Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

chuyên đề: LUYỆN ĐỀ VỀ BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.3 KB, 51 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ………
TRƯỜNG ……………………
***********

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
BỒI DƯỠNG ÔN THI THPT QUỐC GIA
Tên chuyên đề:

LUYỆN ĐỀ VỀ BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA
QUANG DŨNG

NGƯỜI THỰC HIỆN : …………..
ĐƠN VỊ
: ………………….
ĐỐI TƯỢNG : HỌC SINH LỚP 12
SỐ TIẾT
: 12 TIẾT

NĂM …………………
1


A. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU: Giúp học sinh

1. Nội dung
- Củng cố, nắm chắc kiến thức cơ bản về tác giả Quang Dũng.
- Nắm chắc và phân tích được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ trên cái nhìn
nhiều chiều, so sánh với những tác phẩm khác trong chương trình.
2. Kĩ năng
Ôn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề:
- Đọc hiểu kiến thức về bài thơ.


- Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm.
- Phân tích, bình giảng, cảm thụ một đoạn thơ.
- Phân tích một khía cạnh nội dung của một bài thơ.
- Phân tích một khía cạnh nghệ thuật của một bài thơ.
- Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ.
- Kiểu bài so sánh.
3. Phương pháp
- Giáo viên thuyết trình.
- Học sinh làm đề cương theo các đề cụ thể.
- Tổ chức ôn luyện.
B. CÁC DẠNG ĐỀ LUYỆN TẬP

PHẦN I. DẠNG ĐỀ TÁI HIỆN
Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (1921-1988). Quê ở làng Phượng Trì, huyện
Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ
ca hiện đại Việt Nam. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh,
soạn nhạc. Ông là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, hồn thơ
Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, tha thiết với quê hương,
đất nước mình. Thơ ông có cái tôi hào hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn, nhạy cảm
với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người.
- Tây Tiến là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của đời thơ người con xứ Đoài
mây trắng lắm. Bài thơ ra đời từ những cảm nghĩ, kỉ niệm xúc động của Quang Dũng
về vùng đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian xa cách. Tác
phẩm là bức họa bằng ngôn từ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống miền Tây hùng vĩ,
dữ dội mà mĩ lệ, nên thơ cùng hình ảnh bi tráng về người lính Tây Tiến.
* Hoàn cảnh sáng tác bài thơ
Bài thơ được khơi nguồn cảm xúc từ đoàn quân Tây Tiến:
- Tây Tiến là một đơn vị chủ lực được thành lập đầu năm 1947.

- Nhiệm vụ: vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao
lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở biên giới Tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến: khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La,
Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). => miền núi hiểm
trở
2


- Thành phần: chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều
học sinh, sinh viên (như Quang Dũng).
- Hoàn cảnh sống và nghị lực: Chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô
cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc
quan và chiến đấu vô cùng dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập
trung đoàn 52. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đó, từ đầu năm 1947 đến cuối năm
1948 rồi chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này ở Phù
Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây
Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến in trong tập Mây đầu ô (1986).
=> Như vậy, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ đã cho người đọc thấy Tây Tiến được viết
bằng dòng hoài niệm. Qua nỗi nhớ, Quang Dũng đã khắc họa được bức tranh thiên
nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng, huyền ảo cùng với bức tượng đài của
người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa, bi tráng.
Câu 2: Nêu ngắn gọn giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến (Quang
Dũng)
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm (Tham khảo câu 1)
* Giá trị nội dung
Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi
rừng miền Tây Bắc. Bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiện ra hùng vĩ, dữ dội
nhưng vô cùng mĩ lệ, trữ tình. Hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân gian
khổ, hi sinh mà vẫn ngang tàng, tâm hồn vẫn trẻ trung, lãng mạn trong cảm nhận về

thiên nhiên, về những đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ, lung linh mang màu sắc xứ lạ,
những mộng mơ của tuổi trẻ. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ mang vẻ
đẹp đặc trưng của hồn thơ Quang Dũng về một thời kì gian khổ mà hào hùng: Người
lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.
* Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ được viết bằng cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng: bức tranh thiên
nhiên miền Tây hiện ra vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, hình ảnh con người nơi đây tài
hoa, người lính Tây Tiến mặc dù bệnh tật, thiếu thốn thậm chí phải đối diện với cái
chết nhưng họ hiện ra bi mà không lụy sẵn sàng xả thân hi sinh cho Tổ quốc.
- Bút pháp tạo hình đa dạng khi miêu tả thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến:
tả cận cảnh, miêu tả viễn cảnh, sử dụng trí tưởng tượng bay bổng, táo bạo để tạo ra
những hình ảnh thơ ngộ nghĩnh: Súng ngửi trời, không mọc tóc... Kết hợp với hình
ảnh tương phản => Hình ảnh thơ vì thế vừa gân guốc, khỏe khoắn lại vừa mềm mại,
thơ mộng, tâm hồn nhà thơ hết sức nhạy cảm, tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người.
- Ngôn ngữ thơ: kết hợp giữa những từ Hán - Việt mang sắc thái trang trọng, thiêng
liêng, cổ kính cùng với những từ thuần Việt mang hơi thở dân dã đời thường, trẻ
trung của những người lính. Ngoài ra, tác giả còn tạo ra những từ mới lạ, nghĩa mới
cho từ ngữ như: Đêm hơi, hoa về, mùa em...
- Sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các thanh điệu bằng - trắc:
+ Thác gầm thét hiệp âm đầu và thanh trắc, Hịch...cọp hiệp thanh trắc vừa gợi tả
tiếng vọng, âm thanh hung hãn, dữ tợn của thác lại gợi thật tài tình bước chân rình
rập đâu đây của thú dữ.
3


+ Dốc lên...
... mưa xa khơi
Cách phối hợp hệ thống thanh bằng - trắc đem lại hiệu quả nghệ thuật thú vị. Ba câu
thơ đầu đan dày những tiếng mang thanh trắc (13/21), dòng cuối bỗng xuất hiện một

chuỗi thanh bằng (7/7).
- Thể thơ và giọng điệu: thể thơ thất ngôn trường thiên vừa mang âm hưởng cổ kính,
trang nghiêm vừa tự do phóng khoáng chuyển tải được vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng của
người lính. Giọng điệu thơ phù hợp với cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ được
diễn tả dưới nhiều cung bậc cảm xúc (đoạn 1 thiết tha, bồi hồi; đoạn 2 hồn nhiên, tươi
vui; đoạn 3: trang trọng rồi lắng xuống bi tráng; đoạn 4 đầy chiêm nghiệm suy tư
mang tính triết lí).
- Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, đảo ngữ, điệp
từ...mang giá trị biểu cảm cao.
Câu 3: Lúc đâu bài thơ có nhan đề là Nhớ Tây Tiến, sau đó nhà thơ Quang Dũng
đổi thành Tây Tiến. Lí giải vì sao nhà thơ lại thay đổi như vậy? Nêu ý nghĩa
nhan đề của bài thơ Tây Tiến.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm (Tham khảo câu 1)
* Lí giải sự thay đổi nhan đề của tác giả
Nhan đề bài thơ nói riêng, tác phẩm văn học nói chung thường bao hàm nội dung
cảm hứng mà nó muốn chuyển tải. Nhan đề, khi cần, có thể được tác giả chỉnh sửa
cho sát với ý đồ nghệ thuật của mình. Trường hợp nhan đề bài thơ Tây Tiến của nhà
thơ Quang Dũng là một trường hợp như thế.
- Lúc đầu Quang Dũng đặt tên bài thơ là Nhớ Tây Tiến là bởi cả bài thơ là một nỗi
nhớ dài, trải theo những cung đường dãi dầu mà mĩ lệ nơi đoàn quân Tây Tiến đã đi
qua và để lại bao kỉ niệm đẹp nhất của mình. Nỗi nhớ gợi thành hình, gọi thành tên
ngay từ những câu đầu tiên. Nỗi nhớ hiển hiện cả khi chia phôi: Đường lên thăm
thẳm một chia phôi. Vì vậy, nhan đề của bài thơ đã gói trọn những cảm xúc ấy.
- Về sau, Quang Dũng đổi tên bài thơ thành Tây Tiến với nhiều ý nghĩa hàm súc, ý tứ
sâu xa.
* Ý nghĩa nhan đề Tây Tiến
- Nếu đặt nhan đề là Nhớ Tây Tiến bài thơ sẽ mang một vẻ đẹp giản dị và nói được
cảm xúc chủ đạo của của thi phẩm là nỗi nhớ nhưng lại không làm nổi bật được hình
tượng trung tâm của bài thơ. Vì vậy, nhà thơ chọn là Tây Tiến đã đem đến cho người
đọc cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng người lính và miền Tây Bắc của Tổ quốc.

