Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận quản lý kinh tế nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.74 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRUNG VƯƠNG

BÀI THU HOẠCH
MÔN QUẢN LÝ KINH TẾ NHÀ NƯỚC

Vĩnh Phúc, tháng 07 năm 2018


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................4
CHƯƠNG 1 : CỞ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỨC NĂNG
QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ.........................................................5
1.1 Mục tiêu của QLNN về kinh tế.................................................................................5
1.1.1 Khái niệm...........................................................................................................5
1.1.2 Vai trò................................................................................................................. 5
1.1.3 Hệ thống mục tiêu phát triển kinh tế đất nước:..................................................5
1.2. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế...................................................................6
1.2.1. Khái niệm..........................................................................................................6
1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu chức năng quản lý nhà nước về kinh tế...............6
1.2.3. Phân loại các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.......................................7
1.3. Những chức năng cơ bản chức năng quản lý nhà nước về kinh tế...........................9
1.3.1. Chức năng tạo môi trường và điều kiện thuận lợi sự phát triển nền kinh tế......9
1.3.2. Chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế..................................10
1.3.3. Chức năng tổ chức...........................................................................................11
1.3.4. Chức năng điều tiết.........................................................................................11
1.3.5. Chức năng kiểm tra, giám sát..........................................................................12

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CHỨC NĂNG TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY....................13
2.1 Thực trạng vận dụng chức năng tạo môi trường và điều kiện cho các hoạt động sản


xuất kinh doanh.............................................................................................................13
2.2 Thực trạng vận dụng chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế.........15
2.3 Thực trạng vận dụng chức năng tổ chức.................................................................16


2.4. Thực trạng vận dụng chức năng lãnh đạo, điều khiển các hoạt động kinh tế.........17

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VẬN DỤNG HIỆU QUẢ CÁC
CHỨC NĂNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA
..................................................................................................................................19
3.1. Yêu cầu về việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước................................19
3.1.1. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam...............................................................................................19
3.1.2. Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế........................................19
3.2. Phương hướng hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.............................................................20
3.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường................................................................................................20
3.2.2. Thực hiện chức năng kinh tế gắn với đảm bảo bình đẳng xã hội và phát triển
bền vững...................................................................................................................21
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế của nhà nước Việt
Nam hiện nay................................................................................................................21
3.3.1. Tạo môi trường và điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.............21
3.3.2. Hoàn thiện chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế.......................................................................................................................22
3.3.3. Hoàn thiện chức năng xây dựng bộ máy nhà nước phục vụ quản lý hiệu quả
nền kinh tế thị trường................................................................................................23
3.3.4. Hoàn thiện chức năng xây dựng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô của
nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường............................................................23
3.3.5. Hoàn thiện chức năng xây dựng hệ thống hạ tầng hỗ trợ cho nền kinh tế.......24

KẾT LUẬN...............................................................................................................25


LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một quốc gia trên thế giới đều có môi trường chính trị, kinh tế và xã hội khác nhau
nên đối với mỗi nền kinh tế, nhà nước lại có các cách quản lý kinh tế đặc thù. Muốn tìm
hiểu mỗi quốc gia có cách quản lý kinh tế ra sao thì chúng ta nên tìm hiểu qua các chức
năng của quản lý nhà nước về kinh tế. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế chính là
những đặc trưng riêng có của quyền lực nhà nuớc trong vịêc tác động có lựa chọn vào nền
kinh tế theo các mục tiêu trong từng giai đoạn. Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có
những bước tiến vuợt bậc trong kinh tế. Sự phát triển vuợt bậc này chính là do sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế một cách linh hoạt,
hiệu quả. Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế
mà vai trò kinh tế nhà nuớc là chủ đạo nên các chức năng quản lý nhà nuớc về kinh tế cần
phải có thêm cả yếu tố mềm dẻo, kết hợp đuợc cả sự phát triển của kinh tế nhà nuớc và
kinh tế tư nhân. Trong thời kỳ hiện nay, càng tìm hiểu rõ những chức năng của quản lý
nhà nước về kinh tế, chúng ta sẽ tìm ra đuợc nhiều phương pháp để giúp đất nước phát
triển bền vững, theo đúng con đường mà Đảng và Nhà nuớc đã chọn. Chính vì lý do đó,
em xin phép được đi sâu vào đề tài: “Mục tiêu và các chức năng quản lý của nhà nước về
kinh tế”. Và để hiểu rõ vấn đề này em đã đi sâu nghiên cứu các nội dung sau: Phần 1: Cở
sở lý thuyết về mục tiêu và chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế Phần 2: Thực trạng
vận dụng các chức năng trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay Phần 3: Phương
hướng, giải pháp vận dụng hiệu quả các chức năng trong quản lý nhà nước ở nước ta.
Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế.
Vậy kính mong nhận được ý kiến của cô ở môn triết học để bài viết của em đạt hiệu quả
cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn.


CHƯƠNG 1 : CỞ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỨC NĂNG
QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ.

1.1 Mục tiêu của QLNN về kinh tế
1.1.1 Khái niệm
Mục tiêu QLNN về KT là trạng thái mong đợi cần có của nền kinh tế mà nhà nước đặt ra
và phải phấn đấ đạt tới sau một thời gian dự kiến.
1.1.2 Vai trò
- Mục tiêu là đích hướng tới của toàn bộ nền kinh tế, dựa vào đó các địa phương, doanh
nghiệp, v.v. có căn cứ để lập kế hoạch phát triển của mình.
- Là phương tiện biến đường lối, chủ trương, chiến lược của Đảng và Nhà nước trở thành
hiện thực
- Mục tiêu là sự cân nhắc, tính toán chu đáo và kỹ lưỡng, nhờ đó các nguồn lực và cơ hội
của đất nước được sử dụng có hiệu quả nhất
1.1.3 Hệ thống mục tiêu phát triển kinh tế đất nước:
Mục tiêu tối cao: Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Mục tiêu cơ bản:
- Tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng GDP; Tăng trưởng vốn đầu t
- Ổn định kinh tế (chỉ tiêu lạm phát; ổn định cung – cầu; ổn định thu - chi ngân
sách; việc làm…)
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Ngành; Lãnh thổ; Thành phần kinh tế; Trình độ
công nghệ.
- Phát triển bền vững (môi trờng sinh thái; xoá đói giảm nghèo; dân số; thất
nghiệp; dân trí…)
Mục tiêu tối cao

Tăng trưởng

Tốc độ tăng GDPVĐT/GDP

Ổn định

Lạm phát Cung- Cầu Thu-chi NS


Cơ cấu

Ngành

Lãnh thổ TP kinh tế

Phát triển bền vững

Dân số MT Sinh thái


1.2. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2.1. Khái niệm.

Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng và quản
lý khu vực kinh tế nhà nước, mà quan trọng hơn là tổ chức và quản lý toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Để quản lý được nền kinh tế quốc dân nhàn nước với bộ máy
quản lý nền kinh tế của mình, phải thực hiện rất nhiều loại công việc khác nhau,
những công việc này hình thành nên khái niệm chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế.
Trong khoa học pháp lý nước ta đã xuất hiện nhiều quan điểm về chức năng của
nhà nước: theo cách hiểu truyền thống, chức năng của nhà nước là những phương
diện (những phương hướng, mặt, dạng, loại) hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm
thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước; chức năng nhà nước là sự thể hiện
vai trò của nhà nước đối với xã hội, là biểu hiện cụ thể năng lực của nhà nước; chức
năng của nhà nước chính là những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong từng giai
đoạn phát triển cụ thể... Trong điều kiện hiện nay, để góp phần xác định đầy đủ khái
niệm về chức năng của nhà nước, theo chúng tôi cần tiếp cận phạm trù chức năng
nhà nước gắn liền với bản chất và vai trò của nhà nước đối với đời sống xã hội,

đồng thời trong mối quan hệ chặt chẽ với chức năng kinh tế, chức năng chính trị
của nhà nước. Như vậy, từ phạm trù chức năng của nhà nước thể hiện vai trò của
nhà nước đối với đời sống xã hội có thể hình thành nên khái niệm chức năng kinh
tế của nhà nước như là một bộ phận của khái niệm chức năng nhà nước, cũng như
chức năng xã hội, chức năng chính trị của nhà nước. Từ đó có thể định nghĩa: Chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn
tác động có chủ đích của nhà nướ, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà nhà
nước phải tiến hành trong quá trình quản lý kinh tế đất nước.
Thực chất của chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhà nước tạo ra thực hiện
một cơ chế hay phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự phát triển
nhanh và bền vững.


1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.

Phân tích chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm hiểu được nhà nước phải
làm những công việc gì trong lĩnh vực kinh tế, để thúc đẩy kinh tế quốc dân phát
triển. Những công việc đó được thực hiện bởi bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế.
Do đó, nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là cơ sở khách quan để
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức năng mà sắp xếp bộ máy và
bố trí biên chế về con người.
Mặt khác, cần nhận thức rằng, chức năng quản lý nhà nước về nền kinh tế là những
nhiệm vụ tổng quát mà nhà nước phải thực hiện trong từng thời gian nhất định, do
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và do tình hình, điều kiện cụ thể của
từng giai đoạn lịch sử quy định. Do đó, nhận thức về chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế cũng không cố định mà luôn biến động và phát triền. Tuy nhiên, các
chức năng cơ bản, chủ yếu thường ít thay đổi, mà thay thôi chủ yếu là các nhiệm vụ
quản lý nhà nước về kinh tế - các công việc cụ thể hóa chức năng quản lý trong
không gian và thời gian nhất định.
Quản lý nhà nước về kinh tế cần được hiểu là chức năng quản lý toàn diện không

chỉ chức năng về hành chính, pháp chế, cũng không phả i “kinh tế ” như doanh
nghiệp. Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế tức là lựa chọn phương án phát triền
nền kinh tế - xã hội tối ưu, can thiệp, điều khiển mỗi khi nên kinh tế đi chệch ra
ngoài phương án đã lưa chọn do bị ảnh hưởng của các biến động về kinh tế chính
trị xã hội trong và ngoài nước …
1.2.3. Phân loại các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.

Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và
giai đoạn tác động có chủ đích của nhà nước, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau
mà nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý kinh tế đất nước.
Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế được phân chia theo theo nhiều tiêu
thức khác nhau:
a. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động.

Đại hội VII của đảng chỉ rõ: trên cơ sở bảo đảm quyền chủ kinh doanh của các
doanh nghiệp, nhà nước cần tập trung thực hiện tốt những chức năng quản lý vĩ mô
sau đây:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh
- Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển.


- Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia.
b. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động

Theo giai đoạn tác động, quản lý nhà nước về kinh tế có các chức năng sau đây:
• Định hướng phát triển kinh tế đất nước
Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước những nhiệm vụ, những mục tiêu
và những chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian thường là 5
năm, 10 năm hoặc lâu hơn.

Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý của nhà nước và các
chức năng quản lý khác phải căn cứ vào đó để thực hiện.
Chức năng định hướng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Xác định các nhiệm vụ, là xác định những công việc phải làm trong khoảng thời
gian nhất định để tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước.
- Xác định mục tiêu dài hạn của phát triển kinh tế đất nước.
- Xác định chiến lược phát triển kinh tế là xác định hệ thống các đường lối, các
nhiệm lớn và các biện pháp chủ yếu nhằm đưa nền kinh tế đất nước đạt đến mục
tiêu đã định.
• Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia hay khu
vực và các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các
kế hoạch phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Kế hoạch dài hạn kéo dài từ 10
đến 20 năm hoặc lâu hơn, kế hoạch trung hạn kéo dài trong 5 năm, với những mục
tiêu và giải pháp cụ thể hơn. Các kế hoạch trung hạn được cụ thể hóa thành kế
hoạch kế hoạch hàng năm, kết hợp với hệ thống ngân sách chính phủ và có tính đến
viện trợ từ bên ngoài đã được phê duyệt, để triển khai thực hiện.
• Thiết lập khung khổ pháp luật về kinh tế. Pháp luật về kinh tế theo nghĩa rộng là
tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt
động sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các đơn vị hữu
quan khác. Luật kinh tế la hành lang an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế, đồng
thời xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập


cơ sở pháp lý cho các hoạt động và nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với
các hoạt động đó.
• Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách, các công cụ và các đòn bẩy kinh
tế. Chính sách là tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện nhất định, được
nhà nước sử dụng, nhằm tác động đến cá nhân, nhóm người, xã hội, để đạt tới các

mục tiêu bộ phận, trong quá trình thực hiện các mục tiêu tổng thể phát triển kinh tế
xã hội như:
- Chính sách tài chính.
- Chính sách tiền tệ - tín dụng.
- Chính sách kinh tế đối ngoại.
• Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động Với chức năng tổ
chức, sản xuất, nhà nước phải hình thành các đơn vị kinh tế theo ngành, theo vùng,
theo thành phần kinh tế và theo loại hình sản xuất – kinh doanh, cũng như các trung
tâm khoa học đào tạo và các đơn vị sự nghiệp, phục vụ cho phát triển kinh tế. Với
chức năng điều hành, nhà nước phối hợp với hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị
trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những mối quan hệ cần thiết trong quá trình
thực hiện những mục tiêu kế hoạch của đất nước.
• Kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế. Chức năng này nhằm kịp thời phát hiện những
sai sót, ách tắc, đồng thời phát hiện những cơ hội, vận hội tốt trong quá trình thực
hiện kế hoạch kinh tế xã hội của đất nước, dự đúng định hướng kế hoạch nhà nước
đã đề ra.
• Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế là
những tác động bổ sung của nhà nước đến nền kinh tế, nhằm sửa chữa những sai
sót tận dụng các thời cơ để phát triển kinh tế. Điều chỉnh về kinh tế của nhà nước
được thực hiện thông qua các công cụ và chính sách quản lý kinh tế, như luật pháp,
kế hoạch, chính sách, các đòn bẩy kinh tế…
1.3. Những chức năng cơ bản chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.

Trong điều kiện đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước không những suy giảm mà ngày
càng được chú trọng. Với mục tiêu tổng quát của việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xhcn ở nước ta chính là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh”, quản lý nhà nước về kinh tế trong giai đoạn này
cũng phải hướng tới mục tiêu đó mà cụ thể là các chức năng cơ bản như sau:



1.3.1. Chức năng tạo môi trường và điều kiện thuận lợi sự phát triển nền kinh tế.

Môi trường cho sự phát triển kinh tế là tổng thể các yếu tố và điều kiện khách quan,
chủ quan, bên ngoài, bên trong, có mối liên hệ mật thiết với nhau ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp đến việc phát triển kinh tế và quyết định đến hiệu quả kinh tế.
Một môi trường thuận lợi sẽ là điểm tựa chắc chắn cho sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là những điều
kiện cần thiết để các chủ thể kinh tế yên tâm bỏ vốn vào kinh doanh và kinh doanh
thuận lợi, ổn định, hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ngược lại thì sẽ
dẫn tới kìm hãm, cản trở, làm cho nền kinh tế khủng hoảng, trì trệ.
Các môi trường ở đây thường là: môi trường kinh tế; môi trường pháp lý; môi
trường chính trị; môi trường văn hóa – xã hội; môi trường sinh thái; môi trường kỹ
thuật; môi trường dân số; môi trường quốc tế.
Để có thể tạo ra môi trường thuận lợi, bằng quyền lực của mình nhà nước cần đảm
bảo sự ổn định về chính trị và an ninh quốc phòng, mở rộng các quan hệ đối ngoại
trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại. Tiếp đến là xây dựng và thực thi nhất quán
các chính sách kinh tế - xã hội theo hướng đổi mới và có chính sách dân số hợp lý.
Nhà nước cũng cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng mới và
nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông, điện, nước, thông tin, dự trữ quốc
gia để đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế có hiệu quả. Bên cạnh đó
nhà nước cũng cần xây dựng một nền văn hóa trong nền kinh tế thị trường định
hướng xhcn trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và kế thừa tinh hoa văn
hóa của nhân loại; xây dựng một nền khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên tiến
cần thiết, phù hợp và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế và sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, cải cách nền giáo dục để có thể đào tạo nguồn nhân
lực có trình độ và kỹ thuật cao, có trí tuệ. Một việc cũng hết sức quan trọng là nhà
nước cần xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ và hoàn thiện môi trường sinh thái.
Nói cách khác, chức năng trên của nhà nước có vai trò như “bà đỡ” giúp cho các

cơ sở sản xuất – kinh doanh ra đời, hoạt động và phát triển.
1.3.2. Chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế

Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước nhiệm vụ, những mục tiêu, những
chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian tương đối dài, thường
là 5 năm, 10 năm hoặc xa hơn.


Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là thời
kỳ mới tạo lập kinh tế thị trường, các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh,
nhưng không thể nắm đầy đủ và chính xác tình hình và xu hướng vận động của thị
trường, do đó thường chạy theo thị trường một cách bị động, dễ xảy ra thua lỗ, thất
bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Nhà nước định hướng nền kinh tế
phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu đã được đảng định ra và hướng dẫn các nhà
kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động đúng định hướng, đảm bảo ổn định, hiệu
quả cho từng doanh nghiệp và toàn thể nền kinh tế. Nhà nước định hướng và hướng
dẫn thông qua kế hoạch, chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô, đồng thời sử
dụng có trọng điểm các nguồn tài chính tập trung và lực lượng dự trữ, phát triển vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, khai thông các quan hệ bang giao, làm chỗ dựa
cho các tổ chức và cá nhân trong hoạt động kinh tế trong nước và nước ngoài. Điều
cần chú ý ở đây là, trong điều kiện kinh tế thị trường, nhà nước chủ yếu sử dụng
phương pháp tác động hướng dẫn thay cho can thiệp trực tiếp như trước đây,
phương pháp này vừa đảm bảo tính tự chủ sáng tạo của các cơ sở kinh tế vừa đảm
bảo tính tự chủ sáng tạo của các cơ sở kinh tế vừa đảm bảo đạt mục tiêu chung,
đồng thời tôn trọng các quy luật của thị trường, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng và
cơ hội, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn hơn.
1.3.3. Chức năng tổ chức

Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt
trong thời kỳ đổi mới kinh tế. Nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị

kinh tế, trong đó quan trọng nhất và cấp thiết nhất là đổi mới, sắp xếp, nâng cao
hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công
nghiệp, khu chế xuất. Đây là những công việc nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý.
Nhà nước còn có trách nhiệm tổ chức lại hệ thống quản lý. Sắp xếp lại các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế từ trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục
hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà
nước và quản lý doanh nghiệp, thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ
chức quốc tế.
1.3.4. Chức năng điều tiết

Nhà nước điều tiết sự hoạt động của nền kinh tế là nhà nước sử dụng quyền năng
chi phối của mình lên các hành vi kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế thị
trường, ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động kinh tế, ràng buộc
chúng phải tuân thủ các quy tắc hoạt động kinh tế đã định sẵn nhằm đảm bảo sự
phát triển bình thường của nền kinh tế. Điều hành nền kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật
khách quan của nền kinh tế thị trường, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường,
vừa điều tiết chi phối thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, công bằng và hiệu quả. Những nội dung
điều tiết của nhà nước thường thể hiện ở những nội dung chính như:
- Điều tiết các quan hệ sản xuất: nhằm làm cho các quan hệ sản xuất được thiết lập
một cách tối ưu, đem lại hiệu quả.
- Điều chỉnh các quan hệ phân chia lợi ích và quan hệ phân phối thu nhập như quan
hệ trao đổi hàng hóa; quan hệ phân chia lợi tức trong các công ty; quan hệ đối với
công quỹ quốc qua; quan hệ giữa các tầng lớp dân cư, giữa chênh lệch thu nhập. Điều tiết các quan hệ phân bổ nguồn lực bằng sự chi tiêu nguồn tài chính tập trung
như ngân sách nhà nước hay đánh thuế. Để điều tiết và hướng dẫn thị trường, nhà
nước thường sử dụng hàng loạt biện pháp, bao gồm các chính sách, các đòn bẩy
kinh tế, các công cụ tài chính, tín dụng và lực lượng kinh tế của nhà nước.

1.3.5. Chức năng kiểm tra, giám sát

Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương
trong hoạt động kinh tế, phát hiện và năng ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật,
vi phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng
trưởng kinh tế và từng bước thực công bằng xã hội. Ở nước ta hiện nay, trong điều
kiện kinh tế thị trường còn sơ khai, tình trạng rối loạn, tự phát, vô tổ chức và các
biểu hiện tiêu cực còn khá phổ biến, có nơi khá trầm trọng, nên càng cần đề cao và
tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát của nhà nước.
Kiểm tra giám sát ở đây có thể là kiểm tra giám sát việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách, kế hoạch và pháp luật của nhà nước về kinh tế; hoặc kiểm tra
giám sát việc sử dụng các nguồn lực của đất nước; hoặc có thể là kiểm tra giám sát
việc xử lý chất thải và bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái; hoặc kiểm
tra giám sát sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra; hoặc cũng có thể là kiểm tra
giám sát việc thực hiện các chức năng và việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan
nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế.
Từ những chức năng cơ bản và chủ yếu trên đây, nhà nước còn đề ra các nhiệm vụ
quản lý cụ thể cho từng lĩnh vực, từng cấp quản lý, từng địa phương khác nhau,
xuất phát từ tình hình và yêu cầu phát triển của từng thời kỳ. Nói chung, trong thời
kỳ đổi mới về kinh tế, nhà nước phải thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản song song và
đan xen nhau, đó là vừa đổi mới, cải cách hệ thống kinh tế và quan lý, vừa điều


hành nền kinh tế trong quá trình đổi mới, nên rất phức tạp và khó khăn. Mặt khác,
nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế hết sức đa dạng, luôn biến động do thực tế
cuộc sống đặt ra, đòi hỏi bộ máy quản lý ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực phải
nhạy bén, linh hoạt, phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc quản lý kinh tế mà chủ
động xử lý, tránh sao chép, rập khuôn máy móc. (tạo lập khuôn khổ pháp luật về
kinh tế; tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế; đảm bảo cơ sở hạ
tầng cho phát triển; hỗ trợ sự phát triển)



CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CHỨC NĂNG TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Thực trạng vận dụng chức năng tạo môi trường và điều kiện cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh

Sau hơn hai mươi năm kể từ đại hội đảng vi năm 1986, công cuộc đổi mới của Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì được
tốc độ tăng trưởng khá cao liên tục trong nhiều năm. Việc trở thành thành viên của
tổ chức thương mại thế giới (WTO) thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu,
rộng hơn vào kinh tế thế giới, cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi
cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung
pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Hiến pháp sửa đổi
năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài.
Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được
hình thành tại Việt Nam.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước
được hình thành. Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh
tranh của nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Nhìn chung,
những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua đã mang lại
cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra
được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả
trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các
quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng

nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa
xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ
ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, kiều hối...
Trong hơn 20 năm đổi mới, gdp của Việt Nam đã tăng liên tục. Từ năm 2001 đến
nay, tốc độ tăng gdp của Việt Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Cùng với việc
duy trì tốc độ tăng trưởng gdp, cơ cấu kinh tế trong nước của Việt Nam đã có sự
thay đổi đáng kể.


