Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Nội dung Xã hội học Chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.22 KB, 131 trang )

MỤC LỤC
Tr
Lời nói đầu

02

Chương 1

05

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của xã hội học chính trị
chương 2
lịch sử tư tưởng xã Hội Học Chính Trị
Chương 3

25
43

Các tập hợp chính trị
Chương 4

50

Hành vi chính trị
Chương 5
Sự kiện chính trị và quá trình chính trị
Chương 6
Một số phương pháp và các bước tiến hành điều tra xã hội học chính trị
Chương 7
Một số vấn đề xã hội - chính trị Trong xã hội việt nam hiện nay


1

66
82
110


LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội học chính trị là một môn khoa học đặc thù và phức tạp từ đối tượng
đến phương pháp nghiên cứu, từ việc xác định khái niệm, phạm trù đến nội dung và
những đặc điểm của nó. Nằm trong một tập hợp các khoa học xã hội và nhân văn, xã
hội học chính trị có chức năng, vị trí và tầm quan trọng riêng, góp phần vào việc
nghiên cứu các vấn đề xã hội cũng như nghiên cứu phương diện xã hội của chính trị
trong quá trình vận động, phát triển.
Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, xã hội học chính trị càng trở nên vô
cùng cần thiết hơn bao giờ hết. Khi đất nước ta vận động và phát triển dưới tác động
mạnh mẽ của những cải cách và đổi mới, của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá để chuyển mình từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp,
từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, từ mô hình phát triển đơn tuyến và đơn
trị.(1), đóng cửa và khép kín sang mô hình phát triển mới với mở cửa, hội nhập, hợp
tác song phương và đa phương, hợp tác và cạnh tranh để phát triển. Đây chính là
phương thức phát triển đất nước dựa trên tiền đề ổn định các yếu tố, đặc biệt là ổn
định chính trị qua việc tổng hợp cả các yếu tố nội lực và ngoại lực, chú trọng giải
quyết các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời chú trọng cả môi trường sinh
thái - tự nhiên lẫn môi trường xã hội - nhân văn.
Xã hội học chính trị là một môn khoa học mới mẻ và đầy triển vọng không chỉ
ở nước ta mà cả trên thế giới. Ở Việt Nam, chính trị học là một ngành khoa học đang
ở những bước hình thành, nó dần dần đáp ứng được những đòi hỏi của việc đổi mới
hệ thống chính trị, dân chủ hoá đời sống chính trị và đời sống xã hội nói chung.
Đồng thời việc đổi mới kinh tế - xã hội và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta đã

khách quan hoá vai trò, tầm quan trọng và triển vọng của xã hội học chính trị.
Mục đích của Đổi mới là tìm kiếm con đường, giải pháp để vượt qua sự trì trệ,
khủng hoảng, nhằm đưa đất nước từng bước phát triển. Nước ta đang ở trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, với nền kinh tế đang có
sự chuyển đổi sâu sắc cả mô hình phát triển, cơ cấu, lẫn cơ chế quản lý và các chính
sách điều tiết. Trong xã hội cũng đang diễn ra những biến đổi về cơ cấu giai cấp,
tầng lớp, nhóm xã hội, sự phân hóa trong cộng đồng dân cư. Do đó, việc điều tiết,
(1)

Chỉ những hạn chế của sự phát triển trong một hệ thống với mô hình CNXH Xô Viết trớc đây.

