Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá kết quả điều trị gãy mỏm răng C2 mất vững bằng phẫu thuật Harms

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.43 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY MẤU RĂNG C2 MẤT VỮNG  
BẰNG PHẪU THUẬT VIT KHỐI BÊN C1 VÀ CHÂN CUNG C2 
Phan Minh Đức*, Lê Trần Minh Sử*, Nguyễn Minh Tân* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nhiều phương pháp phẫu thuật điều trị gãy mấu răng C2 mất vững. Mỗi kỹ thuật đều có ưu và 
khuyết điểm riêng.Phẫu thuật bắt vit khối bên C1 và chân cung C2 có nhiều ưu điểm và là giải pháp thay thế 
thích hợp cho nhiều trường hợp.Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm rút ra một số kinh nghiệm điều trị bằng 
kỹ thuật này. 
Phương pháp: Hồi cứu tất cả bệnh nhân gãy mấu răng C2 đã được phẫu thuật bắt vít khối bên C1 và chân 
cung C2 tại BV Chợ rẫy, từ đầu năm 2010 đến tháng 06/2014. 
Kết quả: 96 bệnh nhân được phẫu thuật vít khối bên C1, chân cung C2 và hàn xương phía sau. Phần lớn là 
nam (87,5%). Tuổi trung bình 36,01. Nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông (58,33%) và té cao (30,2%). 
Lâm  sàng  đau  cổ  cao  chiếm  90,62%,  yếu  liệt  tứ  chi  34  trường  hợp  (35,41%),  47,91%  rối  lọan  cảm  giác  và 
11,45% rối loạn cơ vòng. Phân loại gãy theo D’Alonzo: type II 65 trường hợp (67,7%), type IIA 15,63%, type III 
16,67%. 88 bệnh nhân bắt vit C1và C2, 8 trường hợp bắt vit C1C2 và đốt sống cổ dưới. Hầu hết giảm đau cổ sau 
mổ (93.75%). Phục hồi vận động 85,41%. Không có trường hợp tử vong cũng như biến chứng trong và sau mổ. 
Kết luận: Kỹ thuật bắt vit khối bên C1 và chân cung C2 trong điều tri gãy mấu răng C2 mất vững là một 
chọn lựa thich hợp. Phẫu thuật cho kết quả tương đối cao và ít biến chứng. 
Từ khóa: gãy mấu răng C2, mất vững, khối bên C1, chân cung C2 

ABSTRACT 
RESULT OF SURGICAL TREATMENT OF INSTABILITY ODONTOID FRACTURE WITH ATLANTAL 
LATERAL MASS AND AXIS PEDICLE SCREW FIXATION 
Phan Minh Duc, Le Tran Minh Su, Nguyen Minh Tan  


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 52 – 58 
Objective:  A variety of surgical techniques may be used in the treatment of instability odontoid fractures. 
Each technique has some advantage and disadvantage.Atlantal lateral mass and axis pedicle screw fixationisan 
suitable alternative method. 
Methods. Retrospective study all the patients who were operatedatlantal lateral mass and axis pedicle screw 
fixation at Choray Hospital between the early of 2010 and June 2014. 
Results: Ninety six patients were surgey. Most patients is male (87.5%). Mean age is 36.01. The causes are 
trafic  acidents  (58.33%)  and  falling  (30.2%).  Clinical  presentations  include  high  neck  pain  (90.62%), 
quadriparesis  (35.41%),  sensory  dysfunction  (47.91%),  and  sphincter  dysfunction  (11.45%).  Fracture  types 
(D’Alonzo classification): type II 67.7%, type IIA 15.63%, type III 16.67%. 88 pts were of C1C2 fixations, 8 of 
C1C2  and  lower  cervical  veterbral  fixations.  Most  cases  had  neck  pain  release  post‐operation  (93.75%).  Post‐
operation motor recovery is 85.41%. There is no mortality, no complication during the sugery.  
Conclusion:  Atlantal  lateral  mass  and  axis  pedicle  screw  fixation  for  treatment  of  instability  odontoid 
fractures is suitable option. Technique has good outcome and rare complication. 
*: Khoa Ngoại Thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc:  BS. Phan Minh Đức      ĐT: 0913746822 

52

Email:  

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Keywords: odontoid fracture, instability, atlantal lateral mass, axis pedicle. 


ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gãy mấu răng C2 chiếm khoảng 10‐20% gãy 
cột sống cổ. Chỉ những gãy mấu răng C2 type II 
(Anderson  và  D’Alonso),  hoặc  kèm  trật  C1C2 
mất  vững  mới  có  chỉ  định  phẫu  thuật  hàn 
xương(1,5,22)  Có  nhiều  kỹ  thuật  áp  dụng  để  làm 
vững  C1C2  như  cột  chỉ  thép  mỏm  gai  C2  và 
cung  sau  C1  kèm  ghép  xương  mào  chậu  (kỹ 
thuật  của  Brooks  và  Gallie),  dụng  cụ  móc  giữa 
bản sau, hay kỹ thuật bắt vit xuyên khớp C1C2 
của  Magerl,  kỹ  thuật  xuyên  vít  mấu  răng  phía 
trước(5,8,10,18,29,30)....  Mặc  dù  kỹ  thuật  cột  chỉ  thép 
phía  sau  dễ  thưc  hiện,  nhưng  không  làm  vững 
chắc  C1C2  ngay,  tỉ  lệ  hàn  xương  thấp,  và  cấu 
trúc  sau  của  C1  và  C2  nguyên  vẹn.  Kỹ  thuật 
xuyên  vít  qua  khớp  C1C2  của  Magerl  cải  thiện 
được những khuyết điểm của phương pháp cột 
nhưng  là  một  kỹ  thuật  khó,  dễ  gây  tổn  thương 
động  mạch  đốt  sống  và  không  thể  thực  hiện 
trong  những  trường  hợp  trật  C1C2  nặng  hoặc 
bệnh  nhân  có  gù  cột  sống  cổ  ngực.  Phẫu  thuật 
xuyên vít mấu răng bảo tồn vân động C1 và C2 
nhưng khó thực hiện và chỉ áp dụng trong một 
số ít bệnh nhân(9,11,14) Kỹ thuật bắt vit đa trục khối 
bên C1 và C2 của Harms là một chọn lựa thích 
hợp  vì  hiếm  gây  tổn  thương  động  mạch  đốt 
sống và dễ nắn chỉnh, cố định C1C2 hơn(14)Trong 
nghiên cứu này chúng tôi đánh giá kết quả điều 
trị và rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình 

thực hiện kỹ thuật này. 

trục khối bên C1 và chân cung C2 tại bệnh viện 
Chợ  Rẫy  từ  đầu  năm  2010  đến  tháng  06  năm 
2014.  Dữ  liệu  được  phân  tích  bằng  phần  mềm 
SPSS 16.0. 
Kỹ  thuật  mổ:  Bệnh  nhân  được  mê  nội  khí 
quản.  Tư  thế  nằm  sấp,  đầu  cố  định  bằng 
khung  Sugita.  Rạch  da  đường  giữa  từ  dưới  ụ 
chẫm ngoài đến mỏm gai C5 hay C6. Bóc tách 
dưới  màng  xương  khối  cơ  cạnh  gai  sống  hai 
bên  đến  bờ  ngoài  khớp  C2C3.Bóc  tách  dưới 
màng  xương  cung  sau  C1  ra  hai  bên  để  tìm 
thấy động mạch đốt sống và rãnh của nó trên 
cung C1.Bộc lộ tiếp tục ra đến bờ ngoài C1C2 
để thấy được khối bên C1 và khớp C1C2 cũng 
như  bờ  trên  trong  chân  cung  C2.  Sau  khi  bảo 
vệ động mạch đốt sống và rễ C2, dùng khoan 
cao tốc khoan vào khối bên C1 theo hướng vào 
trong  10‐150  dưới  C‐arm.  Sau  đó  vít  đa  trục 
đường  kính  3,5mm,  độ  dài  từ  26‐34mm  được 
bắt vào khối bên C1. Điểm khoan vào C2 giữa 
1/3  trên  của  khối  khớp  C2,  hướng  vít  theo  bờ 
trên  trong  của  chân  cung  C2.  Đặt  Rod  nối 
C1C2.Nắn  trật  C1C2  dễ  dàng  trên  dụng  cụ 
trong  những  trường  hợp  có  trật  C1C2.  Phần 
ngoài  cung  sau  C1  và  C2  được  mài  vỏ  xương 
và ghép bằng xương gai sau C3 hay C4 (Hình 
1).  Một  số  trường  hợp  chúng  tôi  cắt  cung  sau 
C1 ở những bệnh nhân chèn ép tủy nặng. Cân 

cơ  được  khâu  vào  gai  C2.  Đóng  da  theo  lớp 
giải phẫu. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu hồi cứu 96 bệnh nhân gãy mấu 
răng  C2  mất  vững  được  phẫu  thuật  bắt  vit  đa 

Hình 1: Hình vẽ phẫu thuật và hình chụp trong lúc mổ. Nguồn: Mummaneri 2010 

Phẫu Thuật Cột Sống 

53


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Bảng 1: Biểu hiện lâm sàng 

KẾT QUẢ 
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 36,01, nhỏ 
nhất là 12 tuổi, lớn nhất 78 tuổi. (hình 2). 