- Mặt khác, bản thân hai chữ Tây Tiến đã bao hàm trong đó nỗi nhớ rồi, Quang Dũng
bỏ đi chữ nhớ khiến nhan đề bài thơ hàm ẩn hơn, cô đọng hơn. Nỗi nhớ lặn xuống
tầng sâu trong tâm hồn để chỉ còn hiển hiện một mối quan tâm, một ánh mắt đau đáu
hướng đến một Tây Tiến của lòng mình. Không nói nhớ mà vẫn da diết nhớ, thậm chí
nỗi nhớ còn rất cụ thể khi chỉ nhắc đến hai chữ Tây Tiến là bao nhiêu kỉ niệm lại ùa
về không chỉ gợi nhớ chân dung người lính vừa hào hoa, lẫm liệt, vừa bi tráng mà
còn gợi nhớ một thời chiến đấu gian khổ nhưng giàu chất thơ của một quân đoàn đã
đi vào huyền thoại, gợi một vùng đất mà người Tây Tiến đi qua - đó là một tấm
phông thiên nhiên vĩ đại, dữ dội, khắc nghiệt mà thơ mộng, một bức tranh sinh hoạt
kháng chiến vừa đằm thắm ân tình, vừa xao xuyến, lãng mạn.
4


- Thêm từ nhớ khiến cho nhan đề bài thơ trở nên ủy mị, không phù hợp với khúc
quân hành của người lính Tây Tiến. Hai chữ Tây Tiến tạo ra âm điệu chắc khỏe, rắn
rỏi. Tên bài thơ vì thế tựa như một khúc quân hành như Nam Tiến, Tiến Quân ca...
=> Ý nghĩa: Đặt tên thi phẩm như vậy thật hàm ẩn, đồng thời cũng gợi mở mang
nhiều ý nghĩa chứng tỏ Quang Dũng là nhà thơ tài hoa, sáng tạo. Nhan đề Tây Tiến
chưa đựng được chủ đề và chiều sâu tư tưởng của toàn bộ thi phẩm.
Câu 4: Bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) có một mạch liên kết khá chặt chẽ, logic.
Anh/chị chỉ ra mạch liên kết đó.
- Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được chia làm bốn đoạn:
+ Đoạn 1 (14 câu thơ đầu): Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến
và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
+ Đoạn 2 (8 câu thơ tiếp theo): Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên
hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
+ Đoạn 3 (8 câu thơ tiếp theo): Chân dung người lính Tây Tiến.
+ Đoạn 4 (4 câu thơ cuối): Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
- Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài
thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ

niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ,
hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những
kí ức, những kỉ niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ
niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và
tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và người đọc có
cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.

PHẦN II. DẠNG ĐỀ ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1. Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
5


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng)
1. Văn bản trên được viết theo thể thơ gì?
2. Nêu nội dung cơ bản của văn bản
3. Văn bản có sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, anh/ chị hãy liệt kê những từ ngữ đó
và nêu tác dụng của chúng.
4. Chỉ ra phép tu từ nói giảm được sử dụng trong văn bản và nêu tác dụng của
phép tu từ đó.
5. Anh/ chị hãy viết 1 đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về vẻ đẹp của những
người lính trong thời đại xưa và nay.
Hướng dẫn trả lời

1. -Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn.
2. –Văn bản tập trung khắc họa chân dung người chiến binh Tây Tiến (ngoại hình,
tâm hồn, lí tưởng, sự hi sinh)
3. – Những từ Hán Việt được sử dụng là: đoàn binh, biên giới, chiến trường, biên
cương, viễn xứ, áo bào, độc hành. Việc sừ dụng những từ Hán Việt ở đây đã tạo ra sắc
thái trang trọng, mang ý nghĩa khái quát, làm tôn thêm vẻ đẹp của người lính Tây
Tiến, góp phần tạo ra vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng.
4. – Phép tu từ nói giảm dược thể hiện trong câu thơ: “Áo bào thay chiếu anh về
đất”. Cụm từ “về đất” được thay thế cho sự chết chóc, hi sinh. Phép tu từ này có tác
dụng làm giảm sắc thái bi thương cho cái chết của người lính Tây Tiến. Người lính
Tây Tiến ngã xuống thật thanh thản, nhẹ nhàng.
5. - Học sinh có thể tham khảo gợi ý sau để viết:
- Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:
+ Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, có bóng dáng của các
tráng sĩ thời xưa: Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt với quê hương đất
nước, tình yêu cuộc sống .
+ Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh
gian khổ của người lính được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không
bi luỵ
– Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn:
+ Không chỉ ở dáng vẻ “oai hùm” phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn,
trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh.
+ Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời mà hoà nhập vào nhau tạo nên
một vẻ đẹp vừa lí tưởng vừa hiện thực của hình tượng thơ.
- Đánh giá: Về vẻ đẹp của người lính trong thời đại ngày nay : dũng cảm ,ngày
đêm chiến đấu quên mình để bảo vệ biển đảo quê hương (dẫn chứng ), đó là những
phẩm chất cao đẹp đã trở thành truyền thống của anh bộ đội cụ Hồ.Người lính vẫn
6



mang trong mình lòng yêu nước thiết tha cháy bỏng, lòng căm thù giặc sâu sắc và
tinh thần sẵn sàng sả thân vì tổ quốc…
Câu 2. Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi.
“…Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
1. Đoạn thơ trên thể hiện tâm trạng gì của tác giả? Tại sao tác giả không dùng từ
“đoàn quân” mà dùng từ “đoàn binh?”,
2. Các từ “không mọc tóc”, “xanh màu lá” có vai trò gì trong việc thể hiện chân
dung người lính lính Tây Tiến?
3. Vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến được thể hiện như thế nào qua
từ “mộng”, “mơ” trong đoạn thơ?
4. Nêu ý nghĩa tu từ của từ “anh về đất” trong đoạn thơ .
5. Từ đoạn thơ, viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ Tổ
quốc của tuổi trẻ ngày nay.
Hướng dẫn trả lời:
1.Ở bốn câu thơ đầu, người lính Tây Tiến hiện ra với những bước chân Tây tiến
vang dội, khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn.Ở 4 câu cuối có
giọng điệu trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính
cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc
lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi
núi rừng miền tây.
- Tác giả không dùng từ “đoàn quân” mà dùng từ “đoàn binh là vì: “đoàn binh”- âm
Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng, diễn tả được sức mạnh
của đoàn binh Tây tiến…

2 “không mọc tóc” và” xanh màu lá”: tái hiện hình ảnh người lính với hiện thực
khốc liêt của bệnh tật. Rừng sâu, nước độc đã tàn phá ngoại hình những chàng trai trẻ
đất Hà Thành. Bệnh sốt rét rừng đã khiến cho tóc rụng trọc, da xanh. Nhưng với sức
sống của tuổi thanh niên, ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng đã nắm bắt hiện thực
cuôc chiến, tô đậm và phóng đại, hiện lên dáng vẻ người lính đẹp lạ thường. Người
lính vẫn hiên ngang đầy khí phách :“ dữ oai hùm”., bút pháp lãng mạn đã xoá đi cái
cảm giác tiều tụy, ốm yếu để nhấn mạnh đến sức mạnh khí phách của những người
lính.
3. + Hình ảnh lạ, sáng tạo độc đáo
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
7


Đêm mơ Hà Hội dáng kiều thơm” .
Mộng lập công danh: có ý chí, khát vọng lớn lao, bên trong cái dữ dằn, oai hùng của
người lính là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu thương: trong khổ
cực, gian khó vẫn giữ được cái mơ mộng, lãng mạn của đất Hà Thành thanh lịch. Họ
sống với cả những giấc mộng “dáng kiều thơm”, sống với nỗi nhớ da diết cái đẹp
trong cuộc sống thanh bình.
4. Cụm từ “anh về đất” là biện pháp nói giảm, nói tránh để chỉ cái chết của người
lính : sự thanh thản, nhẹ nhõm khi đón nhận cái chết.->toát lên vẻ đẹp bi tráng trong
hi sinh của người lính.
5. Từ đoạn thơ, viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ Tổ
quốc của tuổi trẻ ngày nay:Học sinh có thể tham khảo những ý sau để viết bài
+Ngày nay thanh niên là lực lượng đông đảo,ham hiểu biết cái mới, giàu sức sáng
tạo, hăng hái, có chí tiến thủ ,là nguồn nhân lực chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn
trong sự nghiệp cách mạng dân tộc.+Thanh niên thế hệ trẻ chúng ta hãy để cho nhiệt
huyết tuổi trẻ bùng cháy, cho sức sống căng tràn, hãy sống với lý tưởng và hoài bão
cao đẹp, bởi tuổi trẻ qua đi không bao giờ trở lại.
+Trong bối cảnh cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo ở biển Đông diễn ra ngày

càng gay gắt, quyết liệt, khi mà hàng triệu trái tim hòa cùng nhịp đập hướng về biển
đảo quê hương, là sinh viên học sinh, chúng ta cần tích cực học tập rèn luyện phẩm
chất đạo đức, trau dồi bản lĩnh chính trị, không ngại khó khăn, gian khổ để phấn đấu
trở thành những người có ích cho xã hội
Câu 3. Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
1. Nội dung của đoạn thơ?
2. Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ ?
3. Nêu ý nghĩa tu từ của các từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “Heo hút”, “Ngàn
thước lên”, “ngàn thước xuống”.
4. Nhận xét về tính nhạc trong đoạn thơ?
Hướng dẫn trả lời:
1. Nội dung: bức tranh tứ bình về thiên nhiên núi rừng tây bắc dữ dội, hiểm trở
với dốc, đèo, cồn cheo leo, quanh co…Tuy nhiên vẫn mang vẻ đẹp thơ mộng.
2. Phương thức: miêu tả
3. Đó là các từ láy tượng hình -> gợi ra sự gặp ghềnh, cheo leo, hiểm trở, cao ngất
của dốc, núi Tây Bắc. Bức tranh thiên nhiên miền tây thật dữ dội, hiểm trở,
luôn là mối đe dọa đối với tính mạng người lính…
4. Tính nhạc được gợi lên từ việc nhà thơ phối hợp hài hòa các âm tiết mang thanh
bằng, thanh trắc trong đoạn thơ. Ba câu đầu hầu hết dùng thanh trắc gợi ra sự
trúc trắc, cheo leo, hiểm trở của núi rừng. Câu 4 toàn thanh bằng gợi cảm giác
nhẹ nhàng, lâng lâng khi con người chiếm lĩnh được đỉnh cao…
8