Luật doanh nghiệp được sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện cho sự phát triển của
các doanh nghiệp tư nhân. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của
các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào
cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp điều chỉnh,
sắp xếp lại các doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý tài chính của
công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, hay
việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần cải cách
mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm
nâng cao tính hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc doanh.
Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế: với chủ trương tích cực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc
tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam là thành viên quan trọng trong asean, là
thành viên tích cực của apec, asem và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế khác. Hợp tác
kinh tế của Việt Nam với các nền kinh tế lớn như mỹ, eu, nhật bản, nga, trung quốc,
ấn độ ngày càng được củng cố và mở rộng, Việt Nam đã ký hiệp định thương mại
song phương với mỹ, đang đàm phán hiệp định đầu tư với mỹ, hiệp định khung đối
tác và hợp tác toàn diện (PCA) với EU, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với nhật
bản. Tháng 01 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO), có quan hệ với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, đánh dấu sự hội

nhập toàn diện và đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
Từ sau đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng khoảng
20%. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch tiến bộ. Trong giai đoạn 19911995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may,
cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Đến năm 2008, các mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ, điện tử, máy tính và gạo.
Cơ cấu này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng loại mặt hàng chế biến, chế tạo,
và sự giảm đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các mặt hàng
nông, lâm, hải sản và khoáng sản. Dù vậy, các mặt hàng xuất khẩu thô của Việt
Nam đến nay vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa để tăng nhanh
các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành
tháng 12/1987 đã tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu tư nước
ngoài trực tiếp tại Việt Nam. Luật đã có một số lần được sửa đổi, bổ sung nhằm tạo


môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nuớc
ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu tiên, nhất là
trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh
tế trọng điểm của đất nước.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư
nước ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy
mạnh việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống ngang
bằng mức giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực
đầu tư, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực
trước đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị, ngân
hàng… cũng góp phần tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn ở Việt Nam. Fdi
vào Việt Nam tăng nhanh còn do các nguyên nhân quan trọng khác như: sự ổn định
về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng; nền kinh tế Việt Nam liên tục đạt mức
tăng trưởng cao; công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường tiếp tục được duy
trì và đẩy mạnh; mức sống của người dân được nâng cao góp phần làm tăng mức

cầu nội địa; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, uy tín và thương
hiệu của các loại hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trên các thị trường thế giới ngày
càng được nâng cao.
Những năm gần đây, Việt Nam đã thu hút được một lượng đầu tư trực tiếp nước
ngoài (fdi) ngày càng lớn. Việt Nam hiện có 10.700 dự án đầu tư trực tiếp của 90
quốc gia và vùng lãnh thổ đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư gần 170 tỉ
usd.FDI tăng không chỉ hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước
ngoài, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao
công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác các tiềm năng của đất
nước, đào tạo tay nghề và giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, góp
phần phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
2.2 Thực trạng vận dụng chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế

Trong giai đoạn hiện nay nhà nước ta đang thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, theo cơ chế thị trường, mọi hoạt động diễn ra rất phức tạp, các thành
phần kinh tế hoạt động đan xen, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa cạnh tranh, mâu thuẩn
trong quan hệ kinh tế thường xuyên xảy ra. Mặt trái của cơ chế thị trường tác động
tiêu cực đến bản chất xhcn, đó là xu hướng phân hóa giàu nghèo quá mức, tâm lý
sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm của con
người… những hạn chế yếu kém vốn có của nền kinh tế cùng với mặt trái của
chính sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm


trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, sản xuất kinh doanh
và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp
trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Vì vậy, quản lý nhà nước về
kinh tế - xã hội là một yêu cầu cần thiết khách quan, nhằm điều khiển các thành
phần kinh tế và thị trường hoạt động theo định hướng XHCN; đấu tranh khắc phục,
hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực xã hội.
2.3 Thực trạng vận dụng chức năng tổ chức.


Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các
cơ quan, ban ngành ở địa phương và sự phối hợp liên ngành. Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đề ra nhiệm vụ: “định rõ những
loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những loại việc trước khi địa phương
quyết định phải có ý kiến của trung ương và những việc phải thực hiện theo quyết
định của trung ương”. Qua gần 9 năm triển khai thực hiện, nhiều nội dung phân cấp
quản lý đã được thể chế hóa vào các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành và
các nghị định của chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của từng bộ, cơ quan ngang bộ, nghị định số 13 và 14/2008/NĐ ngày
04/02/2008 của chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; đặc biệt nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày
18/4/2012 của chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của bộ, cơ quan ngang bộ và các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng bộ, cơ quan ngang bộ trong cơ cấu tổ chức
chính phủ khóa xiii đã quy định tiếp tục phân cấp quản lý về ngành, lĩnh vực giữa
các bộ, cơ quan ngang bộ với chính quyền địa phương. Về cơ bản, các quy định
phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền địa phương đã được các
địa phương thực hiện tương đối thống nhất và có hiệu quả, nâng cao tính chủ động
cho chính quyền địa phương trong quản lý, sử dụng các nguồn lực ở địa phương,
đưa nền hành chính sát hơn với những đặc điểm kinh tế - xã hội cụ thể của địa
phương, góp phần giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và
nhân dân tại địa phương. Tuy nhiên, thực tế hiện nay là các giải pháp tăng cường
phân cấp giữa chính phủ và chính quyền địa phương, một mặt còn thiếu tính đồng
bộ, chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp
chính quyền địa phương; chính quyền địa phương các cấp chưa có đủ thẩm quyền
và các điều kiện cần thiết để chủ động, năng động trong việc thực hiện các nhiệm
vụ mà địa phương có khả năng làm được, nhưng mặt khác, một số nhiệm vụ cần
quản lý tập trung, thống nhất lại được chuyển giao cho chính quyền địa phương,
làm giảm hiệu quả quản lý của nền hành chính nhà nước. Đồng thời, sự khác nhau



về mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ giữa chính quyền thành phố với chính
quyền tỉnh, chính quyền thị xã, thành phố thuộc tỉnh với chính quyền huyện, cũng
như chính quyền thị trấn, phường và chính quyền xã chưa được làm rõ; chính
quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức các hoạt động quản lý, điều hành các công
việc hành chính ở cơ sở, trực tiếp tổ chức việc thi hành pháp luật, nhưng thẩm
quyền và trách nhiệm chưa được xác định một cách tương xứng.
2.4. Thực trạng vận dụng chức năng lãnh đạo, điều khiển các hoạt động kinh tế.