2


điều chỉnh các đối tượng và các quan hệ xã hội bằng cơ chế và chính sách tác động
theo nguyên lý công bằng xã hội đang trở nên rất cần thiết, bức xúc.
Lý luận cũng như thực tiễn đã cho thấy, tác động qua lại giữa yếu tố kinh tế và
yếu tố xã hội tất yếu phải đi qua vòng khâu của chính trị.
Chính trị tham dự vào đời sống xã hội, định ra phương hướng phát triển kinh
tế và quản lý xã hội như thế nào cho hợp lý, đúng đắn, để chính trị trở thành lực đẩy
chứ không phải là lực cản đối với phát triển - đó là vấn đề mà các khoa học xã hội nhân văn phải nghiên cứu, đưa ra câu trả lời. Trách nhiệm ấy trước hết thuộc về các
khoa học chính trị, trong đó không thể thiếu vắng xã hội học chính trị.
Thực tiễn chính trị Việt Nam rất phong phú. Dân tộc Việt Nam qua trải
nghiệm lịch sử đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm chính trị và có sự nhạy cảm sâu
sắc về chính trị nhưng vì sao chính trị học, lý luận khoa học về chính trị lại chậm
phát triển? Chính trị học hiện đại ở Việt Nam là một khoa học non trẻ mới chỉ bắt
đầu hình thành từ đổi mới đến nay, và trên thực tế, nó còn chưa trưởng thành.
Xã hội học chính trị quan trọng và cần thiết như vậy, nhất là đối với nhận thức
xã hội và tư duy lãnh đạo, quản lý, vậy mà trên thực tế nó cũng ra đời muộn màng,
muộn màng hơn cả xã hội học và chính trị học.

Tình hình phát triển hiện nay của xã hội ta cùng với xu thế và bối cảnh quốc tế
đang tạo ra cơ hội cho sự phát triển xã hội học chính trị. Mặt khác cũng có không ít
những khó khăn và thách thức đối với sự phát triển của nó, nhất là đặt trong tương
quan so sánh với thành tựu xã hội học chính trị của các nước trong khu vực và trên
thế giới.

3


CHƯƠNG 1
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ
Chính trị là một trong những lĩnh vực mà nhiều khoa học xã hội nghiên cứu.
Xã hội học nghiên cứu về con người với những quan hệ xã hội của họ nên cũng coi
chính trị là một lĩnh vực cần nghiên cứu. Song xã hội học nghiên cứu chính trị là
nghiên cứu gì? Đối tượng cụ thể của xã hội học chính trị ra sao? Xã hội học chính trị
tiếp cận với quan hệ chính trị của con người thế nào, bằng phương pháp nào? Xã hội
học chính trị khác gì với các khoa học đang nghiên cứu về chính trị, nhất là với
chính trị học? Đây là những vấn đề cần phải tập trung làm rõ.
1. Các khoa học chính trị và xã hội học chính trị
Cho đến ngày nay, chính trị luôn được mọi người hiểu là quyền lực. Tiếp cận
ở những góc độ khác nhau của mối quan hệ quyền lực này, chúng ta có những khoa
học khác nhau:
- Triết học tiếp cận với quyền lực chủ yếu từ góc độ của quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Ở đây, theo các nhà triết học duy vật biện chứng: cơ
sở hạ tầng nào có kiến trúc thượng tầng ấy. Nghĩa là, trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất giữa người với người, giữa các nhóm xã hội
với nhau sẽ quyết định chủ yếu kiểu tổ chức nhà nước, pháp quyền, đạo đức, tư

tưởng, tôn giáo... Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
- Kinh tế chính trị học thì bàn đến mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Ở
đây, kiểu tổ chức sản xuất thế nào, cơ cấu kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế nào
sẽ có cơ cấu xã hội như thế. Và chính cơ cấu xã hội này sẽ quyết định cơ cấu quyền
lực xã hội. Ai nắm kinh tế, người đó sẽ nắm quyền lực. Quyền lực chính trị thực chất
là sự phản ánh quyền lực về kinh tế. Tất cả các xã hội đã tồn tại đều như vậy.
- Tôn giáo học, văn hoá học cũng ít nhiều nghiên cứu về chính trị. Ở đây, quan
niệm tôn giáo cũng nhiều khi được phản ánh trong hệ thống luật pháp hoặc trong các
thể chế xây dựng nhà nước ở nhiều quốc gia. Cũng như vậy, văn hoá học nghiên cứu
về văn hoá chính trị, về những tương tác của hệ thống chuẩn mực và giá trị xã hội
với cách thức tổ chức, thực hiện quyền lực xã hội.
4


