Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Môn đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước cùng câu hỏi thi 1.2019 (phần văn hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.36 KB, 20 trang )

Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống
xã hội
(Phần Văn hóa – Xã hội)
Câu 1) Thông qua mối quan hệ giữa con người và sự phát triển văn hóa, anh chị
hãy cho biết con người Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần hoàn thiện những
giá trị nhân cách văn hóa cốt lõi nào? Vì Sao?
Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra trong quá trình tương tác với hai môi trường tự nhiên và xã hội, được kế thừa, trao dồi
và tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự khác biệt giữa các cộng đồng, quốc
gia, dân tộc. Văn hóa là sự phản ánh bản chất người của con người.
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước, nhấn mạnh vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của chiến lược xây dựng, phát triển con
người. Coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những khâu đột phá để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Phân tích mqh giữa con người và sự phát triển vh: Con người là chủ thể sáng tạo
của vh, “vh là hữu cơ các giá trị….do con người sáng tạo ra…”. Nhưng con người ko chỉ
là chủ thể của vh, con người còn là khách thể của vh. Con người ko chỉ là chủ thể, khách
thể vh của chính mình mà cũng là chủ thể và khách thể của quá trình giao lưu và tiếp biến
vh, đây là quá trình đặc biệt quan trọng giúp nền vh các quốc gia dân tộc ptrien.
Mối quan hệ giữa con người và vh còn phụ thuộc vào yếu tố quan trọng đó là yếu
tố vh gốc. Chúng ta chỉ có thể là chủ thể, khách thể tốt khi chúng ta có nền vh gốc đủ
mạnh để làm hệ quy chiếu khi tiếp nhận các giá trị vh bên ngoài, chúng ta phải biết nhu
cầu, thị hiếu mình là gì, sự phù hợp đối với các giá trị vh của mình là gì.
Xây dựng giá trị cốt lõi trong nhân cách con người vn, đó chính là giá trị gốc. Có 3
giá trị: con người công dân; con người khoa học; con người nhân văn.
Con người công dân: Đó là tinh thần thượng tôn pháp luật. Trong bối cảnh ngày
nay phải tuân thủ luật pháp để bảo vệ những lợi ích hợp pháp chính mình.
Xây dựng bằng cách củng cố hệ thống pháp luật nghiêm minh, khoa học; tuyên
truyềnn, đề giáo dục về các văn bản pháp luật; thực hiện tốt hoạt động giám sát, kiểm tra
quá trình thực thi pháp luật ….


Con người khoa học: Trong vh, việc sàng lọc vh phải dựa trên tri thức khoa học. Để
xây dựng con người khoa học thì cần phải phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công
nghệ.
Con người nhân văn: Đó là nhân ái (tôn trọng, phát huy năng lực mỗi con người,
tạo điều kiện cá nhân phát triển). Nghĩa tình là việc chúng ta dám đương đầu đấu tranh với
cái xấu, làm việc tốt để bảo vệ lẫn nhau dựa trên mối quan hệ cái tình giữa con người với
con người. Trung thực để giữ chữ tín trong quá trình hợp tác. Đoàn kết là sự bảo vệ lợi ích
chung của tất cả mọi người chứ không phải một nhóm người. Cần cù và sáng tạo: là xây
dựng đức tính siêng năng lao động thúc đẩy phát triển cá nhân, đất nước.
7 đức tính này không phải là mới mẻ, nó là những đút kết của truyền thống tuy
nhiên đặt trong bối cảnh


Câu 2) Thông qua mối quan hệ giữa môi trường văn hóa và sự phát triển văn
hóa, anh chị hãy chỉ rõ cần phải phát triển đồng bộ các môi trường văn hóa nào
trong bối cảnh của đất nước ta hiện nay? Vì sao?
MTVH là môi trường sống của con người chứa đựng những giá trị văn hóa của
quá khứ và hiện tại, trong đó bao gồm các hoạt động văn hóa của con người: sáng tạo,
phân phối, bảo quản, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. MTVH được tạo nên bởi những
yếu tố mà yếu tố trung tâm chính là con người văn hóa và các quan hệ xã hội của nó.
Xây dựng MTVH là tạo ra những điều kiện để các hoạt động VH diễn ra
thường xuyên, liên tục và đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh và ngày càng tăng lên
của nhân dân. Xây dựng MTVH góp phần tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định,
an toàn và bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được bảo đảm.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã xác định xây dựng môi trường
văn hoá (MTVH) vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ quan trọng để xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Trong 4 quan điểm phát triển kinh tế - xã hội 2016 – 2020 của văn kiện đại hội
XII xác định phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo

vệ môi trường. Phương hướng, nhiệm vụ là xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh".
Môi trường văn hóa là nơi con người sống và chịu sự tác động của nó trong quá
trình hình thành nhân cách. Xây dựng môi trường văn hóa chính là để xây dựng con
người văn hóa; xây dựng con người văn hóa, có nhân cách, đạo đức, lối sống… sẽ góp
phần làm cho môi trường văn hóa phát triển ngày càng lành mạnh hơn. Môi trường
văn hóa phải được xây dựng đồng bộ, đó là việc tạo dựng môi trường văn hóa trong hệ
thống chính trị, trong cộng đồng dân cư, ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học
và mỗi gia đình. Trong đó việc xây dựng môi trường văn hóa ở gia đình, cộng đồng xã
hội rất cần được xem trọng.
Gia đình là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp
sống văn hóa cho con người. Gia đình là nơi vừa phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp, vừa vun đắp cuộc sống no ấm, hòa thuận, hạnh phúc, văn minh. Các mô hình gia
đình văn hóa tiêu biểu, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, yêu thương
chăm lo cho nhau và quan tâm đến cộng đồng…đã có tác động tích cực cần được nhân
rộng. Mặt trận và các đoàn thể tiếp tục biểu dương những gia đình văn hóa, những tấm
gương hiếu thảo, lao động, vượt khó, sống có trách nhiệm trong cộng đồng. Trong lịch
sử phát triển của nhân loại, gia đình luôn là nhân tố đầu tiên trong việc xã hội hóa và
giáo dục thế hệ trẻ. Chỉ khi trong gia đình bố mẹ yêu thương con, con kính trọng và
thương yêu bố mẹ, biết giúp đỡ mọi người; chỉ khi trong gia đình mọi người sống vì
nhau, đoàn kết thương yêu lẫn nhau, thì lúc đó mối quan hệ giữa các thành viên mới
bền chặt, những mầm mống của tệ nạn xã hội mới không nảy sinh và phát triển được.
Vì vậy, giáo dục gia đình gắn liền với những nội dung về giá trị đạo đức, tình cảm và
truyền thống của gia đình. Giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành nhân cách con người, đặc biệt là trẻ em. Những trẻ em không được giáo dục



toàn diện trong gia đình sẽ dễ dàng bị lôi kéo vào con đường phạm tội và tệ nạn xã
hội. Trong những gia đình, những người lớn như cha mẹ, ông bà không gương mẫu,
có những hành vi phi pháp sẽ là môi trường tiêm nhiễm dẫn đến phạm tội và tệ nạn xã
hội cho trẻ em.
Các điều kiện sinh hoạt cộng đồng và môi trường xã hội là yếu tố có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển con người, giúp con người hình thành quan điểm giá
trị, nhân văn, giúp con người phát triển tài năng và làm nên thành tựu mới. Ở địa bàn
dân cư, việc triển khai xây dựng khu phố/ấp văn hóa… với các tiêu chuẩn được bổ
sung ngày càng toàn diện, phù hợp thực tiễn như xây dựng, phát triển kinh tế, giữ gìn
trật tự giao thông, trật tự đô thị, làm cho môi trường xanh sạch đẹp, ngăn ngừa tệ nạn
xã hội, phát huy dân chủ, chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật, tương trợ giúp
đỡ nhau…Nếu được chỉ đạo chặt chẽ và có sự hưởng ứng của người dân sẽ làm cho
chất lượng sống được nâng lên, làm cho phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” ngày càng thực chất và có ý nghĩa đối với cộng đồng.
Bên cạnh đó để xây dựng MTVH cần phải có một nền kinh tế phát triển bền
vững, lành mạnh, hiệu quả, trong đó những người lao động được tôn trọng, không bị
phân hóa giàu nghèo bất hợp lý, không bị lợi ích nhóm (theo nghĩa xấu) chi phối, có
cơ chế quản lý tiên tiến, đủ sức hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường. Cần có một nền
chính trị dân chủ thấm đẫm văn hóa “dân là gốc”, nói cách khác là một nền “dân trị”,
trong đó dân thật sự là chủ, làm chủ, quyền lực là của nhân dân, cán bộ là những
người hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, kính trọng và lễ phép với nhân dân; có cơ
chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh để hạn chế một cách hiệu quả mặt trái của con ngựa
bất kham. Đó là điểm quan trọng nhất về xây dựng văn hóa chính trị. Không thực hiện
thành công điều đó thì không thể có CNXH hiện thực. Trong nền chính trị ấy, và để
xây dựng nền chính trị ấy, cần có Đảng là bộ tham mưu chiến lược, là một Đảng chân
chính, trong sạch, “đạo đức và văn minh”, “trí tuệ, danh dự và lương tâm” như cách
nói của Hồ Chí Minh và Lênin. Môi trường văn hóa tốt đẹp là một môi trường mà khi
tiếp cận với nó, sống trong đó, con người ta sẽ tốt hơn lên, trưởng thành, hoàn thiện và
hạnh phúc hơn. Một nền văn hóa tốt đẹp do con người tạo ra và đến lượt nó sẽ là một

môi trường văn hóa khổng lồ tác động trở lại tạo ra những con người có nhân cách tốt
đẹp.
Môi trường xã hội có ý nghĩa trực tiếp tác động đến tính cách con người là giáo
dục. Một khi giáo dục còn nặng kiến thức hàn lâm, ít dạy làm người, ít dạy lao động,
kỹ năng thực hành xã hội và kỹ năng sống… người học sẽ thiếu tự tin, thiếu niềm tin
và động lực phấn đấu. Vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng xây dựng môi trường giáo
dục tiên tiến, lành mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa soi đường cho
quốc dân đi”. Giáo sư Trần Văn Giàu cũng đã cảnh báo: Mất nước có thể giành lại,
nếu các giá trị văn hóa bị hủy hoại, bị mai một, bị mất dần đi thì không bao giờ có thể
khôi phục và giành lại được. Muốn văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội phải coi trọng xây dựng môi trường văn hóa trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
ở gia đình, cộng đồng… Xây dựng các quy chuẩn, hệ giá trị, các quy ước cộng đồng,
phải đề cao việc nêu gương và tuyên truyền những tấm gương tốt.


