Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.32 KB, 10 trang )

Bài tập lớn môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Họ và tên: Lê Thành Trung
Mã sinh viên 11175041
Bài làm

Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: "Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản"
I.

Đặt vấn đề

1. Bối cảnh thế giới lúc bấy giờ

Vào nửa sau thế kỉ 19, chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển trên thế giới. Sự áp bức
và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng, sự phản ứng dân tộc của nhân
dân các thuộc địa càng quyết liệt.
Năm 1848, chủ nghĩa Mác-ăng ghen hình thành về cơ bản đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản.
Đầu thế kỷ XX, cuộc cách mạng Nga vào năm 1905 đã tạo nên một làn song mới, đẩy
mạnh cách mạng lan ra toàn thế giới và trong đó có các dân tộc châu Á Hàng trăm triệu
người hướng về một cuộc sống mới với ánh sáng tự do.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đó là một cuộc cách mạng vô
sản với nhân dân nước Nga, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa của Đế quốc Nga thì
đây còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước cách mạng"nước Nga
là nhà tù của các dân tộc". Cuộc cách mạng tháng mười ở nước Nga thành công, các
dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được quyền tự quyết với đất
nước, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc lập và quyền liên hợp,
dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết (1922). Cách mạng
Tháng Mười đã khích lệ phong trào cách mạng dân tộc cuả các nước thuộc địa trên
toàn thế giới, trở thành tấm gương cho phong trào giải phóng dân tộc




Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản
(1920), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của V.I. Lênin được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra phương hướng
đấu tranh để giái phngr cho các dân tộc thuộc địa bị bóc lột, áp bức trên toàn thế
giới..Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
Tại Việt Nam, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành cac cuộc khai thác thuộc địa, đặc biệt là
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai sau khi chịu các tổn thất trong cuộc Đệ nhất thế
chiến. Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình
hình xã hội Việt Nam. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc,từ đó, các
cuộc cách mạng, phong trào yêu nước lần lượt nổ ra.
2. Bối cảnh Việt nam lúc bấy giờ

Thực tế lịch sử những năm đầu thế kỷ XX cho thấy người dân Việt Nam yêu nước
sục sôi, liên tục nổi dậy chống ách thống trị của thực dân Pháp nhưng đều lần lượt thất
bại vì chưa có một đường lối kháng chiến phát huy được sức mạnh toàn dân tộc. Các sĩ
phu, tôn thân mang các tư tưởng hệ phong kiến, trung quân-ái quốc, chưa tin tưởng
hoàn toàn vào lực lượng quần chúng nên chưa tin vào thắng lợi cuối cùng của kháng
chiến.
Vào thập niên đầu thế kỷ XX, phong trào cứu nước của nhân dân ta lâm vào thời
kỳ bế tắc nhất khi Trường Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa (12-1907, vụ Hà thành
đầu độc bị thất bại và tàn sát (6-1908), cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế thất bại (11909), phong trào Đông du thất bại cho chính phủ Nhật bắt tay với thực dân Pháp, tiến
hành trục xuất Phan Bội Châu cùng với các học viên và những người cùng chí hướng
ra khỏi nước Nhật(2-1909),…
Thất bại của các cuộc đấu tranh cúa chúng ta vào đầu thế kỷ XX đặt ra vấn đề phải
giải quyết là đi theo con đường nào, do lực lượng nào lãnh dạo để đưa cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc thành công. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước lầm than
biến thành thuộc địa cho thực dân khai thác, quần chúng phải chịu áp bức, bóc lột,



Nguễn Tất Thành được trực tiếp theo dõi và nghe về tin tức các phong trào yêu nước
của các bậc tiền bối diễn ra. Người nhận thấy con đường của tiền bối Phan Bội Châu
như là "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" còn đường lối của Phan Châu Trinh cũng
là "xin giặc rủ lòng thương" ; con đường cùa Hoàn Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn
nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.Chính vì thế, mặc dù rất ủng hộ thái độ yêu
nước cùng tinh thần dám đứng lên tìm con đường cứu nước của ông cha, nhưng
Nguyễn Tất Thành không không chọn đi theo cách của họ mà quyết tâm ra đi tìm một
lối đi mới. Người đã chọn hướng đi là dành lại độc lập cho dân tộc mình bằng con
đường cách mạng, ở đây là cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc. Vào năm 1958 trong
bài “ Con đường giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay” người đã viết "Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản".