Lâm sàng
Đau cổ cao
Yếu liệt tứ chi
Rối loạn cảm giác
Rối lọan cơ vòng


Số trường hợp
87
34
46
11

Tỉ lệ %
90,62
35,41
47,91
11,45

Hầu  hết  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  bằng 
chụp  Xquang  tư  thế  thẳng,  nghiêng  và  C2  há 
miệng.Tất cả bệnh nhân được chụp CT trước mổ 
để đánh giá khối bên C1 cũng như cấu trúc xung 
quanh  nhằm  đạt  nhiều  thông  tin  trước  mổ. 
Chúng tôi chụp MRI cho một số trường hợp lâm 
sàng có biểu hiện thương tổn tủy.  

 
Hình 2: biểu đồ phân bố theo tuổi 
Giới tính hầu hết là nam, chiếm 87,5% (hình 2). 
Nam

Nữ

Về  loại  gãy  theo  D’Alonzo:  65  trường  hợp 
gãy  type  II  đơn  thuần  chiếm  67,7%,  type  IIA 

chiếm 15,63%, type III 16,67% (Bảng 2). Gãy mấu 
răng  C2  kèm  trật  C1‐C2  chiếm  52,08%,  sáu 
trường hợp có vỡ thân C2. Có 3 trường hợp ghi 
nhận có gãy kèm chân cung C2 và 4 trường hợp 
kèm gãy bảng sau C1 phối hợp. 
Bảng 2: Phân loại gãy theo D’Alonzo 

12,5%
Số BN
%

87,5%

Hình 3: biểu đồ giới tính của gãy mấu răng C2  
Nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông 
và té cao (88,53%). 
Lâm sàng hầu hết bệnh nhân có đau cổ cao 
sau chấn thương chiếm 90,62% các trường hợp. 
35,41%  có  yếu  liệt  tứ  chi,  47,91%  có  bất  thường 
về  cảm  giác,  11,45%  có  rối  loạn  cơ  vòng.  Trong 
đó có 1 trường hợp liệt tứ chi và suy hô hấp sau 
chấn thương. (Bảng 1) 

54

Type I Type II Type IIA
65
0
15
67,2%

0
15,63

Type III
16
16,67

Tống công
96
100

Bắt vit khối bên C1 thành công trong tất cả 
96  bệnh  nhân.  Không  trường  hợp  nào  bị  tổn 
thương  động  mạch  đốt  sống  và  biến  chứng 
khác  trong  mổ.  88  bệnh  nhân  bắt vít  C1‐C2,  8 
bệnh  nhân  bắt  C1‐C2  kèm  đốt  sống  cổ  thấp. 
Việc  nắn  chỉnh  được  thực  hiện  dễ  dàng.10 
bệnh  nhân  cần  giải  ép  cung  sau  C1.  Tất  cả 
được  hàn  xương  sau  bên  bằng  xương  mào 
chậu,  gai  sống  sau,  hay  xương  khô.  Sau  mổ, 
hầu  hết  bệnh  nhân  giảm  đau  cổ  cao,  chiếm 
93,75%.  Phục  hồi  vận  động  sau  mổ  85,41%. 
Một bệnh nhân liệt tứ chi Frankel B và suy hô 
hấp  trước  mổ,  sau  mổ  một  năm  BN  có  thể  đi 
lại, Frankel D. Đến nay, chưa gặp trường hợp 
nào gãy vít hay tuột vít cần mổ lại. 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

Hình 3: Hình minh họa phẫu thuật gãy mấu răng C2 A. trước và trong mổ B. sau mổ 

C. sau một năm 

Nguồn: tác giả 

BÀN LUẬN 
Có  nhiều  phương  pháp  điều  trị  phẫu  thuật 
gãy mấu răng C2. Tuy nhiên, có thể chia ra hai 
loại chính đó là phẫu thuật lối trước hay lối sau. 
Mỗi phẫu thuật đều có ưu và khuyết điểm nhất 
định(4,13,22) 
Phẫu thuật xuyên vít mấu răng lối trước đầu 
tiên  được  báo  cáo  bởi  Bohler.  Kỹ  thuật  này  cố 
định trực tiếp đường gãy, làm vững cột sống cổ 
ngay,  bảo  tồn  vận  động  xoay  C1C2,  cho  phép 
bảo tồn chức năng và giải phẫu tốt nhất cho mấu 
răng. Tỉ lệ hàn xương khoảng 90%. Apfelbaun và 
đồng nghiệp nhận thấy rằng, trong những bệnh 
nhân  gãy  cũ,  trên  6  tháng,  mô  sẹo  phát  triển, 
xuyên  vít  tương  đối  khó,  hàn  xương  kém.  Nói 
chung,  chỉ  định  xuyên  vít  mấu  răng  phía  trước 
còn hạn hẹp, khó thực hiện khi gãy mấu răng và 
trật khớp C1C2 nhiều(22,30). 

