rất quan trọng của khách hàng…
Tuy nhiên, những hoạt động trong đổi mới, nhất là đổi mới kinh tế phải giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
được thể hiện trước hết ở một số vấn đề cơ bản như: Phấn đấu làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh vừa là mục tiêu, vừa là động lực, mà nền tảng của

nó là công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chế độ sở hữu đa dạng, nhiều thành phần, trong
đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã dần
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Cơ chế phân phối là phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời theo mức đóng góp các
nguồn lực khác và kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội; thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động nhưng không
thể biến thành quan hệ thống trị, dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập;
phân phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xoá đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và
trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư. Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ
mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn
ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Giữ vững độc lập, chủ
quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài, v.v…
Nếu trước đây, chúng ta quan niệm tính chất xã hội chủ nghĩa chỉ thể hiện ở chế độ
sở hữu, ở làm chủ tập thể thì nay đổi mới, Đảng ta định hướng xã hội chủ nghĩa với
nội dung như trên rõ ràng là đúng đắn sáng tạo, phù hợp với tiến trình phát triển của
đất nước, với lợi ích của nhân dân.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta tiếp tục đi sâu nghiên cứu nắm vững hơn nữa bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và nhất là những quan điểm
tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, coi đây là mục tiêu cơ bản của quá trình
đổi mới. Chúng ta đều biết rằng, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
nổi bật nhất quán của Hồ Chí Minh và Đảng ta, xuyên suốt quá trình cách mạng nước
ta. Nhưng theo Bác: Chủ nghĩa xã hội không phải là những vấn đề chung chung, trừu
tượng, mà là vấn đề cụ thể, đem lại lợi ích thiết thân cho mọi người; dân chỉ biết giá
trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ; phải thực hiện ngay: Làm
cho dân no, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có chỗ học hành.
Bác cũng chỉ rõ: Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung
sướng, tự do… Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm
cho nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc
làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc. Để đạt được mục tiêu ấy, Bác chỉ thị:

Chúng ta phải học tập để có đủ khả năng làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống
mới. Trước hết là tổ chức nền sản xuất mới… Cần phải thiết thực tổ chức bộ máy sản
xuất mới, tích cực học tập quản lý kinh tế, cải tiến kỹ thuật, coi đó là cái chìa khoá
của việc phát triển nông nghiệp cũng như phát triển công nghiệp. Rằng "Phải cải tạo


và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà, phải
có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh". Bác
rất chú trọng đến việc quản lý, hạch toán kinh doanh. Bác nói đại ý, quản lý cũng như
quản lý một doanh nghiệp phải có lãi, cái gì ra, cái gì vào, món gì đáng tiêu, người
nào đáng dùng vào việc nào, tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận. Trong công
tác lưu thông phân phối có hai điều quan trọng Bác căn dặn chúng ta phải luôn luôn
nhớ: "không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân
không yên". Và những tư tưởng của Người về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tạo
nên nguồn sức mạnh cho cách mạng Việt Nam, cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
v.v…
Qua 10 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng tư tư ởng Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh
vực. Đặc biệt khi nêu rõ lợi ích giai cấp công nhân nằm trong lợi ích đại đoàn kết dân
tộc và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh được các
tầng lớp nhân dân chấp nhận đang trở thành động lực thúc đẩy toàn dân phấn đấu xây
dựng đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện tốt hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Chủ nghĩa xã hội và niềm tin
Vào buổi giao thời những năm 80, 90 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu tan rã, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào thoái trào, các thế
lực thù địch, cơ hội, xét lại quả quyết rằng: chủ nghĩa xã hội không bị đánh đổ mà tự
thất bại trong cuộc cạnh tranh lâu dài với chủ nghĩa tư bản. Họ cho rằng, nguyên nhân
sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu là ở bản thân học thuyết Mác