Câu 4. Đọc đoạn thơ và thực hiện các yêu cầu sau:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
1. Đoạn thơ trên thể hiện tâm trạng gì của tác giả?
2. Phương thức biểu đạt của đoạn thơ ?
3. Nêu ý nghĩa tu từ của các từ láy trong đoạn thơ.
4. Xác định các dạng phép điệp trong đoạn thơ và nêu hiệu quả nghệ thuật của
chúng.
5. Câu thơ : Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi được phối thanh như thế nào?
Nêu hiệu quả nghệ thuật của việc phối thanh đó.
6. Cụm từ bỏ quên đời thể hiện vẻ đẹp bi hùng của người lính Tây Tiến như thế
nào?
Câu 5. Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Đọc đoạn thơ trên và thực hiện các yêu cầu sau:
1. Đêm hội đuốc hoa hiện lên qua những hình ảnh nào?
2. Các từ “xiêm áo”, “khèn”,“man điệu”, “e ấp” có vai trò gì trong việc thể
hiện những hình ảnh vẻ đẹp văn hoá miền núi và tâm trạng người lính Tây Tiến?
3. Xác định phép điệp trong đoạn thơ và nêu hiệu quả nghệ thuật của chúng.
4. Câu thơ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa được sử dụng nghệ thuật gì? Nêu
hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.
Câu 6. Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi
9


                                            "Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Câu 1: Cho biết vị trí của đoạn thơ trên trong bài Tây Tiến của Quang Dũng?
Câu 2: Nêu chủ đề của đoạn thơ?
Câu 3: Anh/chị hiểu 2 từ Tây Tiến (có bản viết Tây tiến) trong đoạn thơ trên nghĩa
là gì? Chữ Tiến có nên viêt hoa không? Tại sao?
Câu 4: Anh/chị hiểu Sầm Nứa trong câu thơ “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" là
gì ?
Câu 5: Ở khổ thơ một có những tính từ mang tính tạo hình như khúc khuỷu, thăm
thẳm, heo hút, nghĩa là khổ thơ đang vẽ ra cái thế hiểm trở của đèo dốc, của đường
rừng, Theo anh/chị, từ láy thăm thẳm trong câu thơ “Đường lên thăm thẳm một chia
phôi” có cùng ý nghĩa như vậy không?
Câu 6: Trong câu thơ cuối: Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi có một chữ “về” rất
đáng chú ý. Hãy cho biết những câu thơ có chữ “về” trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng. Ý nghĩa chung của những từ “về” đó là gì ?
Câu 7: Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ trên ?
Câu 8: Chọn lựa và phân tích một biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ

trên?
Câu 9: Chỉ bằng 5 câu đơn, hãy ghi lại cảm xúc của anh/chị khi đọc đoạn thơ trên.
Câu 10: Trong thơ ca 1945-1975, có nhiều tác phẩm viết về đề tài người linh. Hãy
kể tên một số tác phẩm viết về đề tài này mà anh/chị đã học hoặc đã đọc. Viết hai câu
thơ về đề tài này mà em thích trong những bài thơ đó.

PHẦN III. DẠNG ĐỀ VẬN DỤNG
I. Dạng đề nghị luận về một tác phẩm, một đoạn thơ.
Câu 1: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
………………………………..
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Hướng dẫn:
10


A. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
+ Quang Dũng là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại
Việt Nam thời chống Pháp (1946- 1954). Thơ Quang Dũng hấp dẫn người đọc bởi là
sự hội tụ của hai nguồn thi cảm: tình yêu đất nước, quê hương và khát vọng lên
đường. Tiếng nói trữ tình ấy lại được biểu hiện bằng hệ thống nghệ thuật hài hòa hai
yếu tố cổ điển và hiện đại, giàu chất họa, chất nhạc, chan chứa nguồn chân cảm.
+ Tây Tiến là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của đời thơ người con Xứ
Đoài mây trắng lắm. Bài thơ ra đời từ những cảm nghĩ, kỉ niệm xúc động của Quang
Dũng về vùng đất miền Tây và đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian xa cách. Tác
phẩm là bức họa bằng ngôn từ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống miền Tây hùng
vĩ, dữ dội mà mĩ lệ nên thơ. Đó là nền để nhà thơ khắc họa tượng đài nghệ thuật bi
tráng về đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa về vẻ đẹp vừa thật hào hùng, vừa rất
đỗi hào hoa. Bài thơ có một sức sống vượt thời gian và thử thách khắc nghiệt của một

thời bằng những giá trị tỏa sáng tự thân của nó. Tác phẩm xứng đáng được đặt vào vị
trí là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp,
nói như giáo sư Phong Lê: Tây Tiến vẹn nguyên trở về với người đã sinh ra nó để
nhận lại vị trí của đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện, không phải chỉ của ông
(Quang Dũng) mà còn là của cả nền thơ ca kháng chiến, ở vị trí mở đầu.
- Nêu vấn đề cần nghị luận:
+ Vị trí: Là đoạn thơ mở đầu của thi phẩm.
+ Nội dung: Đoạn thơ tập trung thể hiện nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành
quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng .
+ Trích đoạn thơ.
B. Thân bài
* Dẫn dắt
Bài thơ được cấu trúc theo diễn biến tự nhiên của nỗi nhớ. Nhớ về Tây Tiến, nhà
thơ Quang Dũng nhớ về thiên nhiên miền Tây Bắc với những vùng đất mình đã đi
qua trên những con đường hành quân gian khổ, nhớ về sông nước miền Tây và những
kỉ niệm đẹp đẽ của đời chiến binh, rồi từ đó mới nhớ về người lính Tây Tiến - những
đồng chí, đồng đội của một thời. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là nỗi nhớ của tác giả
về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến
trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng .
* Phân tích
a. Hai câu thơ đầu: Nỗi nhớ được diễn tả khái quát, nỗi nhớ thấm đẫm thời gian
và không gian
- Nỗi nhớ bật lên thành tiếng gọi: Có thể nói cả bài thơ là nỗi nhớ trải dài, nỗi nhớ có
khi lặn xuống tầng sâu trong tâm hồn nhưng cũng có khi bật lên thành tiếng gọi tha
thiết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Đối tượng của nỗi nhớ: Sông Mã, Tây Tiến, rừng núi.
+ Sông Mã: là con sông từ thượng Lào chảy vào đất Việt. Dòng sông ấy đã gắn bó với

đoàn quân Tây Tiến, chứng kiến những vui, buồn trong cuộc đời người lính chiến
binh. Vì thế, Quang Dũng nhớ về đoàn quân Tây Tiến nhà thơ còn nhớ về dòng sông
11


Mã thân thuộc, hơn thế nữa có thể đây còn là dòng sông tâm trạng, dòng sông chở
nặng cảm xúc, nỗi niềm đầy vơi trong lòng thi nhân.
+ Rừng núi: là hình ảnh khái quát về địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Đó
là nơi rừng núi hoang vu, rậm rạp, địa hình hiểm trở,...
+ Tây Tiến: là một đơn vị thành lập đầu năm 1947, Quang Dũng có mặt tại đơn vị
ngay từ những ngày đầu mới thành lập nên nhà thơ có sự gắn bó sâu sắc với đồng đội
của mình.
- Nỗi nhớ của tác giả được thể hiện sâu sắc:
+ Câu thơ như một tiếng thở dài: Sông Mã xa rồi, lại cũng như một tiếng gọi: Tây
Tiến ơi!. Nỗi nhớ có cái gì đó khắc khoải, thể hiện sự tiếc nuối, trạng thái hụt hẫng
cùng với khát vọng trở về quá khứ thân thương mà hào hùng thuở nào, đó là sông
Mã, là Tây Tiến. Ba từ Tây Tiến ơi nghe sao mà thân thương đến thế, gợi cho người
đọc có một cảm giác Tây Tiến không hề ở xa so với nhà thơ mà đoàn binh Tây Tiến ở
ngay trong trái tim nhà thơ. Tác giả như đang được đối thoại với Tây Tiến vậy.
+ Điệp từ nhớ: diễn tả nỗi nhớ cháy bỏng, không nguôi cứ tuôn chảy dào dạt trong
lòng thi nhân, nhớ đến thổn thức, bồi hồi. Hai từ nhớ được đặt trong cùng một câu
thơ nhưng lại tách ra làm hai vế khiến cho nỗi nhớ như được tô đậm thêm cảm xúc.
Nỗi nhớ dào dạt như những lớp sóng dâng trào mãnh liệt trong lòng thi nhân: Nhớ về
rừng núi/ nhớ chơi vơi.
+ Nỗi nhớ của nhà thơ thật điển hình, đặc sắc: nhớ chơi vơi. Hai từ chơi vơi là hai từ
giàu sức gợi, từng được dùng để diễn tả tâm trạng của con người. Văn học viết về nỗi
nhớ rất phong phú:
Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Hay nhớ đến ra ngẩn vào ngơ, mất hết cả lí trí nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai? Nhà