Phẫu  thuật  làm  cứng  C1C2  và  hàn  xương 
phía sau cũng có nhiều kỹ thuật. Gallie, Brooks, 
Sonntag  cột  chỉ  và  hàn  xương  C1C2,  Magerl 
xuyên vít qua khớp C1C2, Goel và Harms bắt vít 
khối bên C1 và chân cung C2. Mỗi kỹ thuật cho 
kết quả nhất định(2,5,7,22,24). 
Theo hướng dẫn điều trị trước đây, 177 bệnh 
nhân gãy mấu răng C2 được mổ làm cứng C1C2 

Phẫu Thuật Cột Sống 

và  hàn  xương  lối  sau.  Tỉ  lệ  hàn  xương  sau  mổ 
như sau: type I 100% (1/1), type II 87% (128/147), 
và type III 100% (29/29). Maiman và Larson báo 
cáo  tỉ  lệ  hàn  xương  ở  vị  trí  gãy  chỉ  35%  nhưng 
hàn xương ở phía sau lên đến 100%. Tuy nhiên, 
hầu  hết  các  báo  cáo  là  phẫu  thuật  cột  chỉ  kèm 
hàn  xương  phía  sau,  và  tất  cả  bệnh  nhân  bất 
động ngoài bằng Halo‐Vest(22). 
Đối với phẫu thuật xuyên vít qua khớp C1C2 
phía sau của Magerl, tỉ lệ hàn xương tương đối 
cao hơn, khoảng 90% (78% ‐ 99%). Tuy nhiên, tỉ 
lệ  tổn  thương  động  mạch  cột  sống  cao  (3,7%  ‐ 
8,2%).  Ngoài  ra,  phương  pháp  khó  thực  hiện  ở 
bệnh nhân gù ngực lưng nặng(7,19,20,28). 
Với phẫu thuật vít khối bên C1 và chân cung 
C2 của Goel và Harms có nhiều cải tiến đáng kể. 
Tác giả Goel báo cáo 30 trường hợp năm 1994 và 
160 bệnh nhân năm 2002 được phẫu thuật bằng 
nẹp  vít  khối  bên  C1  và  chân  cung  C2,  kết  quả 

không  bệnh  nhân  nào  tuột  vít,  chỉ  một  bệnh 
nhân gãy vít 18 tháng sau nhưng đã hàn xương. 
Tỉ lệ hàn xương là 100% và không có biến chứng 
thần kinh, mạch máu(11,12). 
Năm  2001,  Harms  và  Melcher  báo  cáo 
dùng nẹp và vít đa trục bắt vào khối bên C1 và 
chân  cung C2  cho  37  bệnh nhân.  Kết  quả  tỉ  lệ 

55


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
hàn xương 100% và không có biến chứng thần 
kinh, mạch máu. Với vít đa trục, việc bắt vít và 
đặt nẹp tương đối dễ dàng hơn, việc nắn chỉnh 
thuận  lợi  hơn  trong  những  trường  hợp  trật 
C1C2 nặng(14). 
Tác giả Fiore và đồng nghiệp báo cáo 8 bệnh 
nhân  được  mổ  bằng  nẹp  vít  khối  bên  C1  vào 
năm 2002, tất cả đều thuận lợi về mặt kỹ thuật, 
không có biến chứng trong mổ. Tỉ lệ vững chắc 
sau  mổ  trong  tất  cả  bệnh  nhân(9).  Năm  2008  tác 
giả  Thổ  Nhĩ  Kỳ,  Calisaneller  báo  cáo  4  bệnh 
nhân  được  phẫu  thuật  nẹp  vít  khối  bên  C1  và 
chân  cung  C2  cho  kết  quả  tốt  và  không  biến 
chứng(6).  Năm  2010,  hồi  cứu  42  trường  hợp  bắt 