II.

Phân tích vấn đề

A. Phân tích luận điểm
1. Phân tích về cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa

1.1 Cách mạng vô sản
Đầu tiên theo đinh nghĩa thì cách mạng vô sản là cuộc cách mạng nhằm đánh đổ chế độ
tư bản chủ nghĩa và trong đó, giai cấp lãnh đạo là công nhân và quần chúng nhân dân.
Mục đích cuối cùng của cách mạng vô sản là hướng tới xây dựng một xã hội công bằng
dân chủ văn minh.
Giai đoạn đầu tiên của cuộc cách mạng là giai cấp công nhân phải kết hợp với những
người lao động khác thực hiện lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản vốn luôn đàn áp
và bóc lột các giai cấp khác. Giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng là giai cấp công
nhân phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động vào công cuộc hình thành một xã

hội mới về mọi mặt, thực hiện xoá bỏ tình trạng áp bức, bóc lột để không còn tình trạng
xung đột, áp bức giữa các dân tộc với nhau.Giai cấp công nhân được giao cho trọng


trách lich sử lãnh đạo các giai cấp thực hiện hình thành chính quyền cách mạng vô sản,
tuy nhiên để có thể đưa những lý thuyết đó vào thực tế thì cần có một yếu tố cốt lõi đó
chính là sự thành lập của Đảng Cộng Sản.
1.2 Cách mạng giải phóng dân tộc
Còn với cách mạng giải phóng dân tộc, có thể hiểu là cuộc cách mạng nhằm thủ tiêu sự
thống trị của đế quốc xâm lược,giành độc lập dân tộc cho dân tộc.
Trong khi xung đột chủ yếu và cơ bản ở quốc gia ở Châu Âu và Châu Mỹ là xung đột
giữa giai cấp với nhau,cụ thể là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, thì xung đột chủ yếu
trong những quốc bị áp bức và bóc lột bởi thực dân ở Châu Á là xung đột giữa dân tộc
thuộc địa vốn bị áp bức, bóc lột với thực dân đô hộ. Từ đó co thể suy ra được tính chất
và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở các nước thuộc địa.
Dưới ảnh hưởng của các hoạt động khai thác kinh tế, bóc lột tô thuế và cướp đoạt
ruộng đất, cùng với những chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi giai cấp ở
thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí có lợi ích phát triển
ngược chiều nhau, hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen nhau, nhưng nổi lên xung đột
cơ bản và chủ yếu là xung dột giữa tầng lớp nhân dân bị bóc lột với thực dân đô hộ
cùng với bộ sậu của của các chình quyền thuộc địa. Do vậy, "Cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ở phương Tây".
Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng
không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản
động. Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội
mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải "lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc", chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung.
Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư
bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến tranh xâm lược thuộc
địa, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam.



Ước muốn cần thiết và cơ bản của nhân dân và các giai cấp ở các nước thuộc địa bị boc
lột, áp bức vẫn và được có quyên độc lập. Trong phong trào cộng sản quốc tế, có quan
điểm cho rằng "vấn đề cơ bản của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân" và chủ
trương nhấn mạnh vấn đề ruộng đất, nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.

