Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Nguyên nhân ảnh hưởng của Dòng họ pháp luật Civil Law tới hệ thống pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.46 KB, 18 trang )

MỤC LỤC


A.

MỞ ĐẦU

Dòng họ pháp luật Civil Law là một trong những dòng họ
pháp luật lớn và lâu đời nhất trên thế giới. Trong suốt quá trình
hình thành của mình nó đã đạt được những thành tựu to lớn. Với
sự phát triển lớn mạnh và nhanh chóng của mình Civil Law đã
vươn mình ra khỏi khu vực châu Âu lục địa và có tầm ảnh hưởng
lớn đối với nhiều khu vực cũng như nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam cũng là một quốc gia chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi
dòng họ pháp luật Civil Law.
Vậy dòng họ pháp luật Civil Law hình thành và phát triển
như thế nào? Nó có những đặc trưng gì? Nó có những

ảnh

hưởng đến hệ thống pháp luật Việt Nam như nào? Nguyên nhân
dẫn đến sự ảnh hưởng đó là gì?
Để làm rõ những vấn đề trên Em xin chọn đề “Bằng hiểu
biết của mình về luật so sánh, Anh/ chị hãy bình luận về
nguyênnhân ảnh hưởng của Dòng họ pháp luật Civil Law tới hệ
thống pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho bài tiểu luận cá nhân
của mình.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về dòng họ pháp luật Civil law
1. Về tên gọi
Thuật ngữ “civil law” trong lĩnh vực luật học có hai nghĩa


phổ biến:
Thứ nhất, đó là tên gọi của hệ thống pháp luật lục địa châu
Âu (còn gọi là hệ thống pháp luật La Mã – Đức), là dòng họ pháp
luật lớn nhất trên thế giới, tồn tại ở các nước lục địa châu Âu
như: Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo, Bỉ, Lúcxăm-bua, Hà Lan, Thụy Sỹ, Scotland, phần lớn các nước châu


Phi, hầu hết các nước Mỹ - Latinh, các nước phương Đông kể cả
Nhật Bản.
Thứ hai, có nghĩa là Luật dân sự - ngành luật điều chỉnh
các quan hệ tài sản và nhân thân giữa các cá nhân, thuộc lĩnh
vực luật tư điều chỉnh các quan hệ giữa tư nhân với tư nhân.
Trong lĩnh vực luật so sánh, dòng họ Civil Law được hiểu
theo nghĩa thứ nhất là hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới
mà nên tảng của nó là luật La Mã cổ đại.
2. Đặc điểm của dòng họ Civil Law.
Nhìn một cách tổng quan, dòng họ Civil Law có các đặc
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật La Mã, luật La
Mã được nghiên cứu tại các trường đại học của Đức, Pháp và
các nước lục địa châu Âu và được coi là nguồn luật bổ sung,
được áp dụng trực tiếp nếu luật pháp thành văn và tập quán
pháp luật của họ chưa có quy định đối với quan hệ xã hội cần
thiết phải điều chỉnh pháp luật.
Thứ hai, Các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law
được phân chia thành công pháp và tư pháp. Các hệ thống pháp
luật thuộc dòng họ này được chia thành Jus publicum (công
pháp) và Jus privatum (tư pháp). Công pháp bao gồm những
ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa các cơ quan nhà
nước với nhau hoặc giữa các cơ quan nhà nước với tư nhân. Tư

pháp bao gồm các ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa tư
nhân với tư nhân.
Thứ ba, các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law coi
trọng lí luận pháp luật. Các học thuyết pháp luật, các nguyên
tắc pháp luật được coi là nguồn của pháp luật. Các bộ luật của
các nước lục địa châu Âu thường đi từ cái chung đến cái riêng.