thơ Tố Hữu diễn tả nỗi nhớ cũng rất cụ thể, dễ hiểu nhớ gì như nhớ người yêu (Việt
Bắc) nhưng nỗi nhớ của Quang Dũng thì thật khó định hình, định lượng, khó diễn tả,
có lẽ chỉ dành cho sự cảm nhận mà thôi. Thế mới thật tài hoa, nỗi nhớ ấy như gợi ra
được cả sự xa xôi về thời gian, không gian, nỗi nhớ như có cả tầm cao, bồng bềnh lan
tỏa, không sao đong đếm được. Người đọc khó có thể nhận biết được bởi đây là cảm
xúc giữa hai bờ hư và thực, quá khứ và hiện tại, mở ra một không gian vời vợi, đồng
thời diễn tả tinh tế một trạng thái mơ hồ mà rất ấn tượng, ám ảnh hồn người. Nỗi nhớ
còn thể hiện sự tiếc nuối bởi ca dao xưa đã bày tỏ rất rõ tâm trạng này của đôi lứa yêu
nhau khi phải ra về: Ra về nhớ bạn chơi vơi. Người ra về rồi mà tâm hồn thấy mênh
mang, xôn xao, lâng lâng, bay bổng khó tả làm sao?
+ Nỗi nhớ da diết, cháy bỏng, vang vọng: Quang Dũng sử dụng hai chữ chơi vơi kết
hợp với sự láy lại ba lần của âm ơi (ơi, chơi vơi), đây là ba âm mở có kết cấu thanh
bằng mang âm hưởng vang vọng lan tỏa khiến cho nỗi nhớ như được ngân lên, nhớ
đến thiết tha, thường trực trong tâm hồn nhà thơ, cả không gian dường như cũng ngập
tràn trong nỗi nhớ của tác giả.
b. Sáu câu thơ tiếp: Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng
trên chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến
* Dẫn dắt:
Nỗi nhớ dắt nẻo nhà thơ trở về với những kỉ niệm khó quên gắn với thiên nhiên
miền Tây, làm hiện lên một không gian, cảnh vật miền Tây dữ dội, hiểm trở mà hùng
vĩ song cũng thật nên thơ, thi vị.
12


* Nỗi nhớ gắn với những địa danh khó quên:
Trong nỗi nhớ của Quang Dũng có nhiều địa danh xuất hiện như: Sài Khao, Mường
Lát, những địa danh này vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng
khái quát.
- Đây là những địa danh, tên những vùng đất mà người lính Tây Tiến đi qua, từng gắn
bó. Dường như chỉ cần nhắc lại những địa danh ấy thôi là biết bao kỉ niệm của quá

khứ lại ào ạt chảy về trong tâm trí nhà thơ.
- Mặt khác, những địa danh này còn mang ý nghĩa khái quát, nó tượng trưng cho một
không gian rất riêng của Tây Bắc xa xôi, lạ lẫm, hoang dã, bí ẩn.
=> Những địa danh được nhà thơ nhắc đến không phải là những địa danh vô nghĩa
trên bản đồ mà đoàn quân Tây Tiến một thời đã đi qua mà nó đã tái hiện lại một thời
kì lịch sử hào hùng của dân tộc với biết bao khó khăn, gian khổ:
Những tên làng, tên núi, tên sông
Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc.
* Bức tranh thiên nhiên vừa hiện thực, vừa lãng mạn:
- Hiện thực: núi rừng Tây Bắc hiện ra trong mờ ảo khói sương, sương dày như muốn
che lấp cả đoàn quân mỏi. Hai chữ sương lấp cùng chữ mỏi đưa người đọc trở về với
cuộc sống hiện thực khốc liệt của người lính. Sương núi lạnh giá cắt da, cắt thịt như
muốn nhấn chìm đoàn quân. Đây là kết quả sau một hành trình dài gian khổ, khiến
người đọc nhớ đến trạng thái rã rời, mệt mỏi của người tù Hồ Chí Minh trên đường
chuyển lao trong bài thơ Chiều tối. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã bình về chi tiết này
rất hay: Đoàn quân không gợi một chút nào cái hùng sân khấu mà đoàn quân mệt
mỏi vì đường xa, bụi bặm, đói khát.
- Lãng mạn: tác giả viết hoa về chứ không phải là hoa nở, đêm hơi chứ không phải là
đêm sương khiến cho câu thơ thêm phần lãng mạn. Sương núi bồng bềnh trong đêm
tạo nên sự huyền ảo, mơ hồ. Đặc biệt hơn nữa là hình ảnh hoa về đã đem đến cho
người đọc nhiều suy ngẫm, có thể hiểu trong sự cảm nhận lãng mạn của người lính
thì sương khói ở Mường Lát lúc tụ vào, lúc tan ra trông như những bông hoa khói
vậy. Cũng có thể, những người lính Tây Tiến trên đường hành quân trở về Mường Lát
họ mang theo những đóa hoa rừng ngát hương thơm, hoa đang cùng bung nở trên
chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, là người bạn đồng hành của người
lính. Đây là những bông hoa thực, hoa hiện ra mờ ảo trong sương khói bồng bềnh.
Trong những vẻ đẹp của tự nhiên, tạo hóa, có lẽ đẹp nhất vẫn là hình ảnh con người,
vì thế, hình ảnh hoa về còn đem đến cho người đọc một liên tưởng kì thú nữa, con
người là sản phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa, phải chăng vì thế mà mỗi người lính
Tây Tiến được ví như một bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng đang trở về hội tụ tại

Mường Lát đêm nay? Một trong những ý nghĩa mà ta không thể phủ nhận được là do
hành quân trong đêm, đường lại nhiều đèo, lắm dốc, khúc khủyu, gập ghềnh đầy
hiểm nguy nên những người lính Tây Tiến đã phải đốt đuốc trong đêm. Những ngọn
đuốc soi sáng bước đường hành quân gian khổ ấy, đẹp lung linh như bông hoa giữa
khói sương mờ ảo? Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được những khó
khăn, gian khổ mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua để ta hiểu về hiện thực khốc
liệt của chiến tranh để thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn của những người
lính trẻ mộng mơ. Câu thơ đẹp như một bức danh họa xuất phát từ cách nhìn, cách
cảm của một tâm hồn hào hoa lãng mạn. Những hình ảnh ấy khiến cho đoạn thơ bớt
13


đi sự dữ dằn của hiện thực, người đọc có cảm giác như được xoa dịu, vơi đi những
nhọc nhằn, vất vả mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng.
=> Trong hai câu thơ trên, tác giả vừa sử dụng hình ảnh gân guốc, vừa sử dụng hình
ảnh thơ mộng, đẹp đẽ kết hợp với nghệ thuật tiểu đối đã làm nổi bật hai vẻ đẹp của
thiên nhiên Tây Bắc vừa dữ dội, vừa nên thơ, đồng thời cũng làm nổi bật hai khía
cạnh trong cuộc đời chiến đấu của người lính Tây Tiến vừa gian khổ, vừa lãng mạn,
yêu đời.
* Chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến:
Dốc lên khúc khuỷu, ...
... mưa xa khơi.
- Tác giả sử dụng từ láy có giá trị tạo hình cao:
Trong hai câu thơ đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc kkuỷu, thăm thẳm,
heo hút) đạt giá trị biểu cảm cao, chúng lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian
nan trùng điệp.
+ Dốc khúc khuỷu vì đường đi là núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, vừa lên cao đã vội đổ
dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau -> độ cao ngất trời.
+ Dốc thăm thẳm: không chỉ đo chiều cao mà còn là ấn tượng về độ sâu, cảm giác
như hút tầm mắt người, không biết đầu là giới hạn cuối cùng -> Độ sâu hun hút.

+ Điệp từ dốc được nhắc đến liên tiếp hai lần trong một câu thơ, tách ra ở hai vế gợi
ra một địa hình hiểm trở chỉ có dốc là dốc cao và sâu. Người đọc có cảm giác người
lính vừa vượt qua con dốc này lại thấy hiện ra những con dốc khác ngay trước mặt
mình.
+ Heo hút cồn mây: heo hút gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh, nghệ thuật đảo ngữ càng
nhấn mạnh điều đó. Cồn mây là mây tụ lại, xếp tầng, hình ảnh thơ gợi ra vị trí của
người lính Tây Tiến đứng trong mây, trên đỉnh núi cao vời vợi. Như vậy, dẫu câu thơ
không nhắc đến sự khó khăn nhưng người đọc vẫn hình dung ra chặng đường hành
quân leo dốc, vượt đèo mà người lính phải trải qua.
=> Quang Dũng đã mở ra không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi
thành một bức phù điêu hùng vĩ về núi rừng Tây Bắc khiến người đọc liên tưởng đến
chặng đường hành quân của người chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần
Côn và Đoàn Thị Điểm:
Hình khe thế núi xa gần
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
- Nghệ thuật nhân hóa: Súng ngửi trời.
+ Trước hết, đây là một hình ảnh xuất phát từ cảm xúc trước hiện thực, những người
lính Tây Tiến hành quân trong mây mà tưởng như nòng súng chạm tới đỉnh trời.
+ Đây là một hình ảnh đẹp, lạ và táo bạo làm rõ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của người
lính Tây Tiến.
. Hào hoa, lãng mạn: Tác giả không nói súng chạm trời mà là súng ngửi trời. Hình
ảnh thơ mang nhiều ý nghĩa biểu tượng giúp người đọc phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn
hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa
khiến cho những vật vô tri, vô giác cũng trở nên có linh hồn sống động hơn. Người
lính đang tếu táo, đùa vui trêu ghẹo cả tạo hóa. Câu thơ khiến người đọc liên tưởng
đến hình ảnh thơ mộng trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: Đầu súng trăng treo,
tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, lạc quan của người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe
không kính của Phạm Tiến Duật.
14