Câu 3) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước
đang thực hiện nhằm hiện thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục
và đào tạo trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
Đại hội XII của Đảng xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo;
phát triển nguồn nhân lực là một trong những định hướng lớn để hiện thực hóa mục
tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Nội dung quan điểm của Đại hội XII là bước phát triển mới trong tư duy lý luận
của Đảng về giáo dục và đào tạo.
1. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực
Đại hội XII của Đảng đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát, trong đó có nhiệm vụ: “Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”.
Đây cũng là quan điểm tổng quát, bao trùm của Đảng về giáo dục và đào tạo được xác
định ở tầm đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn,

cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục và đào
tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở
tất cả các bậc học, ngành học nhằm hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực của
người học.
Đổi mới cả chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy, phương pháp học
và thi cử, cả ở phổ thông và cả ở đại học, cả thầy và cả trò là sự thay đổi tổng thể, có
hệ thống, có trước có sau, có trên có dưới, có trong có ngoài, có chính có phụ, tất cả
các yếu tố, các quan hệ của ngành giáo dục và giữa ngành giáo dục với các ngành
khác của đời sống xã hội.
2. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Xây dựng
chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với
những giải pháp đồng bộ”.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực
quốc gia, là nguồn nhân lực đáp ứng có tiêu chí về chất lượng cao và trình độ cao,
đồng thời là nguồn lực con người được đào tạo và sử dụng có chất lượng, hiệu quả cao
với tổng hợp các phẩm chất về nhân cách (tâm lực), năng lực thực hành (kỹ lực) và
thể lực. Những tiêu chí cơ bản của nhân lực chất lượng cao là văn hóa, văn hóa nghề
nghiệp, đạo đức, nhân cách, trách nhiệm xã hội, ý thức công dân; năng lực tư duy sáng
tạo; năng lực tri thức chuyên môn; năng lực thực hành; kỹ năng mềm, nhất là kỹ năng
sống.
Nội dung quan điểm về phát triển nguồn nhân lực được thể hiện xuyên suốt
trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và được xác định
là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội. Đó là việc tiếp tục thực
hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược là: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng
đồng bộ.



3. Giáo dục là quốc sách hàng dầu
Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước đã luôn khẳng định giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính
yếu của Nhà nước, được ưu tiên đi trước một bước so với các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội khác.
Quốc sách hàng đầu là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu của
Nhà nước, luôn dành được sự quan tâm hàng đầu, ưu tiên đặc biệt của Nhà nước trong
việc tiến hành một loạt các biện pháp và phạm vi thực hiện, nguồn ngân sách chi cho
các chính sách đó.
4. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài; chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học
Quan điểm này thể hiện mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm phát huy tốt nhất tiềm năng riêng của
mỗi cá nhân. Điểm mới của quan điểm này trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng là đề xuất hệ thống phẩm chất và năng lực của người học với
những tiêu chí rất cụ thể: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm
việc hiệu quả.
5. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang phát
triển, sư nghiệp giáo dục và đào tạo cần và có điều hiện để phát triển đáp ứng được
yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Cần nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả những
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào phát triển giáo dục và đào tạo; đồng
thời, đổi mới và phát triển giáo dục và đào tạo cho phù hợp với sự phát triển khoa học
và công nghệ hiện đại.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đi vào chiều sâu trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế đang đặt ra bài toán lớn về giải quyết nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình hội nhập quốc tế
cũng đang đặt ra cho nước ta những thách thức mới từ những cạnh tranh gay gắt trên
thị trường lao động. Hơn nữa, Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức
của một quốc gia đang trong thời kỳ “dân số vàng”, nếu tận dụng được thời cơ sẽ tạo
được bước phát triển, nếu bỏ qua sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” và tụt hậu xa
hơn. Do vậy, phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế và trong nước mới.
6. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân
“Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào;
sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực” là mục tiêu tổng quát của sự nghiệp phát triển giáo
dục và đào tạo nước nhà trong những năm tới.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đòi hỏi hướng các hoạt
động văn hóa giáo dục đào tạo và các hoạt động khác vào việc xây dụng con người
phát triển về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ


pháp luật; làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người phát triển vô tư hoàn
thiện nhân cách; làm cho yếu tố con người thực sự trở thành nhân tố quyết định sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
7. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào
tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn cốt
lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các
chính sách, cơ chế và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục. Đổi mới ở tất cả các
cấp học và trình độ đào tạo ở cả trung ương và địa phương, ở cả mối quan hệ giữa gia
đình, nhà trường và xã hội. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và

hiệu quả giáo dục đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng
tăng của các tầng lớp nhân dân.
8. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Bản chất xã hội học tập là một môi trường giác dục trong đó mọi người đều có
được điều kiện, cơ hội học tập, với thiết chế giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thích
ứng với điều kiện học của từng người, từng tổ chức. Xã hội học tập là một môi trường
trong đó mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp xã hội đều tự giác học hành, cả xã hội trở
thành một trường học lớn, mỗi người dân là một học trò với nhu cầu học luôn được
đáp ứng.
Xã hội học tập là nơi đào tạo nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng với nhiều trình
độ, nhiều năng lực khác nhau, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, hội nhập quốc tế
trong một thị trường lao động luôn biến đổi, phát triển dưới sự tác động của tiến bộ
khoa học và công nghệ. Trong xã hội học tập, học là con đường làm tăng trưởng trí
tuệ, giá trị đạo đức, tinh thần, thể chất, thẩm mỹ…; học để làm việc, để sáng tạo, để
làm người, để sống tốt hơn, thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Học trong nhà
trường và học trong cuộc sống xã hội.
9. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Đổi
mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý
chất lượng”.
Công tác quản lý giáo dục - đào tạo là một yếu tố rất quan trọng đối với việc
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Trong công tác quản lý cần coi trọng quản lý
chất lượng, thực hiện mục tiêu: “Kỷ cương nghiêm - Chất lượng thực - Hiệu quả cao”
trong mọi hoạt động của ngành, từ việc dạy của thầy đến việc học của trò; từ việc
quản lý chuyên môn, nhân sự đến việc quản lý tài chính, cơ sở vật chất, từng bước
khắc phục sự chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các trường học. Đẩy mạnh phân
cấp quản lý thực hiện Nghị định 115/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm

quản lý nhà nước về giáo dục. Thực hiện nghiêm các quy định về quản lý dạy thêm,
học thêm.


10. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục và đào tạo
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà
giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo”.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học
và trình độ đào tạo. Đặc biệt coi trọng việc hình thành và phát triển đội ngũ: đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo và chuẩn nghề nghiệp; mẫu
mực, chuyên môn giỏi, phong cách tốt, tâm huyết và trách nhiệm với nghề. Đối với
cán bộ quản lý giáo dục, phải lựa chọn được những người vừa công tâm, vừa có kiến
thức và tinh thần trách nhiệm cao, những yếu tố tạo nên bản lĩnh của người cán bộ
quản lý.
11. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp
của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Đại hội XII của Đảng chỉ ra: “Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động
sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục
và đào tạo”.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân
sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách;
chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí
hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính
sách học phí.
12. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý

Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả
nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa
học quản lý”. Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung
đầu tư nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu
khoa học giáo dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và
chuyên gia giáo dục. Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo
dục.
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo
và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ưu tiên đầu
tư phát triển khoa học cơ bản, khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm,
phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm
hiện đại trong một số cơ sở giáo dục đại học. Có chính sách khuyến khích học sinh,
sinh viên nghiên cứu khoa học.


Câu 4) Anh chị hãy trình bày những chính sách cụ thể mà Đảng và Nhà nước
đang thực hiện nhằm hiện thực hóa các quan điểm chỉ đạo về phát triển khoa học
và công nghệ trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh.
1. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh
các quan điểm chỉ đạo phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ trong những năm
tới, trong đó quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo xuyên suốt bao trùm là: Phát triển khoa học
và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng để phát triển kinh
tế, xã hội.
Coi khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan
trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh không chỉ dừng
lại trong nhận thức, dừng lại ở quan điểm chỉ đạo mà phải được chuyển thành quyết

tâm chính trị, thành mục tiêu phát triển, làm chủ và ứng dụng được thành tựu của khoa
học và công nghệ vào cuộc sống, trước hết vào nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả sản xuất, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà.
Thực tiễn cho thấy bên cạnh những thành tựu của khoa học và công nghệ đóng
góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội, thì điểm hạn chế, yếu kém nhất như Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ ra là khoa học, công nghệ
chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu có nghĩa là chủ trương, chính
sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải
dựa vào khoa học và công nghệ và thực hiện bằng khoa học công nghệ. Chỉ có phát
triển khoa học công nghệ, chúng ta mới phát triển được kinh tế - xã hội, giữ vững
được độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
Vai trò quốc sách hàng đầu của khoa học và công nghệ một mặt thể hiện ở chỗ
khoa học và công nghệ có liên quan trực tiếp đến mọi lĩnh vục đời sống xã hội và
ngày càng trở thành động lực quan trọng trong phát triển của xã hội, đặc biệt đối với
lĩnh vực sản xuất vật chất; mặt khác thể hiện ở tự nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu
sắc của con người về vai trò ngày càng tăng của khoa học để thực sự xác định đó là
quốc sách. Xã hội càng văn minh thì trí tuệ con người càng trở thành nguồn lực quan
trọng nhất cho sự phát triển.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: làm cho khoa
học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại, kinh tế tri thức. Phát triển lực lượng sản xuất xét đến cùng là tác động vào
nhân tố động nhất, cách mạng nhất trong hệ thống các nhân tố hợp thành của kinh tế đó là một định đề tất yếu mà lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khái quát. Trong
điều kiện của nước ta hiện nay, việc giải bài toán tuần tự - đi tắt đón đầu trước thời cơ
mở cửa, hội nhập đã cho phép đồng thời đòi hỏi cấp thiết phải tính đến phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại. Song, để làm chủ được điều đó thì nhất thiết phải có trình độ
phát triển khoa học và công nghệ tương ứng.
Đối với lĩnh vực kinh tế, cùng với vấn đề phát triển lực lượng sản xuất và kinh
tế tri thức còn có vấn đề không kém phần quan trọng là vị thế toàn diện của nền kinh
tế. Có được nền khoa học tiên tiến, nắm trong tay những công nghệ hiện đại với tính

ưu việt cao sẽ là lợi thế cực lớn trong cạnh tranh.


Vấn đề môi trường sinh thái đang là vấn đề chung của thời đại mang tính toàn
cầu. quan điểm về phát huy vai trò của khoa học và công nghệ góp phần bảo vệ môi
trường thể hiện tư duy lý luận đúng đắn của Đảng.
Một khía cạnh khác trong định hướng phát triển khoa học và công nghệ nước
nhà là làm cho khoa học và công nghệ trở thành động lực hàng đầu góp phần bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Hoạt động quốc phòng, an ninh trong thời đại khoa học công
nghệ phát triển như vũ bão không chỉ đòi hỏi sự mưu lược và lòng dũng cảm, mà còn
đòi hỏi rất cao ở tư duy thực sự khoa học.
2. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ cần được ưu tiên tập trung
đầu tư trước một bước
Đại hội XII của Đảng xác định: “Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là
một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của
các ngành, các cấp”. Đây là nội dung có giá trị chỉ đạo sâu sắc nhận thức và hành
động của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các ngành, các cấp trong phát triển
và ứng dụng khoa học công nghệ.
Hoạt động khoa học và công nghệ không chỉ là nhiệm vụ của các nhà khoa học,
các nhà quản lý khoa học mà là công việc của mọi ngành, mọi cấp, mọi người. Mọi
hoạt động kinh tế - xã hội đều đòi hỏi phải có nội dung khoa học công nghệ để nâng
cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Phát triển kinh tế - xã hội dựa vào khoa học và
công nghệ, phát triển khoa học và công nghệ định hướng vào thực hiện thắng lợi các
mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố tăng cường quốc phòng và an ninh. Bảo đảm sự gắn
kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo; giữa khoa học và công nghệ;
giữa khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật.
Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ không phải chỉ nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế mà còn nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường ngay trong từng bước
đi và từng chính sách phát triển.