Ở phần chung, các khái niệm được trình bày một cách rõ ràng,
rành mạch. Phần chung làm cơ sở cho phần riêng và thông
thường được xây dựng theo tư duy logic từ cái khái quát đến cái
cụ thể, từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái hữu
tình, từ nguyên tắc chung đến các tình huống cụ thể, từ lí luận
đến thực tiễn.
Thứ tư, Các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law có
trình độ hệ thống hóa, phát triển hóa cao. Ngoài các bộ luật
thông thường thì các quốc gia châu âu lục đị đã xây dụng nhiều
những bộ luật khác nhau. Thông qua việc xây dựng được nhiều
bộ luật, việc nghiên cứu, thực hiện và áp dụng pháp luật trở nên
dễ dàng hơn. Các quy phạm pháp luật trong các bộ luật thường
rất cụ thể với các chế tài rõ ràng vì vậy có thể áp dụng trực tiếp
vào các quan hệ xã hội mà không cần thông qua văn bản pháp
luật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành.
Thứ năm, Dòng họ Civil Law không coi tiền lệ pháp luật là
hình thức pháp luật thông dụng và phổ biến như pháp luật
thành văn. Dòng họ Civil Law do chịu ảnh hưởng sâu sắc của
học thuyết phân chia quyền lực nên không thừa nhận vai trò lập
pháp của các cơ quan xét xử. Án lệ là hình thức pháp luật không
được khuyến khích phát triền và chỉ áp dụng một cách hạn chế
như là hình thức khắc phục khiếm khuyết của pháp luật thành

văn.
3. Sự hình thành và phát triển của Civil Law
Quá trình hình thành và phát triển của dòng họ Civil Law
bao gồm các giai đoạn sau:
3.1. Giai đoạn pháp luật tập quán trước thế kỉ XIII
Đây là thời kì pháp luật hình thành từ các tập quán địa
phương vì vậy còn mang tính biệt lập, phân tán, thiếu thống
nhất. Tồn tại các luật tập quán của Pháp, Đức, của các dân tộc


Slavian, luật La Mã. Đặc biệt, phần lớn các bộ tộc ở Tây Âu đã bị
người La Mã đô hộ trong suốt 4 thế kỉ nên luật La Mã cổ đại đã
có ảnh hưởng lớn ở đây. Mặc dù thế Tây La Mã đã sụp đổ vào
năm 476 nhưng đế chế Đông La Mã vẫn tồn tại. Năm 528,
Hoàng đế ĐÔng La Mã Justinian đã ra lệnh hệ thống hóa và
củng cố luật La Mã. Kết quả là đã tạo nên công trình pháp luật
lớn mang tên Corpus Juris Civilis bao gồm 4 phần: Code,
Digeste, Institutes và Novels được công bố từ năm 529 đến năm
534.
Nhìn chung, giai đoạn này pháp luật còn giản đơn, còn lẫn
lộn giữa quy phạm đạo đức, tôn giáo và pháp luật. Luật pháp
thời kì này chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng tôn giáo, nhiều
quốc gia lấy luật lệ nhà thờ làm luật lệ nhà nước.
3.2. Giai đoạn phát triển pháp luật thành văn từ thế
kỉ XIII đến cuối thể kỉ XVIII
Cuối thế kỉ XII, các thành phố châu Âu bắt đầu phát triển
và cùng với sự phát triển đó là sự gia tăng các hoạt động
thương mại và giao lưu giữa các dân tộc châu Âu lục địa. Hoạt
động buôn bán, thương mại và sự phát triển dân cư thành thị
(civitas) tạo ra nhu cầu cần phải phân biệt giữa tôn giáo, đạo

đức và pháp luật. Đáng chú ý là giai đoạn văn hóa Phục Hưng
bắt đầu từ thế kỉ XIII – XIV xuất phát từ Italia sau đó lan dần
sang các nước lục địa châu Âu. Các nhà tư tưởng lúc này muốn
những giá trị đích thực của luật La Mã chấn hưng, phát triển.
Thời kì phục hưng của luật La Mã được đánh dấu bằng sự kiện
Bộ tổng luật Corpus Juris Civils được nghiên cứu và đem vào
giảng dạy tại các trường đại học tổng hợp châu Âu.
Giai đoạn từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVIII là giai đoạn hình
thành hệ thống pháp luật thống nhất của châu Âu. Vào đầu thế
kỉ XIII, không những ở châu Âu mà các nước thuộc lục địa châu