2. Con đường tìm đến cách mạng vô sản , cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ

Chí Minh,

Những tư tưởng về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành từ
chính con đường cứu nước của người.
Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm đã có mong muốn đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng
đồng bào. Người rất nể phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình phùng, Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh... nhưng không tán thành con đường cứu nước của các cụ.
Ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc với lòng yêu
nước nồng nàn, lên đường bôn ba 5 châu, 4 biển, tìm con đường giải phóng dân tộc. .
Ngày 6 tháng 7 năm 1911, sau hơn 1 tháng đi biển, tàu cập cảng Marseilles, Pháp. Ở
Pháp một thời gian rồi Nguyễn Tất Thành qua Hoa Kỳ. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm
(cuối 1912-cuối 1913), ông đến nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho
khách sạn, học tiếng Anh, và ở Luân Đôn cho đến cuối năm 1916. Cuối năm 1917, ông
trở lại nước Pháp. Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu
nước, Nguyễn Ái Quốc đã mang tới Hội nghị Hòa bìnhVersailles bản Yêu sách của
nhân dân An Nam.
Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai gọi tên mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên
này trong suốt 30 năm sau đó. Trong khi đó, tại nước Nga Xô viết sau Cách mạng
Tháng Mười năm 1917, Vladimir Lenin đã ban hành sắc lệnh quy định về sự bình đẳng



giữa các dân tộc, trao trả độc lập cho các thuộc địa của Đế quốc Nga cũ. Năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin. Luận
cương của Lênin về vấn đề dân tộc và dân tộc thuộc địa đã ảnh hưởng sâu sắc tới nhận
thức tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình Người tìm đường cứu nước. Qua nghiên
cứu Luận cương, Người đã hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba. Đồng thời, vận
dụng sáng tạo Luận cương của Lênin, khẳng định con đường duy nhất đúng của cách
mạng Việt Nam là đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã phát triển
thêm Luận cương của Lênin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới từ đó tạo lên nền
tảng áp dụng cho cách mạng ở Việt Nam sau này, và thực tiễn đã chứng mỉnh rằng các
tư tưởng, nhận định được phát triển thêm của Nguyễn Ái Quốc, sau này là chủ tịch Hồ
Chí Minh là đúng đắn và phù hợp trong điều kiện của đấy nước ta lúc bấy giờ
Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng
12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở
thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã
hội
Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp
Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies)
nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc
Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le
Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp,
bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án
chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do ông
viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập
đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc sang hoạt động ở Liên Xô. tại đây, Người tiếp tục bổ
sung và phát triển thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc.


Đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã xác định đúng các nội dung cơ bản của con đường
cách mạng Việt Nam.

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (九九, Kowloon) thuộc Hồng Kông, theo chỉ thị
của Quốc tế Cộng sản, nhằm giải quyết những mâu thuẫn hiện có giữa những người
cộng sản Đông Dương, ông đã thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương
thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi
thành "Đảng Lao động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam")
Việc xác định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn, đầu tiên là qua các cuộc
cách mạng giải phóng nhân dân, sau đó là tiến tói thực hiện cách mạng xã hội chủ
nghĩa, ở Hồ Chí Minh tại thời kỳ này không chỉ là nhờ từ chủ nghĩa Lênin Người đến
được với chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn ở sự rút ra được bài học kinh nghiệm của cách
mạng thế giới của Hồ Chí Minh, mà Cách mạng Tháng Mười đã mạng lại cho Người
bài học kinh nghiệm quý báu nhất: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải
bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mác và
Lênin”. Từ đó Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và bắt đầu lãnh đạo cách
mạng Việt Nam tuân thủ 3 nguyên tắc của cách mạng vô sản: Do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; liên minh công nông là nguyên
tắc cao nhất của cách mạng vô sản.
3. Cách mạng vô sản là con đương duy nhất đề cứu nước và giải phóng dân tộc

chứ không phải là con đường nào khác.
Các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc giải phóng dân tộc thuộc đia thời kì bấy giờ đi
theo hai xu hướng chính là cách mạng vô sản và cách mạng tư sản. Tuy nhiên , dân dần
cách mạng tư sản đã bị điều kiện lich sử hạn chế, ngược lại xu hướng cách mạng vô
sản ngày càng được phát triển, khẳng định được sức mạng và tương lai phát triển rực
rỡ. Cộng thêm các yêu tố đặc biệt như giai cấp phương vô sản thuộc địa ở phương
Đông mới ra đời , có thêm sự giúp đỡ của giai cấp vô sản phương Tây, tinh thần đấu


tranh của giai cấp vô sản luôn lớn hơn giai cấp tư sản , triệt để hơn giai cấp tư sản trong
vấn đề giải phóng dân tộc thuộc địa.