3. Phát triển khoa học và công nghệ đạt trình độ tiên tiến trong một số lĩnh
vực
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Đến năm 2020,
khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu
ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới”20.
Việc xác định mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ của Đại hội XII thể
hiện sự nhất quán, kiên trì và quyết tâm chính trị của Đảng đối với sự phát triển nền
khoa học nước nhà. Mục tiêu này đã khái quát và chỉ rõ ba nội dung trọng tâm về trình
độ phát triển khoa học và công nghệ nước nhà. Trong đó mục tiêu thứ nhất là: Phát
triển khoa học và công nghệ đạt trình độ tiên tiến trong một số lĩnh vực mà Việt Nam
có thế mạnh; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ đáp ứng các yêu cầu cơ bản
của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mục tiêu thứ hai là: Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Bảo đảm cung cấp luận cứ
khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước.
Xây dựng được nền tảng khoa học tự nhiên hiện đại cho khoa học và công nghệ nói
chung; phấn đấu đạt trình độ hàng đầu của khu vực và thứ hạng cao trên thế giới ở
một số lĩnh vực; làm chủ, ứng dụng và phát triển các công nghệ có ảnh hưởng quyết


định đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, tạo ra các sản phẩm mới có
tính cạnh tranh cao.
Mục tiêu thứ ba là: Hình thành đồng bộ đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ
có trình độ cao, tâm huyết, trung thực, tận tụy. Phát triển các tổ chức, tập thể khoa học
và công nghệ mạnh, các nhà khoa học đầu ngành. Số cán bộ khoa học và công nghệ
nghiên cứu và phát triển đạt mức 11 người trên một vạn dân; tăng nhanh số lượng các
công trình được công bố quốc tế và số lượng các sáng chế được bảo hộ trong nước và
ở nước ngoài. Phát triển mạnh các doanh nghiệp khoa học và công nghệ22.
4. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động,
khoa học và công nghệ

Đại hội XII chỉ rõ nhiệm vụ, giải pháp cơ bản, bao trùm là: “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động, khoa học và công nghệ, nhất là
cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính”.
Trong nhiệm vụ, giải pháp phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ được
Đại hội XII xác định thì việc đổi mới công tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, cơ
chế hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá để phát triển khoa học và công
nghệ trong những năm tới. Nội dung, yêu cầu, biện pháp có tính đột phá trong giải
pháp này là tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư,
tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các hoạt động
khoa học và công nghệ.
Vấn đề cần quan tâm là đổi mới cơ chế xây dựng kế hoạch và dự toán ngân
sách đối với hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với đặc thù của lĩnh vực khoa
học và công nghệ và nhu cầu phát triển của quốc gia, ngành, địa phương; bảo đảm
đồng bộ gắn kết giữa định hướng phát triển dài hạn, chương trình phát triển trung hạn
với kế hoạch nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ hằng năm. Đồng thời, cần
điều chỉnh phân bổ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ theo
hướng căn cứ vào kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí khoa học và công nghệ của bộ,
ngành, địa phương, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.
Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ và cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học và công nghệ cuối cùng
theo kết quả đầu ra. Xây dựng cơ chế đặc thù trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà
nước để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo hướng giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Mở
rộng áp dụng cơ chế tài chính của quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát; hình thành cơ chế đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện,
giám định xã hội đối với các hoạt động khoa học và công nghệ.
Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới,
công nghệ hiện đại; hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao, mua thiết kế,
thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài thuộc các lĩnh vực ưu tiên, doanh nghiệp
mua công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước.

5. Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định là: “Phát
huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư phát
triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu
công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới


Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học
cấp quốc gia theo mô hình tiên tiến của thế giới. Từng bước hình thành và phát triển
viện hoặc trung tâm nghiên cứu tại các vùng kinh tế trọng điểm để phát huy tiềm
năng, lợi thế của từng vùng. Tập trung nguồn lực xây dựng và đưa vào hoạt động có
hiệu quả ba khu công nghệ cao quốc gia. Quy hoạch các khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung. Quy hoạch và phát triển các trung
tâm nghiên cứu hiện đại gắn với các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, phòng thí
nghiệm chuyên ngành. Phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp
khoa học và công nghệ. Hình thành các tập thể nghiên cứu đáp ứng yêu cầu giải quyết
các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia. Phát triển các nhóm nghiên cứu trẻ, tiềm năng từ
các trường đại học, viện nghiên cứu để làm hạt nhân hình thành các doanh nghiệp
khoa học và công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ; hỗ trợ các
doanh nghiệp thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển. Khuyến khích thành lập các
viện nghiên cứu phát triển có vốn đầu tư nước ngoài và thành lập chi nhánh của các
viện nghiên cứu nước ngoài ở Việt Nam. Phát triển hạ tầng thông tin và thống kê khoa
học và công nghệ quốc gia hiện đại. Hình thành các bảo tàng khoa học và công nghệ.
6. Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Tăng
cường hợp tác về khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ cao phải là hướng ưu tiên
trong hội nhập quốc tế”.
Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ để tranh thủ nguồn lực và tri
thức của các quốc gia tiên tiến; đồng thời từng bước nâng tầm năng lực và trình độ