vít  khối  bên  C1,  Mumaneni  và  đồng  nghiệp  đã 
báo cáo kết quả hàn xương cao, đau cổ giảm và 
chức năng thần kinh cải thiện(19). Aryan và đồng 
nghiệp  báo  cáo  102  bệnh  nhân  được  điều  trị 
bằng nẹp vít đa trục khối bên C1 và chân cung 
C2 năm 2008, trong đó có 48 bệnh nhân gãy mấu 
răng type II. Kết quả 100 trường hợp có tỉ lệ hàn 
xương chiếm 98%(3). 
Về cơ sinh học: Richer và đồng nghiệp đã so 
sánh  sáu  kỹ  thuật  phẫu  thuật  cố  định  và  hàn 
xương  C1C2  khác  nhau.  Bao  gồm  cột  chỉ  theo 
phương pháp Gallie, vít xuyên khớp C1C2 đơn 
thuần hay cột chỉ hoặc móc C1 phối hợp, nẹp vít 
chân  cung  C2  và  móc  với  bản  sau  C1,  nẹp  vít 
khối bên C1 và chân cung C2. Tác giả xác nhận 
rằng  cố  định  ba  điểm  trên  phức  hợp  C1C2  là 
vững chắc nhất.Kỹ thuật xuyên khớp C1C2 phối 
hợp với móc C1 là vững chắc nhất. Trong những 
kỹ thuật không ảnh hưởng đến khớp C1C2, nẹp 
vít  khối  bên  C1  và  chân  cung  C2  tạo  độ  vững 
chắc nhất(21). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tất  cả 
trường hợp bắt vít khối bên C1 đều thuận lợi. 
Chúng tôi nhận thấy việc bóc tách rộng rãi, xác 
định  khối  bên  rõ  ràng  giúp  rất  nhiều  trong 
việc khoan và bắt vít khối bên C1. Tuy nhiên, 
trong những trường hợp trật C1C2 nhiều kèm 
thoái  hóa  cột  sống  cổ  nặng,  việc  dò  tìm  khối 
bên  tương  đối  khó  khăn  hơn.Quá  trình  phẫu 


56

thuật, chúng tôi đều mài vỏ xương hai bên C1 
và  C2  sau  đó  ghép  xương.  Trong  nghiên  cứu 
tiền  cứu  52  bệnh  nhân  bắt  vít  khối  bên  C1  và 
chân cung C2 của chúng tôi vào năm 2012, tỉ lệ 
hàn  xương  96,2%  và  C1C2  vững  chắc  trên  X 
quang  cúi  ngửa  là  100%  sau  một  năm.  Ở 
nghiên  cứu  này,  một  số  bệnh  nhân  còn  trong 
giai đoạn theo dõi, chúng tôi chưa thể đánh giá 
mức độ hàn xương chính xác. 
Về điểm bắt vít khối bên C1: Goel và Harms 
bắt  trực  tiếp  vào  khối  bên  sau  khi  vén  rễ  C2 
xuống dưới. Điểm này nằm phía dưới cung sau 
C1(11,12,14). Tan và đồng nghiệp đã áp dụng vít vào 
khối bên trực tiếp trên cung sau C1 cho kết quả 
tốt(27). Trong nghiên cứu chúng tôi, 192 khối bên 
được bắt trực tiếp trên cung sau C1 như tác giả 
Tan. Chúng tôi nhận thấy thuận lợi trong điểm 
bắt  vít  này  là:  (1)  Không  cần  vén  rễ  C2  xuống 
dưới  nhiều,  (2)  Phần  vít  trong  xương  dài  gồm 
khối bên và một phần cung sau C1 giúp vít chắc, 
(3) Trong trường hợp trật C1C2 nặng, cung sau 
C1và  C2  sát  vào  nhau,  điểm  bắt  vào  cung  sau 
thuận lợi hơn, (4) Khoan và hàn xương dễ hơn, 
(5)  Trong  trường  hợp  trật  C1  ra  trước,  bắt  vít 
trên cung sau C1 làm 2 đầu vít cách xa, thuận lợi 
cho nắn  trật  bằng  cách  ép  C1C2  vào nhau.  Tuy 
nhiên, điểm bắt vít ngay trên cung sau gần rãnh 
động mạch cột sống dể gây tổn thương. Chúng 