Trong tác phẩm “ Đường cách mệnh” đã giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các
cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng tháng Mười
Nga (1917)và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để. Người đọc
tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiêu thực tiễn cuộc cách mệnh tư sản Mỹ.
Nguyễn Ái Quốc đã rút ra: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái phúc tự do, bình đẳng
thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam. Cách mạng Nga đãđuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công,
nông các nước và dân bịáp bức các thuộcđịa làm cách mệnh để đập đổ tất cả các đế
quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn
cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền,
phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất”
B.

Chứng minh luận điểm

1. Trên cơ sở lý luận:

Trong các tác phẩm của mình, Lênin đã trình bày tư tưởng cho rằng nếu trước kia
phong trào giải phóng dân tộc kết thúc với việc giai cấp tư sản lên nắm chính quyền,
thì trong thời đại đế quốc chủ nghĩa những phong trào này được sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản đứng đầu là các Đảng Cộng sản, khi gặp những điều kiện thuận lợi, có thể
dẫn tới việc thành lập một chính quyền thực sự nhân dân. Trong trường hợp này, các
nước thuộcđịa cũ, với những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, có khả
năng, với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắngở các nước tiên tiến-thực hiện
bước quá độ dần chuyển lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Tư tưởng này của Lênin hoàn toàn đúng với hoàn cảnh của nước ta, qua đó
thấy được con đường quá độ không qua chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn có khả năng.



Chúng ta hoàn toàn có thể tự tin đi theo con đường ấy, không cần “kinh qua” giai đoạn
tư bản chủ nghĩa.
2. Thực tiễn cách mạng Việt

Cách mạng vô sản ở Việt Nam có những vừa có sự đặc trưng của mọi cuộc cách mạng
vô sản, đống thời cũng có những sự sáng tạo riêng , có sự vận dụng để phù hợp với
hoàn cảnh riêng của đất nước:
-Cách mạng nước ta do một chính đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam
hoạt động trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hết
lòng phục vụ cho giai cấp công nhân, nông dân, tang lớp nhân dân lao động trong nước
và đấu tranh vì sự phát triển của vô sản toàn thế giới.
- Lực lượng của cách mang nước ta tất cả các giai cấp của dân tộc từ công nhân, nông
dân cho đến giai cấp tiểu tư sản, trí thức, trung nông,tư sản dân tộc,...
- Cách mạng được tiến hành vừa sáng tạo, vừa chủ động, có sự giúp sức và hỗ trợ của
bạn bè quốc tế.
- Sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Những thành quả
mà chúng ta đạt được đã chứng tỏ sự đúng đắn của con đường mà Hồ Chủ tịch đã lựa
chọn, toàn dân tộc ta đang theo đuổi : Bắt đầu từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã đưa đến sự thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chế độ
thuộc địa nửa phong kiến bị xoá bỏ, một kỷ nguyên mới mở ra - kỷ nguyên của độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

C.

Ý nghĩa của luận điểm

Từ những phân tích và chứng minh trên , ta có thể thấy luận điểm của Hồ Chí Minh
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản” là hoàn toàn đúng đắn. Từ đó để lại nhiều ý nghĩa, bài học. Cho đến
tận bây giờ, có thể khẳng định rằng luận điểm này là định hướng đúng đắn cho các

cuộc đấu tranh của dân tộc. Thực tế đã được chứng minh trong cuộc kháng chiến


chống Pháp. Dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đánh đuổi được thực dân Pháp
sau gần 1 thế kỉ đô hộ, từ đó đặt nền tảng cho nhà nước của dân , do dân, vì dân. Ngoài
ra luận điểm trên cũng định hướng cho tương lai của cách mạng Việt Nam, nhân dân ta
không chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng không
có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải luôn
luôn vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của
mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.



×