âu cũng không có một hệ thống pháp luật thống nhất. Nguyên
nhân của tình trạng này là mỗi quốc gia đều áp dụng pháp luật
tập quán cho các vùng, miền khác nhau. Trên cơ sở ảnh hưởng
sâu rộng của Corpus Juris Civils, hệ thống pháp luật chung của
châu Âu đã ra đời và được gọi là Jus Commune.
3.3. Giai đoạn pháp điển hóa pháp luật và phát triển
mở rộng ngoài lục địa châu Âu (cuối thể kỉ XVIII, đầu thế
kỉ XIX đến nay)
Đây là giai đoạn được đánh dấu bằng những văn bản pháp
luật quan trọng, là cuộc cách mạng lớn trong sự phát triển tư
tưởng pháp luật của nhân loại. Trước hết phải kể đến Bản tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Pháp. Những quy
định cơ bản của Ban tuyên ngôn nổi tiếng này đã trở thành
những nguyên tắc cơ bản của các bản hiến pháp của các quốc
gia lục địa châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới.
Sang thế kỉ XIX, hệ thống pháp luật châu Âu diễn ra xu
hướng pháp điển hóa mạnh mẽ. Nổi bật nhất là ở pháp, người ta
đã xây dựng được khoảng 40 bộ luật và đặc biệt là sự ra đời của

các Bộ luật Dân sự Pháp (Bộ luật Napoleon 1804) Bộ luật được
coi là kinh điển cho các nước Civil Law. Ngoài ra quá trình pháp
điển hóa pháp luật cũng diễn ra mạnh mẽ ở Đức và ảnh hưởng
đến các quốc giai khác.
3.4. Sự phát triển của dòng họ Civil law ra ngoài
châu Âu
Do nhiều quốc gia châu âu như Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, hà Lan, Italya có nhiều thuộc địa ở các châu lục khác
nên dòng họ pháp luật Civil law đã có điều kiện để phát triển
sang các châu lục khác. Ở châu Phi chịu ảnh hưởng lớn từ Pháp,
Bỉ, Tây ban Nha… Ở châu Mỹ, những thuộc địa của Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Pháp, Hà Lan là những vùng lãnh thổ tiếp nhận các


chế định pháp luật thuộc dòng họ Civil law và xây dựng các bộ
luật theo các hình mẫu của châu Âu. ở châu Á, dòng họ Civil law
cũng được tiếp cận ở nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau.
Ngày nay, Civil Law được áp dụng tại nhiều nước trên thế
giới, bên cạnh đó cũng có những học tập từ những hệ thống
pháp luật khác trên thế giới, đặc biệt là hệ thống Common Law.
Qua đâu chúng ta có thể thấy, Civil Law được mở rộng ra thế
giới thông qua hai con đường chủ yếu đó là: Mở rộng thuộc địa
(chủ yếu) và do sự học hỏi văn minh pháp lí phương Tây của các
nước.
4. Nguồn của Civil Law
Theo quan điểm thực tiễn về nguồn pháp luật, nguồn của
hệ thống pháp luật Civil law bao gồm một số nguồn sau:
Thứ nhất, Pháp luật thành văn, đây là nguồn quan trọng
nhất trong trong hệ thống các nguồn luật của dòng họ Civil Law.
Nguồn pháp luật thành văn trong dòng họ Civil law bao gồm các

loại văn bản sau: Hiến pháp (Constitution); Các công ước quốc
tế (Traité internationale; Bộ luật (Code); Luật (Loi); Sắc lệnh
(Décret); Nghị định (Ordonnance); Quyết định (Décision) do
tổng thống ban hành; Quyết định (Arrêté) do các bộ trưởng, thị
trưởng ban hành; Các chỉ thị (Directive) của cấp trên với cấp
dưới; Các thông tư (Circulaire) của cấp trên với cấp dưới và phần
lớn thông tư mang tính bắt buộc thực hiện.
Thứ hai, Tập quán pháp luật (La coutume), đó là những
quy tắc xử sự hình thành một cách tự phát, tồn tại từ lâu đời,
được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở thành thói quen
tự nhiên và mang tính bắt buộc chung như quy phạm pháp luật.
Trong hệ thống pháp luật lục địa châu Âu, tập quán pháp luật có
thể chia làm ba loại: Tập quán áp dụng đương nhiên (Praeter
legem); Tập quán áp dụng theo sự dẫn chiếu của pháp Luật


(Secundum legem); Và tập quán

trái pháp luật (Adversus

legem).
Thứ ba, Án lệ (Jurisprudence), là bản án đã tuyên hoặc sự
giải thích, áp dụng pháp luật được coi như tiền lệ làm cơ sở để
các thẩm phán sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp
tương tự. Hiện nay, ở nhiều nước lục địa châu Âu đã có các
tuyển tập án lệ chính thức và án lệ càng ngày càng được khẳng
định là một trong những nguồn không thế thiếu của pháp luật.
Thứ tư, Học thuyết (La doctrine), trong quá khứ, học thuyết
đã từng là nguồn chính của hệ thống pháp luật lục địa châu Âu.
Các nguyên tắc pháp luật chính đã ra đời trong khoảng thế kỉ