tôi  dùng  khoan  cao  tốc  khoan  vỏ  xương  tạo  lỗ 
mồi  để  tránh  tổn  thương  động  mạch  do  trượt 
dụng cụ, đồng thời khi khoan và bắt vít, chúng 
tôi che chắn kĩ động mạch cột sống ở phía trên. 
Hầu hết trường hợp gãy mấu răng mới kèm 
trật C1C2 được nắn chỉnh dễ dàng trong lúc mổ 
và phục hồi độ rộng của ống sống bình thường. 
Cắt  cung  sau  C1  là  không  cần  thiết.  Chúng  tôi 
chỉ cắt cung sau C1 cho những trường hợp gãy 
mấu răng cũ kèm trật C1C2 nặng, tiên lượng khó 
nắn  chỉnh  về  bình  thường  sau  mổ(17).  Cung  sau 
C1 được cắt trước khi khoan bắt vít vào khối bên 
nhằm tránh tình trạng tổn thương tủy thêm.  
Vấn  đề  hàn  xương:  hầu  hết  tác  giả  hàn 
xương  sau  bên  C1C2.  Goel  dùng  xương  mào 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
chậu  và  bột  xương  khô  từ  ngân  hàng  mô(11,12). 
Harms  và  Melcher  dùng  xương  đồng  loại(14). 
Aryan  cải  tiến  kỹ  thuật  hàn  xương  của  Harms 
bằng cách banh rộng khớp C1C2 và ghép xương 
đồng loại trực tiếp vào khoảng này(3). Với chúng 
tôi, hầu hết trường hợp đều lấy xương từ gai sau 

của đốt sống dưới C2, chỉ một số ít trường hợp 
lấy  xương  từ  mào  chậu  sau.  Gần  đây,  do  có 
nhiều  sản  phẩm  xương  đồng  loại,  chúng  tôi  có 
dùng  phối  hợp  giữa  xương  gai  sống  cổ  sau  và 
xương đồng loại. Việc lấy xương gai sống cổ sau 
dễ thực hiện, có thể lấy nhiều gai xương sống cổ 
dưới C2 và tránh được những biến chứng do lấy 
xương mào chậu. 
Tổn thương động mạch cột sống: hiếm gặp 
trong phẫu thuật này. Goel không gặp trường 
hợp nào tổn thương động mạch cột sống trong 
160  bệnh  nhân  phẫu  thuật(11).  Harms  và 
Melcher  cũng  không  tổn  thương  động  mạch 
cột  sống  trong  37  bệnh  nhân(14).  Aryan  cũng 
không  gặp  trường  hợp  nào  trong  102  bệnh 
nhân(3).  Chúng  tôi  cũng  không  có  trường  hợp 
nào có tổn thương động mạch cột sống. Đây là 
ưu  điểm  của  phẫu  thuật  so  với  phẫu  thuật 
xuyên khớp C1‐C2 của Magerl(28). 
Tổn  thương  thần  kinh:  trong  nghiên  cứu, 
chúng tôi không gặp trường hợp nào tổn thương 
thần kinh nặng hơn. Điều này tương tự như các 
tác giả Goel, Harms và Aryan.Trong nghiên cứu 
của Goel và Aryan, tất cả rễ C2 đều cắt bỏ trong 
quá trình phẫu thuật nhằm tạo khoảng trống đặt 
vít khối bên C1 và hàn xương. Tuy nhiên, nguy 
cơ  tổn  thương  rễ  C2  chưa  được  báo  cáo  rõ 
ràng(3,11,14). Tất cả trường hợp chúng tôi bảo tồn rễ 
C2, một BN có tăng cảm giác đau sau gáy, triệu 
chứng này bớt hẳn khi xuất viện. 

Vít  sai  vị  trí:  trong  nghiên  cứu,  chúng  tôi 
phát  hiện  một  trường  hợp  một  vít  khối  bên  đi 
vào trong trên X quang há miệng. Sau đó chúng 
tôi xác định lại bằng CT. Tuy nhiên, bệnh nhân 
này không có triệu chứng lâm sàng và sau một 
năm theo dõi vẫn hàn xương tốt. Trong nghiên 
cứu đánh giá độ chính xác của 390 vít khối bên 

Phẫu Thuật Cột Sống 

C1  của  Hu  năm  2013,  chỉ  có  10  vít  (2,8%)  là 
không thể chấp nhận được trên CT. Tuy nhiên, 
các  bệnh  nhân  này  đều  không  có  tổn  thương 
thần  kinh  và  động  mạch  cột  sống.  Nghiên  cứu 
của chúng tôi không chụp CT sau mổ cho tất cả 
bệnh nhân. Vì  vậy,  tỉ  lệ vít  sai  vị  trí chưa đánh 
giá chính xác(16). Cũng như nhận xét của tác giả 
Hu,  sự  chính  xác  của  vít  khối  bên  C1  gia  tăng 
theo kinh nghiệm phẫu thuật viên. 