nghiên cứu trong nước để có thể tham gia hợp tác đối tác bình đẳng và cùng có lợi
trong thời gian dài hạn.
Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, phải là
hướng ưu tiên trong hợp tác quốc tế. Đại hội XII chủ trương chủ động, tích cực hợp
tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ một cách sâu rộng, hiệu quả. Đẩy
mạnh các chương trình hợp tác nghiên cứu, đào tạo nhân lực, hội nghị, hội thảo khoa
học, công bố quốc tế, chuyển giao công nghệ, tư vấn trao đổi chính sách phát triển
khoa học và công nghệ.
Câu 5) Vai trò của chính sách xã hội đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện
nay? Trong các chính sách xã hội cần thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề
cấp bách hiện nay, theo anh chị chính sách nào là chìa khóa then chốt? Vì sao?
Chính sách xã hội là chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội của đời sống
con người, bao hàm cả việc giải quyết các khía cạnh xã hội trong quá trình sản xuất,
trong hoạt động sản xuất-kinh doanh, trong lĩnh vực kinh tế. Đầu tư cho xã hội thông
qua các chính sách xã hội là đầu tư cho sự phát triển, trước hết là phát triển kinh tế, và
cùng với phát triển kinh tế là phát triển xã hội để phát triển con người. Từ nhận thức
đó càng thấy rõ chính sách xã hội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
hoạt động tổ chức, điều hành và quản lý xã hội, trong việc giải quyết các vấn đề bức
bách hiện nay.
Chính sách xã hội chỉ trở thành động lực của sự phát triển xã hội nếu đó là
những chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc công bằng, dân chủ và nhân
đạo.


Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cùng
với đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng từng bước đổi mới việc thực hiện chính sách xã
hội với chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Hơn
20 năm thực hiện đường lối đổi mới, những thành tựu về xã hội và con người là minh
chứng hùng hồn cho năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính sách xã hội.
Trước hết, trong giải quyết việc làm cho người lao động:

Việc làm là vấn đề mang tầm chiến lược quốc gia, đảm bảo cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Giải quyết việc làm là chính sách xã hội cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành, các
tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, của mỗi người lao động. Quan điểm giải quyết việc
làm của Đảng được thể chế hoá bằng pháp luật: “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động, đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”. Theo đó, Đảng và Chính phủ đã đề ra
nhiều chủ trương, chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội có tác động trực
tiếp đến việc tạo và giải quyết việc làm cho người lao động, coi giải quyết việc làm
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
Chính đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của
Đảng đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để người lao động có cơ hội tự tạo việc làm
và có việc làm, đáp ứng yêu cầu bức xúc về đời sống, góp phần ổn định tình hình kinh
tế - xã hội. Đổi mới tư duy trong lĩnh vực lao động và việc làm đã thay đổi căn bản tư
tưởng bao cấp và cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây. Từ chỗ Nhà nước bao cấp
toàn bộ trong giải quyết việc làm, đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế,
chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm.
Người lao động tích cực và chủ động tự tạo việc làm, không thụ động, trông chờ vào
sự sắp xếp việc làm của Nhà nước. Người sử dụng lao động được khuyến khích đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tạo việc làm thu hút lao động xã hội.
Thứ hai, trong lãnh đạo thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo
Đói nghèo là vấn đề kinh tế, xã hội sâu sắc, xoá đói, giảm nghèo là một trong
những vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài, là một chính sách quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và
Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt từ
năm 1986, khởi đầu công cuộc đổi mới, một mặt Đảng khuyến khích mọi người trong
các thành phần kinh tế làm giàu hợp pháp, mặt khác tích cực chỉ đạo thực hiện xoá
đói, giảm nghèo trong cả nước.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng chủ trương:
“Thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách

mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…”, xoá đói, giảm nghèo được xác định là một
trong 11 chương trình quốc gia.
Nhận thức về xoá đói, giảm nghèo cũng có những tiến bộ, từ chỗ không chấp
nhận có sự phân hoá giàu - nghèo đã đi đến chủ trương khuyến khích mọi người làm
giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về
trình độ phát triển, mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư, coi việc
một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển xã hội.
Thứ ba, trong lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công
Chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, mà còn thể hiện truyền thống và đạo lý của dân tộc


“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì vậy, từ trước tới nay, trong
bất luận hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước cũng luôn luôn xác định chính sách đối
với thương binh, liệt sĩ và người có công với Tổ quốc là một trong những chính sách
lớn có vị trí rất quan trọng trong chiến lược con người. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi
mới, Đảng và Nhà nước đã từng bước sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, chế độ ưu
đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Từ năm 2005, trước tình hình kinh tế - xã hội đất nước phát triển, đòi hỏi chính
sách ưu đãi người có công phải bám sát thực tiễn cuộc sống, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đã tham mưu trình Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bổ sung,
sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” được khởi nguồn từ năm 1947 đến nay, nhân
dân cả nước đã có nhiều hoạt động phong phú, thiết thực thể hiện đạo lý “uống nước
nhớ nguồn” của dân tộc và trở thành nét đẹp trong đời sống văn hoá của nhân dân ta.
Thứ tư, trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được Đảng chú trọng nên đạt kết quả tốt,
góp phần hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới
5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công
bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Mạng lưới y tế được mở rộng, đặc biệt là y tế