- Lê-nin; rằng sự sụp đổ đó có tính cội nguồn; rằng học thuyết Mác ra đời ở châu Âu, thế
kỷ XIX, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản mới trải qua cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất, nên không có tính phổ biến; rằng sau khi Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, các nước xã
hội chủ nghĩa khác lâm vào khủng hoảng, học thuyết của Mác đã bị phá sản hoàn
toàn, v.v… và v.v…
Do đó, vấn đề đặt ra là muốn củng cố niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, hoặc muốn
phê phán nó một cách đúng đắn, khách quan, khoa học, phải xem xét nó trên cả ba
mặt: lý luận, thực tiễn phong trào và bản chất chế độ xã hội với một thái độ trung
thực, không định kiến, tôn trọng sự thật khách quan và cái tâm của những người có ý
thức trách nhiệm trước sự phát triển của đất nước, của dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác. Nó là
bộ phận lý luận thể hiện tập trung tính thực tiễn chính trị trên lập trường giai cấp công nhân
và chủ nghĩa Mác. Nó là một cơ sở bảo đảm cho chủ nghĩa Mác không chỉ là một học
thuyết nhằm nhận thức và giải thích thế giới một cách đúng đắn, mà chủ yếu còn là
một học thuyết cải tạo thế giới. Vận mệnh của nó gắn liền với vận mệnh của giai cấp
công nhân hiện đại, của nhân loại cần lao và tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì chân lý
khoa học và chính nghĩa nhân văn. Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin trước hết là vì con
người. Nó vạch ra những nguyên lý cơ bản nhất, chung nhất về con đường, phương
pháp, lực lượng xã hội để nhân dân lao động đứng lên đấu tranh xoá bỏ bất công xã
hội, xoá bỏ áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới, đưa con người tới cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc. Cho nên, học thuyết đó đã thâm nhập vào cuộc sống của nhân loại
mà không phân biệt đó là châu á hay châu Âu, châu Phi hay châu Mỹ. Hơn nữa, học
thuyết của các ông chỉ vạch ra những nguyên lý, quy luật, phương hướng cơ bản cho
sự phát triển và chỉ ra lực lượng xã hội để thực hiện mục tiêu, phương hướng đó; còn
đi vào cụ thể cách mạng mỗi nước phải có sự vận dụng sáng tạo. Bởi lẽ một đặc trưng
cơ bản, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là biện chứng và phát triển. Lê-nin đã chỉ ra
rằng: Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều
hiểu mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế là phi lý, chúng
ta chỉ biết phương hướng của con đường đó, còn như về cụ thể và trên thực tế con
đường đó ra sao thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ khi họ bắt tay vào

hành động. Do đó, không hề có một sự áp đặt, trói buộc nào phải theo kinh nghiệm
của nước nào hay theo đúng nguyên bản chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, với tư cách là lý luận khoa học của giai cấp công nhân
được truyền bá từ phương Tây sang phương Đông, đã mang lại vũ khí tư tưởng mới
cho giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, một khi giai cấp công nhân đã nắm được lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì cuộc
đấu tranh của họ chống chủ nghĩa đế quốc và giai cấp thống trị phản động trong nước
sẽ chuyển từ tự phát sang tự giác và do đó chỉ có con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới là lối thoát đúng đắn duy nhất cho các dân tộc bị áp bức.


Thắng lợi lịch sử có ý nghĩa toàn cầu của học thuyết Mác - Lê-nin và cũng là sự
thể hiện sức mạnh hiện thực vĩ đại của học thuyết đó chính là thắng lợi vĩ đại của
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, mở ra cho nhân dân lao động bị áp bức bóc lột
trên toàn thế giới một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên mà nhân dân lao động đứng lên đấu
tranh tự giải phóng mình. Trong Báo cáo chính trị Đại
hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Cách mạng tháng Mười Nga - cuộc cách mạng vĩ đại
mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; thắng lợi của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước châu Âu, châu á và Mỹ La-tinh; sự giải phóng
hầu hết các nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân; sự phát triển của phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế và phong trào hoà bình, dân chủ" 1. Đi theo Cách mạng tháng
Mười, đi theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhiều dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tìm được con
đường giải phóng mình khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, phong kiến,
giành độc lập dân tộc, tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và đã
đạt được những thành tựu nhất định.
Song, nhìn lại chủ nghĩa xã hội hiện thực trên 70 năm qua, chúng ta thấy có cả
thành công và thất bại, đúng đắn và sai lầm. Sai lầm phổ biến của các nước xã hội chủ
nghĩa là chưa nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan của
xã hội, muốn bỏ qua các giai đoạn tất yếu, những bước trung gian quá độ cần thiết…