. Hào hùng: Quang Dũng không nói đến người lính mà ta vẫn thấy người lính, không
nói núi cao mà ta vẫn thấy núi rất cao. Chữ ngửi vẽ ra hình ảnh người lính đang ở tư
thế chót vót trên đỉnh núi, đi giữa ngàn mây, nòng súng đang chạm vào vòm trời.
Điều đó cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp của người lính Tây
Tiến. Vẻ đẹp của con người trong tư thế sánh ngang trời đất, làm chủ hoàn cảnh. Vẻ
đẹp của người lính Tây Tiến được tỏa sáng giữa đất trời Tây Bắc mang vẻ đẹp sử thi
của văn học giai đoạn 1945 - 1975. Đó là vẻ đẹp tiêu biểu của người lính trong văn
học chống Pháp:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.
(Lên Tây Bắc - Tố Hữu)
- Nghệ thuật đối lập: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Thiên nhiên Tây Bắc dường như luôn luôn có ý định thử thách lòng người. Tác giả
sử dụng nghệ thuật đối lập cùng cách ngắt nhịp 4/3, kết hợp với điệp từ ngàn thước
với hai động từ chỉ hướng lên, xuống khiến cho câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi để
miêu tả hai chiều không gian Tây Bắc vừa có độ cao chót vót, vừa có độ sâu thăm
thẳm. Dốc đột ngột vút lên thẳng đứng rồi lại đột ngột gãy gập đổ xuống một cách bất
ngờ, nguy hiểm. Đọc những câu thơ này của Quang Dũng ta liên tưởng đến hai câu
thơ của Lí Bạch tả cảnh thác Hương Lô:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
Người tả thác, người tả dốc, tất cả đều tuyệt vời khi nói về sự hùng vĩ của thiên
nhiên. Trần Lê Văn đã bình về câu thơ này thật xác đáng: Đọc câu thơ và nghe đã
muốn mòn chân mỏi gối.
- Tác giả sử dụng tài hoa thanh trắc kết hợp với thanh bằng:
+ Thanh trắc được sử dụng với mật độ dày đặc (liên tiếp ở ba câu thơ: Dốc lên khúc
khuỷu...ngàn thước xuống) đã vẽ nên những đường nét gân guốc, rắn rỏi về địa hình

vùng cao Tây Bắc hiểm trở, đó cũng là chặng đường hành quân vô cùng gian nan mà
người lính Tây Tiến phải trải qua.
+ Thanh bằng được sử dụng nguyên văn trong một câu thơ: Nhà ai Pha Luông mưa
xa khơi đã tạo cho câu thơ những nét vẽ dịu mát. Không gian được cảm nhận qua
điểm nhìn của người lính Tây Tiến khi người lính hành quân lên đến đỉnh núi phóng
tầm mắt ra xa, dưới kia là những ngôi nhà bồng bềnh trong biển mưa. Người đọc
không còn thấy dấu vết của sự mệt mỏi bởi phải vượt rừng, leo núi nữa, bây giờ là
tâm trạng bâng khuâng, thư thái của con người khi vượt lên đến đỉnh dốc, vượt qua
biết bao gian lao, vất vả, thử thách để có được cảm giác Thu vào tầm mắt muôn trùng
nước non (Thượng sơn - Hồ Chí Minh).
=> Nhận xét: Bốn câu thơ có sự kết hợp hài hòa giữa các thanh điệu, quả đúng Quang
Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ông có tài không chỉ về thơ ca mà còn cả âm nhạc và hội
họa nữa. Những câu thơ này thật xứng đáng là lời thơ Thi trung hữu họa, thi trung
hữu nhạc. Phải chăng vì thế mà Xuân Diệu cho rằng: Đọc thơ của Quang Dũng như
ngậm nhạc ở trong miệng. Trong những câu thơ này, Quang Dũng còn sử dụng nghệ
thuật của thơ Đường vẽ mây nảy trăng khi nhà thơ tả cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ,
hiểm trở, dữ dội để làm nổi bật lên hình ảnh người lính Tây Tiến trên bước đường
15


hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả, hi sinh nhưng vẫn lạc quan hồn nhiên
yêu đời, lãng mạn.
c.Sáu câu thơ cuối: Nỗi nhớ về người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân
gian khổ mang vẻ đẹp bi tráng (vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn)
- Hiện thực trên bước đường hành quân của người lính Tây Tiến:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!
+ Hai chữ anh bạn chứa đựng những tình cảm gắn bó giữa những người bạn thân
thiết, giữa những đồng chí, đây là cách nói thân thuộc, gần gũi.
+ Hiện thực bi tráng được diễn tả qua những từ ngữ: Dãi dầu, gục. Đó là những vất

vả, gian lao mà người lính Tây Tiến phải trải qua trên chặng đường hành quân gian
khổ và quá trình chiến đấu với quân thù. Đặc biệt là chữ gục có nhiều cách hiểu: Có
thể đó là sự mệt mỏi khiến người lính ngủ gục trên súng mũ như muốn quên đi tất cả,
có thể đây là cách nói giảm, nói tránh diễn tả sự hi sinh của người lính vì Tổ quốc.
- Vẻ đẹp bi tráng của người lính: Quang Dũng vẫn tiếp tục sử dụng cách nói giảm,
nói tránh khi viết về vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến qua các cụm từ: không
bước nữa, bỏ quên đời. Chiến đấu và hi sinh đó là hiện thực khốc liệt của chiến tranh.
Nhà thơ Quang Dũng đã không ngần ngại nói đến cái chết mặc dù câu thơ không có
từ nào nói đến cái chết. Hiệu quả của nghệ thuật nói giảm nói tránh vừa gợi được tình
thương, vừa gợi đựơc sự bình thản chứ không bi lụy. Người lính Tây Tiến hầu hết là
những học sinh, sinh viên Hà Nội chưa quen chuyện súng gươm, chưa quen gian khổ
và không ít người đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió và bom đạn của kẻ thù.
Điều đó cũng hoàn toàn hợp lí bởi có cuộc chiến tranh nào không có hi sinh, mất mát,
có vinh quang nào mà không phải đổ mồ hôi, nước mắt và cả xương máu. Dường như
họ sang thế giới bên kia chỉ là một cuộc dừng chân tạm thời, là một cuộc nghỉ giải lao
giữa đường mà thôi như Phan Bội Châu đã viết trong bài Cảm tác vào nhà ngục
Quảng Đông: Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.Tác giả không viết là ngủ quên đời mà là
bỏ quên đời thì mới thật ngang tàng, bất cần. Câu thơ sáng ngời phẩm chất người
chiến sĩ cách mạng: Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc (Nguyễn Đình Chiểu).
Cuộc đời con người thật đáng quý biết bao mà họ nói bỏ quên như bỏ quên một thứ
vật chất bình thường mà không hề băn khoăn, hối tiếc.Với cách nói này câu thơ có bi
mà không có lụy, ngược lạ lại hết sức hùng tráng gợi ra chất phong trần, ngang tàng
của người lính mang vẻ đẹp của những tráng sĩ thủa xưa. Người tráng sĩ thủa xưa
mang lí tưởng anh hùng, quyết ra đi lập nên sự nghiệp lớn. Chí lớn chưa thành thì
không bao giờ nói trở lại. Họ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, quê hương, coi cái chết thật
nhẹ nhàng.
- Thiên nhiên Tây Bắc bí hiểm, hoang dại luôn rình rập người lính:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
+ Thiên nhiên hoang dã, dữ dội được miêu tả trong tiếng gầm thét của thác, bóng

dáng của cọp trêu người.
+ Địa danh Mường Hịch: Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng địa danh Mường Hịch
đọc có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm khuya. Hai chữ Hịch, cọp với hai
dấu nặng trĩu xuống nghe rờn rợn. Câu thơ nói đủ sự khốc liệt của chiến trường
người lính. Hai dấu chấm nặng như xoáy vào lòng đất gợi cảm giác ghê sợ, hãi hùng.
16


+ Sử dụng từ láy và điệp từ: Chiều chiều, đêm đêm gợi cho người đọc ấn tượng mạnh
mẽ về thời gian diễn ra triền miên nơi rừng thiêng thác sâu, cọp dữ, nơi ấy luôn là
mối đe dọa khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến. Sự nguy hiểm ấy thường diễn ra
vào lúc chiều tối, đêm sâu và thường xuyên, liên tục không phải là một chiều, một
đêm mà chiều nào cũng thế, đêm nào cũng thế. Như vậy, người lính Tây Tiến không
chỉ bị ngã xuống trước họng súng của kẻ thù mà còn có thể bị ngã xuống bởi rừng
thiêng, thác hiểm.
=> Với thơ ca, rừng núi không phải là vô hồn, vô tri, vô giác. Dân gian có câu thành
ngữ: rừng thiêng nước độc. Thế Lữ đã từng nói về oai linh rừng thẳm trong bài Nhớ
rừng nhưng cái mới của Quang Dũng là, bằng cái tài thẩm âm tinh tế ông đã ghi lại
những chủ âm đặc thù của rừng già Tây Bắc là tiếng thác, tiếng hổ báo gầm gào khiến
người đọc cảm nhận được cái oai linh rờn rợn của núi rừng lúc chiều buông, khi đêm
về.
- Tình quân dân thắm thiết:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Một lần nữa nỗi nhớ lại bật lên thành lời, tác giả đã thốt lên Nhớ ôi. Hai từ này
mang giọng điệu cảm thán bộc lộ nỗi nhớ nhung trào dâng mãnh liệt. Câu thơ có ba
thanh trắc ngắt quãng đều đặn tạo nên âm điệu câu thơ vút lên đẩy nỗi nhớ nhung lên
cung bậc cao nhất.
+ Tác giả nhớ về: Mai Châu, bữa xôi sốt dẻo ấm áp tình quân dân. Câu thơ có hai
cách hiểu.