• Chức năng lãnh đạo:
Không chỉ ở cấp nhà nước đưa ra các quy định hướng dẫn, chỉ thị mà các bộ, ban
ngành và các cục, sở ngành ở địa phương cũng đưa ra các chính sách nhằm kiểm
soát hoạt động kinh tế, thương mại ở địa phương. Ví dụ: UBND thành phố Hà Nội
đã có chỉ thi về tăng cường quản lý, thực hiện luật thuế trên địa bàn hà nội. Trong
đó,có nêu ra kết quả việc thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố và những
tồn tại. Qua đó, UBND thành phố hà nội đã đặt ra những mục tiêu và yêu cầu cụ
thể đối với từng thành phần kinh tế: các doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân và các
cấp quản lý. Bên cạnh yêu cầu cho từng cấp quản lý, chỉ thị trên còn nhấn mạnh
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các ngành như sở kế hoạch đầu
tư, công an thành phố, sở tài nguyên môi trường, tài chính… và ủy ban nhân dân
các quận, huyện, ủy ban mặt trận tổ quốc, ban tuyên giáo thành ủy. Tuy nhiên chức
năng này không phải mang tính một chiều mà có sự tương tác giữa cấp trên và cấp
dưới. Ví dụ gần đây, một số DN phản ánh gặp khó khăn khi thực hiện quy định đưa
hàng về bảo quản tại điều 27 của thông tư 128/2013/TT-BTC ngày 10-9-2013 của
bộ tài chính. Để tạo thuận lợi cho DN, tổng cục hải quan đang đề xuất trình bộ tài
chính tổ chức họp với các bộ quản lý chuyên ngành để trao đổi, phối hợp giúp cơ
chế kiểm tra chuyên ngành được rút ngắn. Giải pháp mà tổng cục hải quan đưa ra là
tăng cường lực lượng kiểm tra chuyên ngành ngay tại cửa khẩu. Đồng thời, các bộ,
ngành cần nghiên cứu cơ chế kiểm tra trước thông quan. Ví dụ DN có thể lấy mẫu

kiểm tra trước, hàng về cửa khẩu chỉ cần đối chiếu. Các bộ, ngành cũng phải đảm
bảo yêu cầu giám sát hàng hóa nếu nhận trách nhiệm bàn giao từ cơ quan hải quan.
Với sự lãnh đạo của nhà nước cũng sự phối hợp của các cơ quan liên ngành, hoạt
động kinh tế, thương mại của các cá thể, tổ chức đang được kiểm soát theo nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các dự án đầu tư của các tập đoàn
kinh tế lớn của nước ngoài, hay của nhà nước không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà
còn mang lại lợi ích xã hội cao. Sự thay đổi về cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu
lĩnh vực kinh tế, đặc biệt các ngành kinh tế mũi nhọn đã tạo ra đà tăng trưởng


nhanh trong những năm gần đây. Điều này dẫn đến sự gia tăng trong tổng thu nhập
quốc nội, chỉ số giá tiêu dùng, năng lực cạnh tranh. Việc tham gia các tổ chức kinh
tế như WTO, đã tạo ra nhiều thành thức cũng như cơ hội nhằm nâng cao sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước, tiếp cận với sự phát triển về khoa học –
công nghệ của các nước khác. Hơn thế nữa, chính sự tham gia này còn giúp Việt
Nam đang dần khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế với lợi thế vốn có. Tuy
nhiên, sự lãnh đạo của từng ban ngành và sự phối hợp của liên ngành vẫn còn lỏng
lẻo dẫn đến nhiều chính sách, quyết định, chỉ thị chưa được thực hiện đúng cách
nên hiệu quả không cao. Điều này đã tạo nhiều lỗ hổng lớn và cũng chính là cơ hội
cho các doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Ví dụ trong thị trường sữa, sự phối hợp
của các ban ngành tài chính và y tế không chặt chẽ khiến cho giá sữa bị đẩy lên
cao. Một số mặt hàng sữa được các doanh nghiệp liệt kê vào mặt hàng thực phẩm
chức năng nhằm chốn sự kiểm soát giá của sở tài chính. Điều này có ảnh hưởng lớn
sự tiêu dùng của người dân. Đối với doanh nghiệp nước ngoài, các quy định hướng
dẫn về hoạt động kinh tế chính là yếu tố nhằm quyết định đầu tư vào nước sở tại
hay không. Nếu các quyết định, chỉ thị rõ ràng và đầy đủ thì các doanh nghiệp nước
ngoài sẽ yêm tâm hơn khi tham gia vào môi trường cạnh tranh minh bạch.
• Chức năng điều khiển:
Để thực hiện chức năng này, nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác
nhau mang tính chất khuyến khích và hạn chế. Chính sách điều tiết, kiểm soát giá

của nhà nước thời gian qua và hiện nay đối với một số hàng hóa quan trọng và thiết
yếu như: giá điện, giá xăng dầu, giá nhà đất, giá gas, giá sữa, giá thuốc tây... Là một
trong những nội dung quan trọng trong việc bình ổn giá, kiểm soát lạm phát, thực
hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Sự can thiệp của nhà nươc thông qua các chính
sách điều tiết hoạt động quản lý đã tạo ra nhiều kết quả khả quan:


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VẬN DỤNG HIỆU QUẢ CÁC
CHỨC NĂNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA
3.1. Yêu cầu về việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước
3.1.1. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sự hình thành tư duy về nền kinh tế thị trường là quá trình tìm tòi thử nghiệm, tổng
kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta hơn 20 năm qua, kết hợp với tham khảo có chọn
lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế, sự vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin, quy luật phát triển chung của kinh tế thị trường vào hoàn cảnh
cụ thể Việt Nam. Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là vấn
đề lý luận, vừa là vấn đề thực tiễn mới mẻ, gắn bó giữa nhận thức tính quy luật
khách quan, sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của dân tộc trong thời đại
toàn cầu hóa với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng cộng sản, nhà nước
xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động. Tính khách quan trong phát triển nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam có đặc trưng quan trọng là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng đó trong quá trình phát triển kinh tế đất nước không chỉ dừng lại ở tư
tưởng, đường lối chung của Đảng, mà còn phải thể chế hóa thành những nội dung,
chính sách, mục tiêu cụ thể, xác định không ai ngoài Nhà nước phải đảm đương
trách nhiệm ấy. Chức năng của Nhà nước là điều tiết nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu cao cả là giải phóng con người, giải
phóng xã hội và giai cấp theo lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3.1.2. Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế


Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế khách quan đối với
mọi quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới tiến tới nhất thể hóa thành một chỉnh
thể thống nhất, trong đó mỗi nền kinh tế của quốc gia là một bộ phận không thể
tách rời. Việc hoàn hiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta hiện nay không nằm
ngoài xu thế đó thể hiện ở quan điểm, chủ trương về mở rộng quan hệ ngoại giao,
hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, chế độ
chính trị và cùng nhau phát triển. Yêu cầu đặt ra có tính nguyên tắc và mục tiêu
trong việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay thích ứng với điều
kiện mới. Cụ thể là :
- Cần phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của toàn cầu hóa và vấn đề hội
nhập: Không nóng vội, chủ quan hội nhập bằng mọi giá hoặc chậm trễ mà bỏ lỡ
thời cơ.


- Việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay không thể xuất phát từ
những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế mà phải trở thành chính sách chủ động,
đồng thời giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiến hành cải cách toàn diện theo các chuẩn mực quốc tế để bắt kịp với các xu
hướng phát triển của thế giới, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa tăng trưởng với
tiến bộ và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững, đồng
thời giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Nhà nước xúc tiến xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 để chủ động hơn trong quá
trình hội nhập và hội nhập mới thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu thúc đẩy
phát triển mạnh kinh tế - xã hội của đất nước.
3.2. Phương hướng hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
3.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường.


- Cần phải nhận thức rằng phát triển kinh tế thị trường vừa là vấn đề khoa học, vừa
là vấn đề chính trị, vấn đề lựa chọn chế độ kinh tế và mô hình phát triển trong thực
tiễn cách mạng, đòi hỏi sự nhất trí cao trong nhận thức tư tưởng, thống nhất trong
tổ chức thực hiện và hành động, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế trong thực hiện
chức năng điều khiển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Cần tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu những quan điểm tiến bộ, vượt qua những rào
cản, định kiến về nền kinh tế thị trường và nhận thức không đúng về vai trò kinh tế
của nhà nước. Điều đó thể hiện ở sự nhạy bén, năng động và kịp thời đề ra những
chính sách quan trọng phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội đầy biến động.
- Cần đảm bảo nội dung khoa học, tính dân chủ, công khai trong quá trình nghiên
cứu lý luận để xây dựng các mô hình, phương án và ban hành những chính sách
quan trọng trong phát triển kinh tế, trong đó không thể thiếu sự tham mưu, tư vấn
của các nhà khoa học, các chuyên gia, đặc biệt là cần tổ chức rộng rãi việc tham gia
ý kiến của các tổ chức và cá nhân. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu kinh
nghiệm về kinh tế thị trường ở một số nước sẽ giúp chúng ta có cách đánh giá, vận
dụng và thực hiện hiệu quả chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.


3.2.2. Thực hiện chức năng kinh tế gắn với đảm bảo bình đẳng xã hội và phát triển
bền vững.

- Cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng xã
hội trong phát triển kinh tế. Nhà nước điều chỉnh lại chính sách phân phối thu nhập
trên cơ sở mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước, có thể sử dụng nhiều công cụ
để thực hiện vai trò điều tiết trong phân phối thu nhập như thuế, ngân sách, tín dụng
nhà nước và hệ thống an sinh xã hội.
- Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội còn thể hiện chức năng của
Nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước cần tăng chi tiêu cho cả giáo

dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác, đồng thời đảm bảo cho mọi người được bình
đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ đó. Nhà nước nên tạo điều kiện để khai thác
tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân trong việc hỗ trợ Nhà nước cung ứng kết cấu
hạ tầng và dịch vụ xã hội.
- Tăng trưởng trong nền kinh tế thị trường cần phải đi đôi với việc phát triển bền
vững. Nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật, thuế, điều lệ hoặc chính
sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên...để kiểm soát mức độ nguy hiểm
đối với môi trường sinh thái.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế của nhà nước Việt
Nam hiện nay.
3.3.1. Tạo môi trường và điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh

Muốn phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, tất
yếu phải có đầu tư. Mà Nhà nước chỉ đầu tư một phần về hạ tầng, còn chủ yếu vẫn
là các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, kể cả hộ cá thể. "Để tạo được môi trường
đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế phải làm tốt các vấn đề sau: thủ tục
hành chính, mặt bằng sản xuất, đa dạng hoá nguồn vốn và trách nhiệm của chính
quyền địa phương". Thủ tục hành chính hiện nhiều nơi còn rườm rà gây mất thời
gian của các doanh nghiệp, tăng chi phí. Điều này sẽ cản trở việc tiến hành đầu tư
của các thành phần kinh tế. Về đất đai - mặt bằng sản xuất kinh doanh - lâu nay đã
được Chính phủ nói đến rất nhiều, nhưng đây là vấn đề rất khó khăn. Việc giải toả
mặt bằng ở nhiều nơi gặp trở ngại do dân đòi đền bù cao theo giá thị trường. Chính
phủ cũng đã có chỉ đạo phải tạo được mặt bằng sản xuất, thông qua Luật Đất đai
năm 2003. Việc đa dạng hoá nguồn vốn là rất cần thiết. Lâu nay các doanh nghiệp
chỉ nhìn vào nguồn vốn từ ngân hàng, hoặc vốn ưu đãi của Nhà nước. Nhưng ưu
đãi của nhà nước hằng năm chỉ có 10.000 tỷ mà lại ưu tiên cho các dự án công trình
có tính chất chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hay tạo ra năng lực cho nền kinh tế độc lập


tự chủ (như các nhà máy phân đạm, điện, phôi thép lớn). Các doanh nghiệp chưa

khai thác nguồn vốn khác, qua các định chế tài chính trung gian, các quỹ hay thị
trường chứng khoán. "Thị trường chứng khoán hiện phát triển rất chậm. Tổng
doanh số giao dịch mới chiếm khoảng 2-3% GDP, mà đây là một kênh huy động
vốn rất lớn và rất có hiệu quả", cần phát triển nhanh thị trường chứng khoán, thị
trường chính thức và không chính thức. Hiện Chính phủ đang mở rộng cho các
thành phần doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán. "Tôi hy vọng sắp
tới chúng ta cho nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán thì lĩnh vực này sẽ sôi
động thêm".
3.3.2. Hoàn thiện chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế.

- Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác phân tích, đánh giá, dự báo tình
hình phát triển kinh tế - xã hội.
- Thứ hai, cần khắc phục nhược điểm trong công tác xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế xã hội đó là ôm đồm quá nhiều mục tiêu, theo đó tập trung cho những mục
tiêu hiệu quả và phát triển bền vững.
- Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch, quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng nâng cao chất lượng quy hoạch bằng cách nâng vị trí
pháp lý của văn bản ban hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lên
tương đương với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội 10 năm cần lược bỏ sự trùng lặp các nội dung được xác định trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, thay vào đó là định hướng cho việc
quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội các vùng, các ngành có vai trò chiến lược, có
căn cứ khoa học, có tầm nhìn dài hạn, được công khai hóa và thu hút sự đóng góp ý
kiến của đông đảo nhân dân. Đổi mới cách thức thông qua và phê duyệt kế hoạch,
đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện kế
hoạch.
- Cần có kế hoạch tổng thể cho vực kinh tế nhà nước theo hướng tập trung đầu tư
cho các doanh nghiệp hoạt động công ích, phát triển mạnh các lĩnh vực hạ tầng cơ
sở; giữ các vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế; giải quyết những vướng

mắc trong việc thực thi những chính sách cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê
doanh nghiệp nhà nước.


3.3.3. Hoàn thiện chức năng xây dựng bộ máy nhà nước phục vụ quản lý hiệu quả
nền kinh tế thị trường.

- Cần sắp xếp, kiện toàn lại bộ máy nhà nước để tăng cường quản lý kinh tế trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bộ máy nhà nước cần có sự thay đổi căn bản
theo hướng tách bạch và phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Cải cách tòa án phải hướng đến việc giải quyết được mọi
tranh chấp xuất hiện trong đời sống, trong nền kinh tế thị trường với sự phức tạp và
đa dạng của các mối quan hệ xã hội.
- Cùng với quá trình hoàn thiện các cơ quan bảo vệ pháp luật, cần tiến hành đổi
mới chất lượng hoạt động của các tổ chức giúp đỡ pháp lý như văn phòng luật sư,
công chứng, các trung tâm tư vấn và dịch vụ pháp lý...
- Cần tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thuận tiện, tạo ra
môi trường cho các quan hệ kinh tế diễn ra một cách dễ dàng, tạo điều kiện thu hút
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Tăng cường về trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công
chức trong nền kinh tế thị trường; thực hiện chế độ tuyển chọn cán bộ, công chức
một cách dân chủ, công khai, tránh hình thức và đảm bảo chất lượng.
3.3.4. Hoàn thiện chức năng xây dựng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô của
nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường.

Thứ nhất, đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế cần tiến hành cải
cách đồng bộ trong cả hoạt động xây dựng, ban hành cũng như thực thi pháp luật
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Khẩn trương xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ và phù hợp với luật
pháp và thông lệ quốc tế. Cần sớm ban hành những văn bản dưới luật đảm bảo thực
thi nhanh và đúng đắn các Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, Luật doanh

nghiệp, Luật đầu tư... Xây dựng mặt bằng luật pháp cho các loại hình doanh
nghiệp, theo đó tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều bị điều chỉnh bởi
một luật chung không để quy định tản mạn như hiện nay là: Luật doanh nghiệp
chung thay thế các Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã...,Luật đầu tư
chung thay cho Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước...;
Xúc tiến xây dựng và ban hành Luật thuế chống bán phá giá, Luật kinh doanh bất
động sản, Luật chống đầu cơ, Luật chi ngân sách nhà nước, Luật về quy hoạch, kế
hoạch...


- Tiến hành có hiệu quả việc rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật và văn bản hiện
hành để kịp thời phát hiện và sửa đổi những chồng chéo, bổ sung những văn bản
còn thiếu, chưa phù hợp, đặc biệt là chưa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế,
trước mắt là các nguyên tắc của WTO.
- Chủ động nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các mô hình, hình thức pháp lý cho
các loại thị trường, các giao dịch kinh tế.
- Tiến hành hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế,
tranh chấp lao động, giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thứ hai là tiến hành
đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính:
- Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của các công cụ tài chính đối với nền kinh tế,
trong đó đặc biệt là công cụ thuế, ngân sách, tín dụng... Nhà nước tạo sự bình đẳng
cho mọi loại hình doanh nghiệp được ưu đãi, miễn, giảm thuế, cải cách chính sách
thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai minh bạch; coi trọng
nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả và hợp lý trong việc sử dụng và phân bổ các nguồn
vốn, nhất là ngân sách nhà nước.
- Đối với chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước cần theo dõi sát việc thực hiện
các văn bản, thể lệ, chế độ đã ban hành, phát hiện sớm những vướng mắc để sửa
đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tiễn.
- Đối với chính sách thương mại, nhà nước cần xác định các cân đối lớn như tổng
cung - tổng cầu, tiền - hàng, xuất khẩu - nhập khẩu; nghiên cứu và dự đoán tốt

những biến động của thị trường trong và ngoài nước để định hướng và điều tiết các
hoạt động thương mại của các doanh nghiệp.
3.3.5. Hoàn thiện chức năng xây dựng hệ thống hạ tầng hỗ trợ cho nền kinh tế.

Trên cơ sở bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước cần tiến hành ưu tiên ngân
sách và các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng
của từng vùng và trên phạm vi cả nước; khuyến khích và tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia
phát triển vào lĩnh vực này, chú trọng các công trình quan trọng, thiết yếu và khắc
phục tình trạng đầu tư giàn trải, lãng phí, kém chất lượng. Bên cạnh đó, Nhà nước
cần ưu tiên phát triển hạ tầng thị trường, đó là: hệ thống giao thông, thông tin liên
lạc, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, giao dịch, hệ thống bến bãi, kho hàng và
các dịch vụ khác như điện, nước, trường học, y tế...


×