- Chủ nghĩa xã hội khoa học thì nghiên cứu có tính đặc thù hơn. Nó nghiên
cứu quyền lực chỉ trong xã hội xã hội chủ nghĩa - xã hội mà quyền lực nhà nước chỉ
tồn tại như điều kiện cho cuộc cải tạo kinh tế xã hội rộng lớn, cơ bản, toàn diện để đi
đến thủ tiêu mọi quyền lực nhà nước, thực hiện một xã hội công bằng bình đẳng,
tiến bộ cho tất cả mọi người - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy là ở những góc độ khác nhau, các khoa học nghiên cứu về những
khía cạnh khác nhau của quyền lực xã hội. Rất nhiều khoa học đã ra đời và nghiên
cứu như thế. Vấn đề đặt ra là xã hội học chính trị đã nghiên cứu gì, đối tượng cụ thể
của nó ra sao? và xã hội học chính trị khác gì với chính trị học?
Nhận biết về những mối liên hệ giữa xã hội học và chính trị học với xã hội
học chính trị
Trước hết, phải khẳng định rằng, đã là khoa học nghiên cứu về chính trị thì
khoa học nào cũng lấy quyền lực là phạm trù cơ bản, xuất phát. Từ những góc độ
khác nhau, các khoa học chính trị đều góp phần tìm hiểu những quy luật và tính quy
luật chi phối quyền lực giữa người với người và giữa các nhóm, tập đoàn xã hội với
nhau. Trên cơ sở này góp phần hoàn thiện hệ thống quyền lực xã hội, làm cho hệ

thống này vận hành tốt hơn, phục vụ tốt hơn mục tiêu quản lý xã hội.
Với chính trị học, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính trị học chủ yếu
"nghiên cứu lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội như là một chỉnh thể để làm sáng
tỏ những quy luật và tính quy luật chung nhất trong các mối quan hệ giai cấp, dân
tộc, quốc gia cũng như trong mối quan hệ qua lại giữa các tổ chức liên quan tới việc
hình thành, phát triển của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước"1.
Quan niệm trên cho thấy, chính trị học chủ yếu nghiên cứu quyền lực giữa các
tập đoàn giai cấp xã hội, nghĩa là quyền lực giữa con người với con người hoặc giữa
các nhóm xã hội với nhau dựa trên mối quan hệ của họ với những tư liệu sản xuất
chủ yếu. Nghĩa là ai nắm giữ tư liệu sản xuất chính yếu trong xã hội, người ấy nắm
quyền lực xã hội. Quyền lực này chỉ tồn tại trong những xã hội có giai cấp mà sự thể
hiện của nó phải được thực hiện thông qua thiết chế nhà nước.
V.I. Lênin khi bàn về vấn đề này, khẳng định: "chính trị, thực chất là quyền
lực của một giai cấp được thực hiện thông qua nhà nước". Ở đây nhà nước với tất cả
1

Viện Khoa học chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, tập bài giảng chính trị học, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.11.

5


hệ thống đồ sộ của nó như hệ thống luật pháp, hệ thống thực thi luật pháp, hệ thống
bảo vệ luật pháp, hệ thống tuyên truyền luật pháp... đều chỉ là công cụ của một giai
cấp nhằm thực hiện ý chí của một giai cấp, bảo vệ quyền lợi của chính giai cấp ấy.
Chính trị với nghĩa này chỉ là một phạm trù lịch sử. Nghĩa là chính trị học chỉ
nghiên cứu quyền lực trong những xã hội có phân chia giai cấp mà thôi. Khi giai cấp
không còn, nhà nước mất đi, quyền lực giữa các nhóm xã hội phân chia thành giai
cấp cũng không tồn tại nữa. chính trị học với việc nghiên cứu quyền lực theo nghĩa
này, rõ ràng cũng không cần thiết nữa.