. Cách thứ nhất là cách định danh thời gian của tác giả: Có thể hiểu người lính Tây
Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín đón nhận bát xôi hương nếp đầu mùa.
Anh gặp em đúng mùa thu hoạch. Bát cơm nếp đong đầy tình quân dân, đặc biệt có
bàn tay thơm thảo của em làm nên hương vị nồng ấm ấy làm vấn vương lòng người
chiến sĩ Tây Tiến. Hương nếp thơm hay đó chính là sự thơm thảo của lòng người, của
tình em nồng ấm? Điều này trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên đã từng
viết:
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.
. Cách hiểu thứ hai đầy lãng mạn: Hai chữ mùa em là một sáng tạo ngôn ngữ tài hoa
của tác giả gợi đầy tình thương và nỗi nhớ, trìu mến và thân thương. Chữ mùa gợi sự
đầy đủ, ăm ắp sự sống, mang hương vị của đồng nội, còn chữ em gợi vẻ đẹp xuân sắc
của người thiếu nữ. Hai từ mùa em đã gợi tả tinh tế cảm giác xao xuyến, say mê của
các chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn trước sản vật và con người Tây Bắc.
=> Có lẽ khi viết những câu thơ này, Quang Dũng còn giữ nguyên ấn tượng hồi hộp,
xúc động khi được đón nhận tình cảm quân dân nồng ấm. Trong những năm tháng
chiến đấu gian khổ ấy, tình quân dân đã làm vơi đi những khó khăn mà người lính
phải trải qua. Đây sẽ mãi mãi là những kỉ niệm đẹp đẽ làm ấm lòng người lính trên
chặng đường hành quân gian lao, đầy thử thách.
IV. Đánh giá chung
- Đoạn thơ chỉ là khúc nhạc dạo đầu của nỗi nhớ chảy dọc mạch thơ Tây Tiến song
cũng đã ghi lại những vẻ đẹp riêng của thiên nhiên, cuộc sống, nhất là vẻ đẹp của
người lính Tây Tiến.
17


- Nỗi nhớ mà Quang Dũng gửi trong đoạn thơ, bài thơ cũng là nỗi nhớ chung của
những ai từng đi qua vùng đất miền Tây, từng trải qua những năm tháng chiến đấu
đầy gian lao của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên
nhiên, con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước.

Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
C. Kết bài
- Nghệ thuật: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa ở
cách xây dựng hình ảnh, bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, nghệ thuật tương
phản, nhân hóa, cách sử dụng từ ngữ, thể thơ thất ngôn trường thiên...
- Nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa một cách sống động về thiên nhiên núi rừng Tây
Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành
quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng.
=> Đoạn thơ xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về hình ảnh người
lính trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Câu 2: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
………………………………..
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
A.Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề cần nghị luận:
+ Vị trí: Là đoạn thơ mở đầu của thi phẩm.
+ Nội dung: Đoạn thơ tập trung thể hiện hình ảnh người lính Tây Tiến trong đêm liên
hoan văn nghệ thấm đẫm tình quân dân, bức tranh thiên nhiên miền Tây hoang sơ, mĩ
lệ, con người miền Tây Bắc với những nét đẹp văn hóa mang màu sắc xứ lạ.
+ Trích đoạn thơ.
B.Thân bài
1. Bốn câu thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan lửa trại (Nỗi nhớ về tình quân dân với
cảnh đêm liên hoan văn nghệ mang màu sắc xứ lạ)
* Khái quát chung:
Viết về tình quân dân là một đề tài quen thuộc trong thơ ca nhưng trong thơ Quang
Dũng, tình quân dân ấy thật mới lạ bởi nếu các nhà thơ khác nghiêng về chất hiện
thực, diễn tả tình quân dân một cách giản dị thì Quang Dũng lại đậm màu sắc lãng
mạn.

- Tình quân dân trong thơ ca Việt Nam được viết thật mộc mạc, gần gũi:
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
...
Chúng tôi đi mang đời lưu động
Nghỉ lại rất nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Hay:
Từ lưng đèo
Dốc núi mù che
18


Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở, bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau
(Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông)
Hoặc:
Anh về cối lại vang rừng
Chim kêu trên mái, gà mừng dưới sân
(Tố Hữu)
- Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã đến với chủ đề tình quân dân ngỡ như rất quen
thuộc có tính chất lối mòn nhưng thực ra Quang Dũng đã có những đóng góp mới
mẻ, độc đáo. Tác giả đã lãng mạn hóa những tình cảm vô cùng cao đẹp ấy của người
lính.
* Phân tích

- Có thể nói đây là những phút giây vô cùng hiếm hoi và quý giá của người lính Tây
Tiến sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính Tây Tiến được nghỉ
ngơi, được sống trong tình quân dân nồng thắm:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa...
...Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Đoàn quân Tây Tiến đã phải trải qua biết bao gian lao, vất vả nhưng dường như
trong cuộc sống của họ không thể thiếu những kỉ niệm ngọt ngào. Họ là những chàng
trai Hà Thành, là những học sinh, sinh viên vì thế tâm hồn họ rất lãng mạn. Họ đã tạo
ra những điều kì diệu cho cuộc sống của mình. Những đêm liên hoan văn nghệ, dưới
ánh lửa trại tâm hồn họ như được thăng hoa.
- Từ Hán Việt Doanh trại gợi không khí cổ kính, trang trọng.
- Hình ảnh hội đuốc hoa: Cách sử dụng từ ngữ của tác giả thật đặc sắc:
+ Cụm từ hội đuốc hoa: Không phải là ánh lửa trại bình thường mà hội đuốc hoa.
Đuốc hoa hay còn gọi là hoa chúc là từ Hán - Việt để chỉ ngọn nến thắp lên trong
phòng đêm tân hôn. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác giả cũng có câu thơ viết
về hình ảnh này: Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai sau. Nét độc đáo trong thơ
Quang Dũng đó là tác giả dùng hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi để nói
lên tình quân dân. Có lẽ đây là cách nói sâu sắc nhất bởi vì còn sự đằm thắm nào hơn
sự đằm thắm, ấm nồng của tình yêu lứa đôi? Vẻ đẹp ấy là vẻ đẹp hiếm có trong thơ ca
cách mạng thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, có chăng nhà thơ Tố Hữu
đã từng viết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Hơn nữa, tác giả còn dùng từ hội gợi ra sự tưng bừng, náo nhiệt. Trong tâm thức
của người Việt, hội hè không thể thiếu trai thanh gái lịch vì thế khổ thơ mang không
khí rạo rực, bay bổng. Đêm liên hoan văn nghệ thực sự đã trở thành một ngày hội lớn
19



của người lính Tây Tiến với con người vùng Tây Bắc. Đêm liên hoan bỗng trở thành
đêm hội với muôn vàn tia sáng như trong đêm chiến thắng vậy.
+ Cảnh đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ, tưng bừng được diễn tả rất rõ qua từ bừng:
Với một từ bừng, Quang Dũng đã để lại trong tâm hồn người đọc biết bao liên tưởng
và dung ngẫm sâu xa. Phải chăng đây là sự bừng sáng của ánh đuốc, là sự tưng bừng
của của âm nhạc và còn có thể hiểu là tiếng hát rộn rã vang dội khắp không gian rừng
núi Tây Bắc. Phải chăng đó còn là sự bừng sáng của những kỉ niệm không bao giờ
phai mờ trong tâm trí người lính Tây Tiến trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Dù tác
giả đã xa đơn vị nhưng những kỉ niệm ấy vẫn như một vùng sáng lấp lánh trong kí ức
của nhà thơ. Dường như mọi gian khó với người lính Tây Tiến không còn có nghĩa lí
gì nữa, trong tâm hồn họ chỉ còn lại sự yêu đời và lạc quan tin tưởng mà thôi.
=> Những liên tưởng này cho thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Quang Dũng tài
hoa, hơn nữa những người lính Tây Tiến tâm hồn lãng mạn, đồng thời những câu thơ
này là dòng hồi tưởng của tác giả nên dường như nó được viền bởi một ánh hào
quang lung linh, kì diệu.
- Vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc cùng với những nét đẹp văn hóa mang màu sắc
xứ lạ ở nơi đây khiến cho tâm hồn người lính Tây Tiến thêm dạt dào cảm xúc:
+ Hai từ kìa em: những câu thơ của Quang Dũng đã được viết từ lâu nhưng bây giờ
đọc lên như vẫn còn tười nguyên cảm xúc được thẻ hiện qua cái nhìn tình tứ của
người lính. Kìa em là đại từ dùng để chỉ đối tượng từ xa nhưng trong câu thơ này nó
còn hàm ý chỉ thái độ ngạc nhiên, là niềm vui thích rất đỗi tình tứ của người lính trẻ
khi nhìn thấy cô gái vùng cao trong xiêm áo lộng lẫy uyển chuyển theo điệu nhạc,
điệu múa tự bao giờ. Từ em như một nốt nhấn của câu thơ, ngữ điệu trùng xuống gợi
cho người đọc thấy được cảm xúc của người lính Tây Tiến dành cho những cô gái.
Đó là cách gọi trìu mến, tình tứ đong đầy yêu thương. Nhân vật em hiểu theo cách thứ
nhất là những cô gái Thái, cô gái Lào duyên dáng, xinh đẹp trong điệu múa độc đáo,
mới lạ đối với những người lính vùng xuôi. Theo nhà thơ Vũ Quần Phương thì nhân
vật em còn có thể hiểu theo cách thứ hai: ở đây các nam bộ đội đóng vai nữ rất đẹp