cơ sở. Việc phòng, chống HIV/AIDS được đẩy mạnh hơn. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị
suy dinh dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dưới 25% năm 2005… Tuổi thọ bình
quân của dân số nước ta từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 67,8 năm 2000, 71,5 tuổi năm
2005 và 72 tuổi năm 2007.
Thứ năm, trong thực hiện chính sách an sinh xã hội
Chính sách an sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản của
quốc gia hướng vào bảo vệ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã hội trong các
trường hợp rủi ro dẫn đến bị giảm hoặc bị mất thu nhập, hoặc phải tăng chi phí đột
xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là “rủi ro xã hội”.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm phát
triển hệ thống an sinh xã hội với những chính sách cụ thể nhằm phòng ngừa và khắc
phục rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác cho mọi người, không ngừng
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng (4-2006) đề ra chủ trương: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát
triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khoá X một lần
nữa nhấn mạnh: “từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là của
nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”.
Thực hiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với kinh tế thị trường, tạo cơ hội
cho mọi người tiếp cận các chính sách an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội (bao
gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp), giảm nghèo và hoà nhập xã hội nhóm yếu thế (trợ giúp xã hội )…, chính
là thực hiện công bằng xã hội, hướng vào phát triển con người, tạo động lực tăng
trưởng và phát triển bền vững, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư cho
chính sách an sinh xã hội cũng chính là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển.


Câu 6) Từ lý luận dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, anh (chị) hãy phân tích
những quan điểm của Đảng về công tác dân tộc? Chính sách dân tộc trong giai

đoạn hiện nay cần tập trung hướng đến giải quyết những vấn đề cốt lõi nào? Vì
sao?
Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số chiếm
14% dân số cả nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới),
cùng cư trú, tồn tại và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam, đã sớm hình thành các đặc
điểm cơ bản:
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam chung sống đoàn kết, hoà hợp
Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không
đồng đều, nhưng không có sự phân chia lãnh thổ và chế độ xã hội riêng
Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng,
phong phú, thống nhất
Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng
về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và bảo vệ bền vững môi
trường sinh thái.
Kinh tế ở miền núi, các dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình trạng du
canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn biến phức tạp.
Tỉ lệ hộ đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi cao hơn so với bình
quân chung cả nước, khoảng cách chênh lệch về mức sống, về trình độ phát triển kinh
tế - xã hội giữa các dân tộc, giữa các vùng ngày càng gia tăng; chất lượng, hiệu quả về
giáo dục đào tạo còn thấp, công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số
gặp nhiều khó khăn, một số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc thiểu số
đang bị mai một, một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển.
Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu,
tỉ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học thấp.
Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống, trình
độ dân trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, các ngành trong thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, phá
hoại truyền thống đoàn kết và thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, gây
mất ổn định chính trị, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân tộc

Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược. Đó là vấn đề cơ
bản, lâu dài, song cũng là vấn đề cấp bách.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp
nhau cùng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và củng cố an ninh quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắng tăng trưởng kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước
hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai
thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi
trường sinh


Phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời
tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của trung ương và các địa phương trong cả nước.
Quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống
các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam
thống nhất.
Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu và hoạt động chia rẽ dân tộc, lợi dụng
vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch, giữ gìn chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vùng dân tộc, biên giới, hải đảo.
Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ và trách nhiệm
của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các
ngành trong cả nước
Chính sách dân tộc
Lĩnh vực chính trị
Bảo đảm thực hiện đúng quyền bầu cử, ứng cử của công dân theo quy định của

Hiến pháp, pháp luật….được tham gia vào các cơ quan chính quyền, đảm bảo tỷ lệ
thích đáng người dân tộc trong các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa
phương. Đảm bảo khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm thực sự “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” những việc có quan hệ đến lợi ích thiết thân của nhân dân các
dân tộc ở cơ sở. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, không chỉ đảm bảo mà còn
phải tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện các quyền đó; đề phòng và khắc phục các vi
phạm quy chế dân chủ, sống xa dân, quan liêu, mệnh lệnh với dân.
Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, thu hút được
nhiều người tham gia các tổ chức đoàn thể, đảm bảo hoạt động thiết thực, đáp ứng lợi
ích thiết thân của thành viên, hội viên, đoàn viên; không để quần chúng bị lôi kéo theo
đạo trái phép và các việc làm sai trái khác.
Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, chú trọng công tác phát triển đảng, bảo đảm
thôn, bản nào cũng có đảng viên; xã nào cũng có chi bộ hoặc đảng bộ cơ sở nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong các dân tộc.
Làm tốt công tác cán bộ, đảm bảo dân tộc nào cũng có cán bộ là người của
mình
Lĩnh vực kinh tế
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sớm khắc phục tình trạng
kinh tế tự cấp, tự túc mang nặng tính tự nhiên kéo dài.
Phát triển nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
Làm tốt công tác định canh, định cư; phân bố lại dân cư hợp lý, xây dựng vùng
kinh tế mới; xóa đói giảm nghèo, trước hết đối với các xã nghèo
Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục
Tăng cường chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân các dân tộc
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
Chăm lo giải quyết một số vấn đề xã hội: phòng chống các tệ nạn xã hội…
Ngăn chặn tình trạng truyền đạo trái phép