Mô hình chủ nghĩa xã hội được thiết lập trước đây đã bộc lộ nhiều sai lầm, khuyết tật
nhưng chậm được khắc phục. Những sai lầm chủ quan và mâu thuẫn tích tụ đã làm
cho các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng toàn diện,
sâu sắc. Cho nên, việc cải tổ, đổi mới là tất yếu khách quan. Thế nhưng, trong quá
trình cải tổ, đổi mới ở một số nước, Đảng Cộng sản lại phạm sai lầm nghiêm trọng là
không giữ vững, bảo vệ mặt tốt đẹp, tính ưu việt của hệ thống giá trị xã hội đã xây
dựng được; không tỉnh táo cảnh giác khi đối phó với khủng hoảng, với sự tấn công
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, để chúng mặc sức thực hiện chiến lược
"diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ. Do đó, đã tạo ra khoảng trống về ý thức hệ để
các thế lực này lấp khoảng trống đó bằng mọi quan điểm sai trái, thù địch, dẫn đến
tình trạng rối loạn của hệ thống chính trị, xã hội và cuối cùng làm cho Đảng Cộng sản
mất vai trò lãnh đạo chính quyền, thay đổi chế độ chính trị, xã hội dẫn đến sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình đó, ở nước ta cũng có một số người biểu hiện dao động về lập
trường, mục tiêu lý tưởng, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa
xã hội; thậm chí có người muốn phủ định chủ nghĩa xã hội, phủ định thành quả cách
mạng. Thế nhưng, điều đáng mừng là trong bối cảnh ấy hầu hết những ý kiến của cán
bộ, đảng viên và nhân dân khi đóng góp vào dự thảo Báo cáo chính trị của các kỳ Đại
hội Đảng toàn quốc đều nhất trí khẳng định quyết tâm đi theo con đường chủ nghĩa xã
hội, con đường mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn. Đồng thời khẳng
định niềm tin vững chắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Niềm tin đó bắt nguồn
từ những yếu tố tinh hoa của truyền thống dân tộc, từ những thành quả cách mạng của
nhân dân ta, dân tộc ta do Đảng lãnh đạo, nhất là từ những thành tựu, thắng lợi của 15
năm thực hiện đường lối đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Niềm tin ấy đã giúp
chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đứng vững và tiếp tục phát triển.
1

61.


. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.


Tuy nhiên, để củng cố, giữ vững niềm tin đó, Đảng ta phải không ngừng nghiên
cứu, tìm tòi sáng tạo, định ra đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp với điều kiện lịch
sử mới và hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân thực hiện. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là
những ý kiến, là một trong những nguồn gốc hình thành nên đường lối đổi mới của
Đảng.
Những phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là kết quả dày công suy nghĩ và sự đóng góp trí tuệ rộng rãi của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm thành công và không thành
công trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước khác. Đảng ta
thực hiện đổi mới sâu sắc nhưng không phủ nhận sạch trơn quá khứ, luôn trân trọng
truyền thống quý báu của dân tộc, bảo vệ, kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt
được trong lịch sử; khẳng định những việc làm đúng đắn trong quá trình cách mạng.
Ta phê phán cái sai lầm đã mắc phải, nhưng không hoang mang mất phương hướng,
suy sụp lòng tin; không từ thái cực sai lầm này chuyển sang thái cực sai lầm khác. Ta
đổi mới một cách có nguyên tắc, đổi mới nhưng luôn giữ vững độc lập dân tộc và
định hướng xã hội chủ nghĩa, luôn nắm vững và thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không xa rời mà kiên trì
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi
mới nhưng coi trọng giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Chúng ta đều biết rằng, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng xuyên
suốt quá trình cách mạng nước ta. Nhưng theo Bác: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội không phải là những vấn đề chung chung, trừu tượng, mà là vấn đề cụ thể đưa lại
lợi ích thiết thân cho mọi người. "Dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập khi mà
dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho
dân có chỗ học hành". Bác cũng giải thích rõ "chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do… Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa

xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc", đó là bản
chất, tính ưu việt của chế độ ta. Thế nhưng, để đạt được mục tiêu ấy, Người căn dặn:
"Chúng ta phải học tập để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống
mới… Cần phải thiết thực tổ chức bộ máy sản xuất mới, tích cực học tập quản lý kinh
tế, cải tiến kỹ thuật, coi đó là chìa khoá để phát triển… ". Trong công tác lưu thông,
phân phối có hai điều quan trọng Bác căn dặn chúng ta phải luôn ghi nhớ: "Không sợ
thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên". Và
những tư tưởng của Người về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tạo nên nguồn sức
mạng cho cách mạng Việt Nam, cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…
Nhìn lại trong quá trình 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xử lý
sáng suốt, đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới kinh tế.
Xét trên tổng thể đường lối, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới tư duy chính trị trong
hoạch định các đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại. Ngay từ đầu quá trình đổi
mới, đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị đã gắn bó chặt chẽ với nhau. Không có sự khởi
đầu
về
đổi
mới

duy
chính
trị
và từng bước đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước thì khó mà có sự
đổi
mới
khác.
Thế nhưng, Đảng ta đã sáng suốt tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi



×