gái nên câu thơ có sắc thái ngỡ ngàng, câu thơ như một lời thốt lên vì bất ngờ: Kìa
em xiêm áo tự bao giờ.
+ Nét đặc sắc của một nền văn hóa mới: Quang Dũng đã có một khoảng thời gian gắn
bó với cuộc sống của con người Tây Bắc nên mới có những ấn tượng sâu sắc về nét
văn hóa ở nơi đây. Man điệu là điệu nhạc, điệu múa của người dân tộc thiểu số. Tiếng
khèn là đặc trưng của âm nhạc vùng cao khi cất lên đã tôn vinh vẻ đẹp, lôi cuốn
người xem vừa mang những nét duyên thầm kín đáo e ấp. Có thể hiểu đây là điệu
Lăm vông, Lăm tơi của những cô gái Thái, cô gái Lào đã làm nên màu sắc huyền ảo,
lãng mạn. Chính vẻ đẹp ấy đã làm say đắm tâm hồn người lính Tây Tiến, nó như một
dòng nước ngọt ngào, mát lành làm xua tan đi bao mệt nhọc trong cuộc đời người
lính sau những chặng đường hành quân gian lao và vất vả khiến tâm hồn họ trở nên
lãng mạn, bay bổng, đầy mộng mơ. Đêm liên hoan có đuốc, có hoa, có tiếng kèn,
điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân
tộc óng ánh sắc màu văn hoa núi rừng. E ấp trong những điệu xòe hoa duyên dáng.
Tất cả như say, như mơ, như mê để hồn thơ được xây lên từ đó:
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến: Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
20


Tâm hồn người lính đang say trong tiếng nói, tiếng cười, điệu múa, ánh mắt như
đang vấn vít lấy nhau, chính tình quân dân thắm nồng đã nâng đỡ tâm hồn người lính
lên trên hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Người lính có giấc mộng một ngày
nào đó sẽ được đặt chân đến Viên Chăn - thủ đô của nước Lào. Đó là niềm khao khát
được lập chiến công, đất nước được giải phóng, kẻ thù bị quét sạch ra khỏi bờ cõi
lãnh thổ.
* Đánh giá:
Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã dựng lên một bức tranh vừa phong phú về màu sắc,
đường nét, vừa đa dạng về âm thanh. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa, sự nhạy cảm với
cái lạ thường, Quang Dũng không chỉ cho người đọc thấy được vẻ đẹp của bản sắc

văn hóa mà còn cho ta thấy tình quân dân đằm thắm, mặn nồng và tâm hồn lạc quan
yêu đời của người lính Tây Tiến. Chính điều đó đã khiến cho đoạn thơ như một thế
giới cổ tích hiện ta giữa hiện thực đầy khốc liệt của cuộc chiến tranh gian khổ.
2. Bốn câu thơ sau: Khung cảnh thiên nhiên sông nước và con người Tây Bắc
* Dẫn dắt:
Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc không khí mê say
ngây ngất thì cảnh sông nước miền Tây Bắc lại gợi lên cảm giác mênh mang, hoang
dại, tĩnh lặng, mờ ảo, cho thấy nét tài hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến.
* Phân tích
- Nỗi nhớ thời gian và không gian: Chiều sưong ấy. Đây chính là cảnh bản sương
giăng, đèo mây phủ đặc trưng của vùng Tây Bắc (Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo
mây phủ/ Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương - Chế Lan Viên). Sương giăng mờ
khắp không gian, choàng lên cảnh vật như một tấm áo voan mỏng, cảnh hiện ra vừa
thực, vừa như mơ. Nỗi nhớ trong thơ của Chế Lan Viên khái quát, còn nỗi nhớ trong
thơ Quang Dũng thì cụ thể hơn.
- Nỗi nhớ của nhà thơ không chỉ dừng lại ở thời gian, không gian chiều sương ấy mà
còn được diễn tả cụ thể hơn:
+ Nhớ Châu Mộc: là một địa danh thuộc vùng đất Sơn La, địa danh này từng gắn bó
với tác giả và binh đoàn Tây Tiến, chứng kiến biết bao kỉ niệm vui buồn một thời
chiến binh. Cảnh và người Châu Mộc đã trở thành những kỉ niệm khó quên đối với
những người lính Tây Tiến, đặc biệt là nhà thơ Quang Dũng.
+ Nỗi nhớ về con người: Nỗi nhớ cảnh gắn liền với nỗi nhớ người:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Câu thơ mang đậm màu sắc điện ảnh. Người nghệ sĩ như đứng từ trên cao để chụp
lấy một hình ảnh đẹp: con thuyền độc mộc với dáng người đang lướt trên dòng nước
lũ. Thuyền độc mộc là thuyền dài và hẹp làm bằng một thân cây gỗ to, khoét trũng có
một người chèo lái. Hình ảnh dáng người trên độc mộc có thể là người lính Tây Tiến,
cũng có thể là con người Tây Bắc. Dù hiểu theo cách nào, tác giả đã cho người đọc
thấy vẻ đẹp của con người được khai thác ở hai khía cạnh vừa duyên dáng, uyển
chuyển, mềm mại, lại vừa khỏe khoắn, mạnh mẽ với sức sống mãnh liệt qua nghệ

thuật tương phản. Hình ảnh thơ vì thế vừa lãng mạn, vừa gợi vẻ hùng vĩ. Con thuyền
độc mộc thì nhỏ bé mà dòng nước lũ kia là thiên nhiên hoang sơ, vừa tương phản,
vừa làm nền để tôn vinh vẻ đẹp cho con người nơi đây.
+ Nhớ thiên nhiên:
. Hình ảnh hoa lau:
21


Hồn lau nẻo bến bờ: Hoa lau là hình ảnh đặc trưng của vùng núi cao, Tố Hữu đã
từng viết: Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son (Việt Bắc). Lau mọc khắp triền sông,
vách đá, trong bài thơ này, lau là hình ảnh quen thuộc của vùng biên giới Tây Bắc:
Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh
(Lau biên giới - Chế Lan Viên)
Cây lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng của thời tiền sử:
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha.
Tuy nhiên, trong thơ Quang Dũng, tác giả đã diễn tả được thiên nhiên, thổi hồn vào
cảnh vật làm cho nó trở nên sống động như có linh hồn vậy. Những bông hoa lau có
dáng vẻ thưa thớt, thoáng nhẹ, phơ phất thường xuất hiện ở vùng biên giới gợi vẻ xa
vắng, hiu hắt. Quang Dũng cao hơn thế đã nắm bắt được linh hồn của cảnh vật, đó là
thiên nhiên đặc trưng của vùng Tây Bắc Tổ quốc, nhà thơ đã nhân hóa gọi là hồn lau.
Thiên nhiên đã được nhân hóa như có linh hồn phảng phất trong gió, trong sương như
nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng

Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng là hồn lau của li biệt phảng phất một chút buồn
nhưng không xao xác mà đầy nhớ thương, lưu luyến bởi tác giả đã hai lần cất lên câu
hỏi có nhớ, có thấy.
=> Hai chữ hồn lau thực chất gợi tả hoa lau với màu trắng bạc đầy gợi cảm hiện hữu
nơi không gian nẻo bến bờ xa vắng và quên lãng, qua cảm nhận của nhà thơ nó như
có hồn. Phải chăng đó là hình ảnh lưu giữ tình cảm thiết tha mà người dân miền Tây
dành cho những chiến sĩ Tây Tiến khi xa, cũng là mảnh hồn người chiến sĩ gửi lại
Mộc Châu lúc giã từ ? Lời thơ còn hướng ta đến một cảm nhận thật thú vị, nếu không
có bước chân những chiến sĩ Tây Tiến, hoa lau sẽ như chưa từng được biết, nó chỉ nở
trong thầm lặng mà thôi. Điệu thơ có gì đó xa xót trước một vẻ đẹp bị lãng quên. Đó
là chất thi sĩ trong sâu thẳm tâm hồn người lính Tây Tiến được đánh thức trong
khoảnh khắc giao cảm bất ngờ với hồn tạo vật.
. Nhớ về thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng:
Nỗi nhớ về thiên nhiên được đọng lại qua hai hình ảnh tiêu biểu là dòng nước lũ và
hoa đong đưa. Dòng nước lũ là hình ảnh về thiên nhiên man dại. Điều đặc biệt là trên
dòng nước lũ ấy, xuất hiện hình ảnh hoa đong đưa. Cách sử dụng từ ngữ của tác giả
rất độc đáo cho thấy sự tài hoa của nhà thơ. Đong đưa chứ không phải là là đung đưa,
đong đưa vừa diễn tả được trạng thái chuyển động đung đưa nhưng lại làm sống dậy
cái hồn của cảnh vật. Hoa đong đưa làm toát lên vẻ đẹp thơ mộng, mềm mại, duyên
dáng làm say đắm lòng người. Cành hoa ấy như đang làm duyên trên dòng nước lũ,
soi bóng trên dòng sông vậy. Vì thế, thiên nhiên vùng Tây Bắc hiện ra trong nỗi nhớ
của Quang Dũng vừa mang vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ, vừa mang vẻ đẹp thơ mộng, mĩ
lệ. Hình ảnh thơ còn có cách hiểu thú vị khác nữa, hoa đong đưa là một liên tưởng
lãng mạn của tác giả khi câu thơ sau có sự hô ứng với câu thơ trước. Dáng người trên
22