KẾT LUẬN 
Qua  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  rút  ra  được 
các ưu điểm chính của kỹ thuật: (1) cố định vững 
chắc C1C2 cả cúi ngữa và xoay, (2) nguy cơ tổn 
thương  động  mạch  đốt  sống  và  tủy  sống  thấp, 
(3)  không  cần  sự  nguyên  vẹn  của  cấu  trúc  sau 
C1C2, (4) không cần mang Halo‐vest vì cố định 
C1C2 vững chắc ngay sau mổ, (5) giúp nắn trật 
C1C2  dễ  dàng,  (6)  có  thể  kèm  giải  ép  cung  sau 
C1, (7) tỉ lệ hàn xương cao. 

Phẫu thuật bắt vis khối bên C1 và chân cung 
C2  là  một  chọn  lựa  thích  hợp  cho  điều  trị  gãy 
mấu răng C2 mất vững. Kỹ thuật này mang lại 
nhiều ưu điểm cải thiện các khó khăn của các kỹ 
thuật  khác.Kỹ  thuật  cũng  để  lại  ít  biến  chứng 
cho bệnh nhân. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Anderson  LD,  D’Alonzo  RT  (1974),  “Fractures  of  the 
Odontoid Process of the Axis”, The Journal Of Bone And Joint 
Surgery, Vol. 56‐A, No.8, pp. 1663‐1673. 

2.

Arnold  PM,  Haynes  NG,  Kelley  BC  (2011),  “Evaluation  and 
Treatment of Odontoid and Hangman’s Fractures”, Youmans 
neurosurgical surgery, Saunders Elsevier, 6thEdition, Volume 
III, pp 3192‐3200. 

3.

Aryan HE, Newman CB, Nottmeier EW, Acosta FL Jr, Wang 
VY,  Ames  CP  (2008),  “Stabilization  of  the  atlantoaxial 
complex via C‐1 lateral mass and C‐2 pedicle screw fixation in 
a multicenter clinical experience in 102 patients: modification 
of the Harms and Goel techniques”, J Neurosurg Spine 8: pp 
222‐229. 


4.

Boakye  M,  Mummaneni  PV,  Rodts  GE,  Haid  RW  (2006), 
“Treatment of Odontoid Fractures”, Operative Neurosurgical 
Techniques:  Indication,  Method  and  Result  (Schmidek  and 
Sweet), Saunders, 5thed, pp. 1729‐1735. 

5.

Brooks  AL,  Jenkins  EB  (1978),  “Atlanto‐axial  arthrodesis  by 
the  wedge  compression  method”,  J  Bone  Joint  Surg  Am  60, 
pp. 279‐284. 

6.

Calisaneller  T,  Yilmaz  C,  Ozdemir  O,  Caner  H  (2008), 
“Posterior  atlantal  lateral  mass  fixation  technique  with 

57


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
polyaxial  screw  and  rod  fixation  system”,  Turkish 
Neurosurgery, Vol. 18, No. 2, pp. 142‐148. 

20.


Pryputniewicz  DM,  Hadley  MN  (2010),  “Axis  Fractures”, 
Neurosurgery 66: A68‐A82. 

7.

Dickman  CA,  Sonntag  VK,  Papadopoulos  SM,  Hadley  MN 
(1991),  “The  interspinous  method  of  posterior  atlantoaxial 
arthrodesis”, J Neurosurg 77, pp. 190‐180. 

21.

8.

FesslerRG,  Sekhar  L  (2006),  “Posterior  Atlantoaxial  Fusion: 
Surgical  Anatomy  and  Technique  Options”,  Atlas  of 
Neurosurgical Techniques, pp.128‐139. 

Richter  M,  Schmidt  R,  Claes  L,  Puhl  W,  Wilke  HJ  (2002), 
“Posterior  atlantoaxial  fixation:  biomechanical  in  vitro 
comparison  of  six  different  techniques”,  Spine  27:  pp.  1724‐
1732. 

22.

Ryken TC, Hadley MN, Aarabi B, Dhall SS, Gelb DE, Hurlbert 
RJ,  Rozzelle  CJ,  Theodore  N,  Walters  BC  (2013). 
“Management  of  Isolated  Fractures  of  the  Axis  in  Adults”. 
Neurosurgery 72: pp. 132–150. 


23.

Schiess  RJ,  Desaussure  RL,  Robertson  JT  (1982),  “Choice  of 
treatment of odontoid fractures”, J Neurosurg 57, pp. 496‐499. 

24.

Shilpakar S, McLaughlin MR, Haid RW, Rodts GE, Subach BR 
(2000),  “Management  of  acute  odontoid  fractures:  operative 
techniques  and  complication  avoidance”,  Neurosug  Focus  8 
(6): Article 3. 