XIII – XVIII do các trường đại học châu Âu xây dựng nên. Cùng
với sự thắng lợi của các tưu tưởng dân chủ tư sản và sự ra đời
của các bộ luật cơ bản của Pháp vào đầu thế kỉ XIX sụ thống trị
của học thuyết được thay thế bằng sự thống trị của luật.
Ngày nay, học thuyết không còn là nguồn chính của pháp
luật, tuy nhiên nếu xem xét pháp luật theo nghĩa rộng là đại
lượng của công bằng, công lí thì học thuyết vẫn là nguồn quan
trọng.
Thứ năm, các nguyên tắc chung của pháp luật (Principes
généraux du droit), đó là các nguyên tắc có thể thành văn và
không thành văn được chấp nhận trong luật quốc gia của hầu
hết các nước. Các nguyên tắc chung có thể được thể hiện trong
hiến pháp, các bộ luật và các luật, tuy nhiên cũng có nhiều
nguyên tắc chung của pháp luật không được thể hiện trong
pháp luật thành văn hiện hành mà có nguồn gốc từ án lệ hoặc
luật La Mã cổ đại.
II. Sự ảnh hưởng của Civil law đến hệ thống pháp luật
Việt Nam
1. Sự ảnh hưởng của Civil law đến Việt Nam


Kể từ khi hình thành Civil law đã phát triển và ảnh hưởng ra
ngoài châu Âu với sự xâm chiếm mở rộng thuộc địa của các
nước tư bản phương tây. Do nhiều quốc gia Tây Âu như Pháp, Bỉ,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italia có nhiều thược địa ở
các châu lục khác nên dòng họ pháp luật Civil law đã có điều
kiện thuận lợi để phát triển sang các châu lục khác. Ở các nươc
Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng
của Civil law chủ yếu thông qua hệ thống pháp luật của nước
Pháp vì Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp.

Pháp luật Pháp đã có những ảnh hưởng với quá trình xây
dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, ảnh hưởng của văn hoá pháp luật Pháp vào hoạt
động lập hiến ở Việt Nam. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, đặc biệt là Bản
Tuyên ngôn Dân quyền và công dân quyền của nước Pháp 1789,
Hiến pháp 1791 và các bản Hiến pháp tiếp theo của Pháp, giới
trí thức Việt Nam đã tranh luận sôi nổi về việc xây dựng một
bản Hiến pháp cho Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành
công, mơ ước của người dân Việt Nam về một bản Hiến pháp
cho người dân Việt Nam đã có điều kiện biến thành hiện thực.
Chỉ sau một thời gian ngắn sau khi thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản
Hiến pháp 1946 đã được xây dựng. Đây là bản Hiến pháp kết
tinh được những tinh hoa của hiến pháp tư sản, đặc biệt là các
bản Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hoà Pháp.
Thứ hai, ảnh hưởng của pháp luật Pháp với việc xây dựng và
thực hiện các bộ luật dân sự ở Việt Nam. Trong thời thực dân
Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Napoleon


1804, một số Bộ luật Dân sự Việt Nam đã được ban hành như:
Bộ luật Dân sự giản yếu của Nam Kỳ được ban hành năm 1884;
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được ban hành năm 1931; Bộ luật Dân sự
Trung Kỳ được ban hành năm 1936. Sau Cách mạng Tháng 8
năm 1945, trong điều kiện chưa xây dựng được các Bộ luật mới,
Sắc lệnh ngày 10/10/1945 đã cho phép áp dụng các luật lệ của
chế độ cũ, trừ những điều khoản trái với nền độc lập tự do của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Ngay cả đến sau này, khi đất nước đã hoàn toàn dành được