độc mộc giống như bông hoa đong đưa trên mặt nước. Phải có một tâm hồn lãng
mạn, lạc quan, yêu đời như tác giả mới có những cảm nhận tinh tế như vậy, đó là
những phút giây mơ mộng vượt lên trên hiện thực khốc liệt, bom đạn dữ dội của kẻ

thù. Vì thế, nhà thơ Xuân Diệu đã có những nhận xét thật xác đáng: Đọc bài thơ Tây
Tiến, ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng và có thể nói những hình ảnh
thơ, những hình ảnh thơ, những câu thơ trên là những câu thơ đặc sắc, là những nốt
nhạc đọng mãi trong tâm hồn Quang Dũng và người đọc.
- Câu hỏi tu từ liên tiếp được đặt ra: Có nhớ, có thấy. Đây là những câu thơ hoài niệm
vì thế nhà thơ đặt ra những câu hỏi tu từ liên tục gợi ra tâm trạng bâng khuâng, xa
vắng, lưu luyến và đầy tiếc nuối. Dường như chiều sương ấy với hồn lau nẻo bến bờ,
dáng người trên độc mộc luôn trở thành nỗi nhớ, niềm thương của người ra đi vậy.
C. Kết bài
- Nghệ thuật: Cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ, hình ảnh thơ đẹp, thơ mộng, sáng tạo
gợi nhiều liên tưởng thú vị, sử dụng các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ,...
- Nội dung: Đoạn thơ là dòng hoài niệm của Quang Dũng về những kỉ niệm năm xưa,
làm sống dậy những phút giây bình yên hiếm có của thời chiến tranh. Đó là hình ảnh
người lính Tây Tiến trong đêm liên hoan văn nghệ thấm đẫm tình quân dân, bức tranh
thiên nhiên miền Tây hoang sơ, mĩ lệ, con người miền Tây Bắc với những nét đẹp văn
hóa mang màu sắc xứ lạ. Đặc biệt là bốn câu thơ sau, tác giả như đưa người đọc vào thế
giới cổ tích với dòng sông huyền thoại, với thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của âm
nhạc du dương; chất thơ, chất họa. chất nhạc thấm đẫm, quyện hòa đến mức khó mà tách
biệt. Nhận xét về cái hay, cái đẹp của đoạn thơ này Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Đọc
đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của cõi nhạc.

Câu 3: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ
sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…………………….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
( Tây Tiến – Quang Dũng)
A. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề cần nghị luận:

+ Vị trí: là đoạn thơ thứ ba của bài thơ...
+ Nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa nên bức chân dung tập thể người lính Tây Tiến với
vẻ đẹp hào hùng, hào hoa thấm đẫm chất bi tráng.
+ Trích đoạn thơ.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...
...Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
B.Thân bài
1. Bốn câu thơ đầu: Cuộc sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến hào hùng, hào
hoa và bi tráng
a. Hai câu thơ đầu: Ngoại hình, dáng vẻ của người lính Tây Tiến rất đặc sắc, rất khác
thường
23


Hình tượng tập thể người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn kết
hợp với khuynh hướng tô đậm cái phi thường. Tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập,
tương phản để miêu tả vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
- Chân dung ngoại hình của người lính được miêu tả rất chân thực:
+ Hai chữ Tây Tiến được đảo lên đầu đã nhấn mạnh niềm tự hào, kiêu hãnh của đoàn
binh.
+ Cụm từ Không mọc tóc: Mặc dù tác giả không viết cụ thể về cuộc sống của người
lính nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra cuộc sống của họ chắc chắn là gian
khổ, là thiếu thốn nên những cơn sốt rét rừng đã khiến cho tóc họ rụng hết, thậm chí
căn bệnh hiểm nghèo này đã cướp đi tính mạng của biết bao chiến sĩ Tây Tiến. Nhà
thơ Tố Hữu đã nói về căn bệnh này qua hình ảnh anh vệ quốc quân trong bài Cá nước
thật cụ thể: Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ. Hay trong bài thơ Đồng
chí, Chính Hữu đã viết: Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng chán
ướt mồ hôi.

Bên cạnh đó là những người lính khỏe mạnh nhưng thấy đồng đội của mình rụng
hết tóc nên cũng tinh nghịch cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc chiến đấu khi mang
lá ngụy trang, đánh giáp lá cà với địch, cũng có thể đây là một cách ngông của người
lính Tây Tiến mà chỉ những học sinh, sinh viên mới có những ý tưởng tinh nghịch đó.
+ Quân xanh màu lá: Da họ xanh xao, vàng đi do những cơn sốt rét rừng hoành hành
vì thiếu máu.
=> Đây là những hình ảnh thực xuất từ hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện ra chân thật đến xót xa không hề cường điệu, rất
giống giọng thơ của Nguyễn Đức Mậu:
Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân
Hay Tố Hữu cũng đã viết:
Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa
Con người tồn tại được trong hoàn cảnh ấy quả là phải có một nghị lực phi thường.
- Vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn của người lính Tây Tiến:
Người lính ốm mà không yếu, với bút pháp lãng mạn, tác giả đã nhấn mạnh sự tương
phản giữa ngoại hình và tâm hồn, giữa hình thức có phần xanh xao tiều tụy vì bệnh
tật với sức mạnh tinh thần bên trong của họ.
+ Từ Hán - Việt đoàn binh: vừa là tên để gọi, vừa là cách định danh đoàn quân Tây
Tiến nhưng đồng thời nó lại là từ Hán - Việt diễn tả sự khỏe khoắn, khí thế xung trận
mạnh mẽ, đông đảo, hùng dũng.
+ Cách nói phủ định không mọc tóc: câu phủ định nhưng hàm ý lại là khẳng định gợi
lên sự chủ động, cứ như là không cần, không thèm mọc tóc vậy. Với cách nói ấy
người lính đã khẳng định sự ngang tàng, kiêu hùng bất cần của mình.
+ Hình ảnh quân xanh màu lá: vừa là hình ảnh thực về làn da xanh xao, vàng vọt mà
cũng thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, hình ảnh người chiến sĩ như
đang hòa vào rừng cây bát ngát xanh.

24


+ Tư thế dữ oai hùm: đó là tư thế oai phong lẫm liệt, vẻ đoàng hoàng của vị chúa sơn
lâm từng ngự trị, tung hoành ngang dọc nơi chốn rừng thiêng. Đó là tư thế chế ngự
hoàn cảnh sống khắc nghiệt dữ dội làm cho quân thù khiếp sợ. Người lính ngay trong
khó khăn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật cũng đã bộc lộ phẩm chất hào hùng rất đáng
ngợi ca. Có một thời cái đẹp ấy đã trở thành thước đo giá trị con người, thời đại Lí Trần gọi đây là hào khí Đông A quyết chiến, quyết thắng:
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Ba quân khí thế mạnh mẽ như hổ báo nuốt trôi trâu)
(Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão)
Trong quan niệm của người phương Đông, con người khí phách, oai vệ, oai phong
lẫm liệt thường được miêu tả, so sánh ví von bằng những hình ảnh như râu hùm,
trướng hùm thì trong bài thơ này tư thế dữ oai hùm của người lính Tây Tiến phần nào
cũng toát lên vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng ấy.
b. Hai câu thơ tiếp: Tâm hồn mộng mơ của người lính Tây Tiến
* Dẫn dắt:
Ca ngợi vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đõi hào hoa lãng mạn của con người Việt
Nam, nhà thơ Huy Cận đã viết:
Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
Đằng sau vẻ dữ oai hùm, ở người lính Tây Tiến còn ẩn giấu những trái tim khao khát
yêu thương, lãng mạn và đầy mộng mơ. Có thể nói hai câu thơ sau là hai câu thơ
được đánh giá là đẹp nhất, hay nhất, vẽ thành công nhất chân dung Tây Tiến hào
hùng, hào hoa, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
* Phân tích:

- Hình ảnh mắt trừng gửi mộng: Hình ảnh đôi mắt thể hiện sự tập trung cao độ vừa
bộc lộ niềm căm thù hừng hực một khí thế chiến đấu, một giấc mộng lập công.
Dường như bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu cảm xúc, ước vọng đều hướng về phía
trước qua biên giới, hướng về chiến trường. Mộng ở đây là mộng ước, đánh đuổi
quân thù ra khỏi bờ cõi lãnh thổ. Đây là sự oai phong lẫm liệt của trang nam nhi thời
loạn.
- Ý chí của người lính mạnh mẽ nhưng tâm hồn họ cũng thật mộng mơ:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Người lính Tây Tiến phần đông là những thanh niên Hà Nội. Họ ra đi từ trường xưa,
phố cũ nên cũng có những mộng mơ đặc biệt của người lính. Trên đường hành quân
ra trận người lính đã để lại biết bao nỗi nhớ thương. Nếu những người lính xuất thân
từ đồng ruộng có nỗi nhớ giản dị, mộc mạc, họ nhớ giếng nước gốc đa (Đồng chí Chính Hữu), nhớ người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya (Nhớ - Hồng
Nguyên) thì người lính Tây Tiến có nỗi nhớ lãng mạn:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
+ Thời gian đêm: đây là những phút giây lắng dịu của tâm hồn, những khoảng lặng
của cuộc chiến tranh, trái tim người lính trẻ thao thức, rạo rực, khao khát được yêu
thương.
25


×