Lĩnh vực an ninh, quốc phòng


Thường xuyên tuyên truyền và lãnh đạo nhân dân nhận rõ âm mưu thâm độc
của kẻ thù, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ra sức củng cố, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân.
Xây dựng địa phương vững mạnh, phối hợp chặt chẽ với bộ đội biên phòng và
các đơn vị vũ trang sống trên địa bàn thực hiện sẵm sàng chiến đấu và chiến thằng
trước bất kỳ tình huống nào xảy ra.
Phương châm và phương pháp (SGK vàng trang 239 chép hết)
Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Về dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng nước ta. Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân
tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là
vấn đề cấp bách hiện nay của công cuộc đổi mới đất nước. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, yêu thương, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lấy mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc
cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường
đồng thuận xã hội.
Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng ta
trong giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc. Các dân tộc có dân số dù ít hay
nhiều, ở trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá,

xã hội, an ninh - quốc phòng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tập hợp, đoàn kết mọi người vào một mặt trận
chung, tăng cường đối thoại xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Luôn tôn trọng lẫn nhau về lợi ích, truyền thống,
văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc; dân tộc có trình độ phát triển
cao phải có trách nhiệm giúp đỡ dân tộc có trình độ phát triển thấp, vùng kinh tế - xã
hội phát triển phải giúp đỡ vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhằm đảm bảo các
dân tộc có điều kiện phát triển toàn diện, tiến kịp trình độ phát triển chung của cả
nước. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc; tránh tư tưởng
kỳ thị dân tộc, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương và tương trợ của
dân tộc khác.
Trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách dân tộc,
đoàn kết dân tộc như sau:


Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các
dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên
giới. Giúp đồng bào các dân tộc khắc phục tình trạng thiếu đất sản xuất, nhà ở tạm bợ,
thiếu nước sinh hoạt, nâng cấp cơ sở hạ tầng, định canh, định cư, xây dựng khu kinh tế
mới ở khu vực biên giới, xoá nghèo nhanh và bền vững.
Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng
dân tộc thiểu số. Kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng, đẩy mạnh phát triển đảng viên; nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của bộ máy
chính quyền các cấp, vai trò tập hợp quần chúng của mặt trận và các đoàn thể. Kiên
quyết khắc phục tình trạng cán bộ quan liêu, xa dân; thực hiện tốt phương châm “gần

dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững
chắc ở vùng các dân tộc thiểu số, phát huy sức mạnh tại chỗ, sẵn sàng đập tan mọi âm
mưu và hành động lợi dụng dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch; tăng cường
công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra “điểm
nóng” trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ;
thực hiện tốt chủ trương xây dựng phát triển các khu kinh tế - quốc phòng ở khu vực
biên giới.
Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể đối
với các vùng, các dân tộc để động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự
cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân
trí, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xây dựng đời sống ở
khu dân cư, xây dựng bản làng văn hoá.
Câu 7) Vì sao tôn giáo còn tồn tại dưới chủ nghĩa xã hội? Để bảo đảm thực hiện
tốt chính sách tôn giáo, chúng ta cần tuân thủ những nguyên tắc nào?
Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong
chế độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng
tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích được.
Hiện nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công
nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới... đã
giúp con người có thêm những khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên.
Song, thế giới khách quan là vô cùng, vô tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức
của con người là một quá trình và có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại
khoa học chưa thể làm rõ. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất
nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi,
trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức
của con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu
vào trong tiềm thức của nhiều người dân.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã hội bảo
thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một trong những hình thái ý thức
xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng
khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến


mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
Cho nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín
ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế,
xã hội mà nó phản ánh.
Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm
còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến
đổi để thích nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo",
"sống phúc âm giữa lòng dân tộc"... Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích
cực xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho
người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với chủ nghĩa
nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ
nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân.
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô cùng phức
tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính
trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh,
bệnh tật, đói nghèo... cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn
giáo tồn tại.
Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ

quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích
khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội... vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con
người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã
làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.
Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở
một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý
thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát
huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết.
Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận
dân cư, và do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội như một hiện tượng xã hội khách quan.
Những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, giải
quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ và chuẩn
xác; vừa đòi hỏi giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt, đúng như
tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
là: không "tuyên chiến" với tôn giáo mà tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng của nhân dân.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa
trên những quan điểm sau:


Một là, chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội xã hội chủ nghĩa
và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và
con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới; là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội.
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công
dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực của
tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức; chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước.
Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân. Đó là sự thể hiện
bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan tâm của đảng cộng sản và
nhà nước của giai cấp vô sản đến nhu cầu tinh thần của quần chúng nhân dân đối với
tín ngưỡng tôn giáo.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo
một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết toàn dân tộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn
giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao mức sống, lối sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao
động có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể
hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ
nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt
chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải
nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ
thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới - giải quyết vấn đề này vừa phải khẩn
trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược đúng.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo: Ở những thời
kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội

không giống nhau. Quan điểm thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh
vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ
thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Nguyên tắc của chính sách đối với tôn giáo
Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo cũng như giữa các
tôn giáo khác nhau.
Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân.


Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ hiến pháp
và pháp luật, có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ
gìn độc lập chủ quyền quốc gia.
Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và phát huy.
Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo làm mất trật tự an toàn xã hội, phương
hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức lối sống, văn hóa
của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân đều bị
xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín dị đoan bị phê phán và loại bỏ.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tổ
chức xã hội và các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần
chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Câu hỏi thi:
Câu 1: Anh/chị hãy phân tích các giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam giai đoạn hiện nay?
Câu 2: Theo anh/chị, tại sao Việt Nam phải đẩy mạnh NCH-HĐH gắn với

phát triển kinh tế tri thức



×