độc lập và trên con đường đổi mới phát triển thì pháp luật dân
sự của Việt Nam vẫn tiếp thu những giái trị tinh túy của pháp
luật châu Âu lục địa nói chung và của nước Pháp nói riêng. Tiêu
biểu đó là Bộ luật Dân sự 2005 được xây dựng trên tinh thần hội
nhập quốc tế, tiếp thu nhiều tư tưởng pháp luật lục địa châu Âu
(Pháp, Đức) nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá truyền thống
của đời sống dân sự Việt Nam.
Thứ ba, ảnh hưởng của hệ thống tổ chức toà án Pháp đối với
Việt Nam. Trước khi người Pháp đặt ách đô hộ, hệ thống toà án ở
Việt Nam được xây dựng theo mô hình toà án phong kiến, ở đó
không có sự tách biệt giữa cơ quan hành chính và cơ quan tư
pháp, các quan cai trị đầu hạt đồng thời là các quan xét xử.
Khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên Việt Nam, bên cạnh các
toà án của người Việt xây dựng theo mô hình toà án phong kiến
để xét xử người Việt, người Pháp đã thành lập thêm hệ thống
toà án Pháp xây dựng theo mô hình toà án tư sản để xét xử
công dân Pháp và công dân nước ngoài kể cả người Việt đã
nhập quốc tịch Pháp. Các toà án Pháp được xây dựng trong thời
kỳ này hoàn toàn là những toà án theo mô hình toà án hiện đại.


Đó là đảm bảo nguyên tắc tư pháp tách khỏi hành chính thành
một ngành độc lập, không một quan cai trị hành chính nào đồng
thời có thể là thẩm phán. Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
được tách biệt và độc lập với nhau. Nguyên tắc mọi công dân
bình đẳng trước pháp luật được thiết lập, quyền được bào chữa
của các bị cáo được đảm bảo. Nhờ hệ thống toà án này du nhập
vào Việt Nam, mô hình toà án tư sản đã có ảnh nhất định đến tư
duy tố tụng và cách thức tổ chức hệ thống toà án cho người Việt
Nam. Và một hệ thống toà án như vậy đã nhanh chóng được

thiết lập sau cách mạng tháng 8/1945 khi Việt Nam đã giành
được độc lập.
Thứ tư, ảnh hưởng của các cơ quan đại diện dân chúng
trong thời Pháp thuộc đến ý tưởng tổ chức Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp sau khi Việt Nam giành được độc lập. Trong
thời kỳ người Pháp đô hộ Việt Nam, một hệ thống cơ quan đại
diện dân chúng được thành lập như: “Hội đồng quản hạt Nam
Kỳ”; “Uỷ ban tư vấn kỳ hào Bắc Kỳ”; “Viện tư vấn bản xứ Bắc
Kỳ”. Ngoài các cơ quan đại diện cho dân chúng ở cấp Kỳ còn có
cơ quan đại diện cho dân chúng ở cấp tỉnh và thành phố như:
“Hội đồng quận” ở Nam Kỳ; “Uỷ ban tư vấn bản xứ hành tỉnh” ở
Bắc kỳ; “Hội đồng hàng tỉnh” ở Trung Kỳ. Bên cạnh đó các cơ
quan đại diện dân chúng cũng được thành lập tại các thành phố
Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng.
Các cơ quan đại diện dân chúng trong thời kỳ Pháp thuộc
phần lớn chỉ mang tính chất hình thức vì chỉ có tầng lớp kỳ hào
mới được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện.
Vai trò của các cơ quan đại diện lúc này rất hạn chế vì chỉ có
thẩm quyền tư vấn. Các kiến nghị của các cơ quan đại diện chỉ


được thực hiện khi được sự đồng ý của đại diện Chính phủ bảo
hộ.
Mặc dù Thiết chế cơ quan đại diện dân chúng do pháp xây
dựng còn nhiều hạn chế, nhưng nó cũng đã có ảnh hưởng nhất
định đến tư duy tổ chức bộ máy nhà nước hiện đại theo hướng
càng ngày càng dân chủ hơn ở Việt Nam. Sau Cách mạng tháng
8 năm 1945, nước nhà đã giành được độc lập, những kinh
nghiệm dù rất hạn chế của các cơ quan đại diện dân chúng
trong thời Pháp thuộc đã giúp cho người dân Việt Nam tổ chức

Quốc hội và Hội đồng nhân dân là hệ thống cơ quan dân cử thực
sự dân chủ của mình.
2. Một số điểm tương đồng giữa hệ thống pháp luật Việt
Nam với hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law
Dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp - một đại diện điển
hình của dòng họ pháp luật Civil Law trong thời kì thuộc địa
cũng như quá trình tiếp thu những giá trị tinh hoa của pháp luật
Pháp nói riêng cũng như những quan điểm tiến bộ, như những
sự phù hợp của Civil Law nói riêng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật của Việt nam từ khi dành độc lập đến nay,
vì vậy mà hệ thống pháp luật Việt nam có một số điểm tương
đồng với hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law. Một số
điểm tương đồng đó là:
Thứ nhất, cũng giống như các hệ thống pháp luật thuộc
dòng họ Civil Law, hệ thống pháp luật Việt nam cũng coi trọng
lý luận pháp luật. Các bộ luật ở Việt Nam thường đi từ cái chung
đến cái riêng. Phần chung làm cơ sở cho phần riêng và được
xây dựng theo tư duy logic từ cái khái quát đến cái cụ thể, từ cái


chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái hữu hình, từ
nguyên tắc chung đến các tình huống cụ thể , từ lý luận đến
thực tiễn. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong Bộ luật hình sự
Và Bộ luật dân sự của Việt Nam. Ngày nay khi Việt Nam đang
xây dựng nhà nước theo con đường Xã hội chủ nghĩa lấy chủ
nghĩa Mác – Lê nin là nền tảng tư tưởng thì vấn đề coi trọng lý
luận trong mọi vấn đề luôn được đề cao, ngay cả trong lĩnh vực
xây dựng pháp luật cũng vậy.
Thứ hai, hệ thống pháp luật của việt nam cũng có trình độ
hệ thống hóa, pháp điển hóa cao. Điều này được thể hiện ở việc

chúng ta đã xây dựng được nhiều bộ luật khác nhau cũng như
ban hành nhiều luật,…nhờ việc ban hành nhiều Bộ luật, luật với
các quy phạm pháp luật cụ thể, rõ ràng đã làm cho việc áp
dụng pháp luật trở nên dễ ràng hơn. Có thể áp dụng trực tiếp cá
quy phạm pháp luật trong các Bộ luật cũng như Luật vào điều
chỉnh các quan hệ xã hội mà không cần phải thông qua văn bản
pháp luật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi
hành. Tuy nhiên thì trình độ pháp điển hóa ở Việt Nam vẫn còn
chưa thực sự đạt được nhiều thành tựu, nhiều quy định của
pháp luật vẫ chưa thực sự rõ ràng dẫn đến tình trạng còn phải
ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, sự tương đồng về nguồn của hệ thống pháp luật.
Cũng như các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law,
nguồn quan trọng nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng
là nguồn pháp luật thành văn. Các nguồn khác như tập quán
pháp, tiền

lệ pháp chỉ là những

nguồn bổ sung cho nguồn

pháp luật thành văn. Mặc dù hiện nay chúng ta đã thừa nhận án
lệ và đã công bố một số bản án lệ nhưng án lệ của Việt Nam


không có vai trò được áp dụng trực tiếp mà nó chỉ được coi là
một nguồn để giải thích pháp luật.
III. Một số nguyên nhân ảnh hưởng của dòng họ Civil Law
đến hệ thống pháp luật Việt Nam.
Với sự phát triển mạnh mẽ của mình kể từ khi ra đời dòng

họ pháp luật Civil Law đã có những ảnh hưởng sâu rộng ra bên
người thế giới vượt ra khỏi châu Âu lục địa. Việt Nam là một
quốc gia ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của dòng họ pháp luật Civil
Law. Một số nguyên nhân dẫn đến sự ảnh hưởng của Civil Law
đến hệ thống pháp luật việt Nam đó là:
Thứ nhất, nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự ảnh hưởng của
Civil Law đến hệ thống pháp luật Việt Nam đó chính là hệ quả
của cuộc xâm lược thuộc địa Việt Nam của Đế quốc Pháp một
đất nước đến từ châu Âu lục địa một đại diện tiêu biểu cho hệ
thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law. Sau khi hoàn thành
xâm lược các nước

Đông dương nói chung và Việt Nam nói

riêng, chính quyền thực dân Pháp đã bắt tay vào xây dựng bộ
máy đô hộ để cai trị các nước ở Đông Dương, bên cạnh đó thì
Thực dân pháp cũng đem pháp luật của nước mình đồng thời
phát triển những quy định pháp luật mới để làm công cụ cai trị.
Chính sách thuộc địa của Pháp ở Đông Dương đã làm cho
hệ thống pháp luật của ba nước này tiếp nhận pháp luật của
Pháp theo cách thức bắt buộc. Chẳng hạn, ở Việt Nam trong thời
kì Pháp thuộc, bên cạnh hệ thống pháp luật của các hoàng đế
Nam triều, các toà án của Pháp vẫn áp dụng pháp luật của Pháp
đối với "người Pháp và những ngoại kiều được biệt đãi như
người Pháp, người Việt Nam sinh ra ở vùng đất thuộc địa dù