9.

Fiore AJ, Haid RW, Rodts GE, Subach BR, Mummaneni PV, 
Riedel  CJ,  Birch  BD  (2002),  “Atlantal  lateral  mass  screws  for 
posterior  spinal  reconstruction”,  Neurosurg  Focus  12  (1): 
Article 5, pp. 1‐6. 

10.

Gallie  WE  (1939),  “Fractures  and  Dislocations  of  cervical 
spine”, Am J Surg 46, pp. 495‐499. 

11.

Goel  A,  Desai  KI,  Muzumdar  DP  (2002),  “Atlantoaxial 
Fixation  Using  Plate  And  Screw  Method:  A  Report  Of  160 
Treated Patients”, Neurosurgery 51: pp. 1351‐1357. 


25.

12.

Goel  A,  Laheri  V  (1994),  “Plate  and  Screw  Fixation  for 
Atlanto‐Axial  Subluxation”,  Acta  Neurochir  (Wein)  129,  pp. 
47‐53. 

Six E, Kelly DL (1981), “Technique for C1, C2, and C3 Fixation 
in Cases of Odontoid Fracture”, Neurosurgery, Vol. 8, No 3, 
pp. 374 – 377. 

26.

Southwick  WO  (1980),  “Current  Concepts  Review: 
Management  of  Fractures  of  the  Dens  (Odontoid  Process)”, 
The Journal of Bone and Joint Surgery, pp. 482‐486. 

13.

GreenbergMS  (2010),  “Surgicalfusion  of  the  cervical  spine”, 
Handbook of Neurosurgery, Thieme, 7thed, pp. 179‐190. 

14.

Harms  J  and  Melcher  RP  (2001),  “Posterior  C1‐C2  Fusion 
With  Polyaxial  Screw and  Rod  Fixation”,  Spine,  Vol.  26,  pp. 
2467‐2471. 

27.


Tan M, Wang H, Wang Y, Zhang G, Yi P, Li Z, Wei H, Yang F 
(2003), “Morphometric Evaluation of Screw Fixation in Atlas 
via Posterior Arch and Lateral Mass”, Spine 28,pp: 888‐895. 

15.

Hsu WK, Anderson PA (2010), “Odontoid Fractures: Update 
on Management”, J Am Acad Orthop Surg 18:pp. 383‐394 

28.

16.

Hu  Y,  Kepler  CK,  Albert  TJ,  Yuan  Z,  Ma  W,  Gu  Y,  Xu  R 
(2013),  “Accuracy  and  complications  associated  with  the 
freehand  C1  lateral  mass  screw  fixation  technique:  a 
radiographic and clinical assessment”, J Neurosurg Spine 18: 
pp. 371‐377. 

Wright  NM,  Lauryssen  C  (1998),  “Vertebral  artery  injury  in 
C1–2  transarticular  screw  fixation:  results  of  a  survey  of  the 
AANS/CNS Section on Disorders of the Spine and Peripheral 
Nerves”, J Neurosurg 88: pp. 634–640 

29.

Yanni  DS,  Perin  NI  (2010),  “Fixation  of  the  Axis”, 
Neurosurgery 66: A147‐A152. 


30.

Yoon  SM,  Baek  JW,  Kim  DH  (2012),  “Posterior  Atalntoaxial 
Fusion  with  C1  Lateral  Mass  Screw  and  C2  Pedicle  Screw 
Supplementedwith  Miniplate  Fixation  for  Interlaminar 
Fusion:  A  Preliminary  Report”,  J  Korean  Neurosurg  Soc  52: 
pp.120‐125. 

17.

Kirankumar MV, Behari S, Salunke P, Banerji D, Chhabra DK, 
Jain  VK  (2005),  “Surgical  management  of  remote,  isolated 
type  II  odontoid  fractures  with  atlantoaxial  dislocation 
causing cervical compressive myelopathy”, Neurosurgery 56: 
pp. 1004‐1012. 

18.

Menendez  JA,  Wright  NM  (2007),  “Techniques  Of  Posterior 
C1–C2 Stabilization”, Neurosurgery 60 (Suppl 1): S‐103–S‐111. 

19.

Mummaneni PV, Lu DC, Dhall SS, Mummaneni VP, Chou D 
(2010),  “C1  Lateral  Mass  Fixation:  A  Comparison  of 
Constructs”. Neurosurgery 66, A153‐A160. 

 

Ngày nhận bài báo:  


 

 

20/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 

2/11/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

05/12/2014 

 

 

 

 

58

 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 




×