đang sống ở đâu trên đất Việt Nam”. Ngay cả sau khi đã giành
được độc lập và thậm chí đã xây dựng hệ thống pháp luật theo
mô hình pháp luật XHCN như ở Việt Nam và Lào, những nhân tố

của hệ thống pháp luật Pháp về kỹ thuật pháp lí, hệ thống khái
niệm cơ bản và cấu trúc của pháp luật vẫn tiếp tục được duy
trì1.
Thứ hai, đó là do sự tiếp thu những yếu tố tinh hoa, những
điểm tiến bộ và phù hợp của Civil Law với hoàn cảnh Việt Nam
của các nhà làm luật ở Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rằng,
ngay cả sau khi Việt Nam đã được giải phóng khỏi ách đô hộ
của đế quốc Pháp nhưng những quy định của pháp Luật thời kì
pháp thuộc mà có xu hướng tiến bộ và phù hợp với hoàn cảnh
nước ta lúc bấy giờ vẫn còn được duy trì và áp dụng. Cho đến
tận sau này khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, non sông thu
về một mối, một trong những yêu cầu đặt ra đó chính là xây
dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật đồng bộ để áp dụng
trên cả nước. Từ yêu cầu cấp thiết đó một loạt những Bộ luật,
luật mới đã được ban hành. Pháp luật của Việt Nam vẫn tiếp
thu những tư tưởng pháp lý, cấu trúc pháp luật tiến bộ của hệ
thống pháp luật của Pháp.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay việc hội nhập
với các nước trên thế giới là rất quan trọng để giúp phát triển
đất nước. Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật cũng vậy, để có
được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với sự phát
triển của đất nước đồng thời đáp ứng được những yêu cầu đặt
ra trong xu thế hội nhập là rất quan trọng. Vì vậy mà việc
nghiên cứu các hệ thống pháp luật trên thế giới cũng
1 />
ngày


càng được chúng ta quan tâm, để từ đó tìm ra những điểm tiến
bộ, phù hợp của cá hệ thống pháp luật để có thể áp dụng ở Việt

Nam nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Là một trong những
dòng họ pháp luật lớn và lâu đời nhất trên thế giới Civil Law là
một trong những hệ thống pháp luật được các nhà làm luật Việt
Nam rất chú ý. Việc nghiên cứu kĩ lưỡng về Civil Law đã giúp các
nhà làm luật tìm ra những nét nổi bật, phù hợp của Civil Law để
áp dụng vào việt Nam. Việc áp dụng những điểm tiến bộ đó
ghóp phần vào việc hoàn thiện, giúp pháp luật của Việt Nam hội
nhập với thế giới.
C. KẾT LUẬN
Civil Law đã phải trải qua một quá trình lịch sử lâu dài để
hình thành và phát triển để trở thành một trong những dòng họ
pháp luật lớn trên thế giới với những đặc trưng cơ bản tạo thành
nét riêng biệt của nó. Với sự phát triển mạnh mẽ của mình Civil
Law đã có nững ảnh hưởng lớn đến các nước trên thế giới, đối
với Việt Nam nó cũng có những ảnh hưởng nhất định đến hệ
thống pháp luật của nước ta. Một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến sự ảnh hưởng của Civil Law đến hệ thống pháp luật
việt Nam chính là do cuộc xâm lược thuộc địa trong quá khứ của
Pháp một quốc gia điển hình của dòng họ pháp luật Civil Law
với Việt Nam. Bên cạnh đó sự ảnh hưởng này còn do sự tiếp thu
những tư tưởng hiện đại, phù hợp của Civil Law đối với Việt Nam
trong quá trình xây dựng pháp luật Việt Nam ngày nay. Trong
quá trình hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay Việc tiếp thu những
nét tiến bộ của Civil Law nói riêng và của các dòng họ pháp
luật lớn trên thế giới nói chung sẽ ngày càng ghóp phần vào sự
phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam, giúp nước ta dễ


dàng hội nhập phát triển vươn tầm sánh vai với các nước phát
triển trên thế giới.



Tài liệu tham khảo:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội. “Giáo trình luật so sánh”. Nxb

Công an nhân dân. 2012.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội. “Giáo trình lịch sử nhà nước và

pháp luật Việt Nam”. Nxb Công an nhân dân. 2012.
3. />4.

/>


×