Xã hội học, tuy cũng nghiên cứu về quyền lực xã hội song nó nghiên cứu
quyền lực ở phạm vi rộng lớn hơn. Quyền lực mà xã hội học nghiên cứu không chỉ
là quyền lực giữa các tập đoàn giai cấp xã hội mà là quyền lực hiệu hữu trong mọi
nhóm, mọi tập đoàn, mọi tầng lớp xã hội. Nghĩa là ở đâu tồn tại sự thống trị, sự áp
đặt ý chí của người này với những người khác và ngược lại là sự phục tùng của
những người này với một hoặc một số những người khác thì ở đấy hiện diện mối
quan hệ về quyền lực mà xã hội học nghiên cứu.
Điều này cho thấy, xã hội học nghiên cứu không chỉ bó hẹp trong thiết chế
nhà nước mà trong nhiều thiết chế và tổ chức xã hội, chính trị khác. Ví dụ, trong
thiết chế gia đình, dòng tộc, nhóm ngang hàng, nhóm sở thích, nhóm xã hội nghề
nghiệp... Tuy không hề tồn tại mối quan hệ quyền lực dựa trên cơ sở giai cấp song
dưới góc độ tổ chức, những nhóm hoặc thiết chế xã hội này đã hình thành mối quan
hệ giữa người nắm quyền lực ở trên với những người không có quyền lực ở dưới.
Trong đó, con người được phân chia hết sức rõ ràng (theo những quy chuẩn xã hội)
thành những lớp, những tầng xã hội xác định mà ở đó, người trên có quyền áp đặt ý
chí với người dưới còn người bên dưới phải phục tùng, thực hiện ý chí của người
trên.
Trong gia đình, kể cả những gia đình hiện đại, quan hệ giữa các thành viên
khá dân chủ, bình đẳng, song do những quy chuẩn xã hội, người chủ gia đình vẫn có
quyền áp đặt ý chí của mình lên những người khác, buộc những người khác thực
hiện ý chí của mình. Xây dựng và thực hiện một kế hoạch lao động, xác định nghề
nghiệp, chọn hướng học hành của cháu con; quyết định sinh con, kế hoạch hoá gia
đình, làm nhà hoặc mua sắm đồ dùng có giá trị cao... Người chủ gia đình thường là
6


người quyết định. Các thành viên phải chấp hành. Ở đây, quyền lực phân chia không
phải theo địa vị giai cấp xã hội mà theo vị thế mà người ta được sắp xếp vào trong
gia đình dựa trên cơ sở của tuổi tác, thứ bậc huyết thống, quan hệ về hôn nhân...
Cũng như vậy, với dòng họ, quyền lực của người trưởng họ cũng không do địa

vị giai cấp của người đó quy định mà chủ yếu do những quy chuẩn xã hội có tính thứ
bậc mà tôn ti, trật tự từ trong quá trình xác lập một dòng họ nào đó đã tạo ra. Chính
vì vậy, nhiều khi, trong dòng họ, người trưởng họ tuy không thuộc giai cấp cầm
quyền, song khi ra một quyết định nào đó cho dòng họ của mình, thì mọi thành viên
thuộc dòng họ phải thực hiện cho dù thành viên trong dòng họ có được xếp ở vị trí
cao đến đâu trong thang bậc quyền lực nhà nước. Đấy là những lĩnh vực mà xã hội
học tiếp cận nghiên cứu.
Ngoài ra, xã hội học còn nghiên cứu mối tương tác giữa hệ thống quyền lực
nhà nước với những hệ thống quyền lực xã hội khác tồn tại ngoài quyền lực nhà
nước. Chính điều này khiến cho quyền lực được xã hội học nghiên cứu rộng hơn,
bao trùm hơn, toàn diện hơn quyền lực mà chính trị học nghiên cứu. Theo cách tiếp
cận này, xã hội học khi nghiên cứu quyền lực xã hội trong xã hội nông thôn Việt
Nam hiện nay không chỉ nghiên cứu về hệ thống chính trị hiện tại với các thành tố là
Đảng, Chính quyền nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội... mà còn nghiên cứu các
loại hình quyền lực khác đang tồn tại trong những thiết chế xã hội như gia đình,
dòng tộc, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tôn giáo... Từ hướng tiếp cận này xã hội học
xác định mẫu hình hành vi chính trị của các cá nhân trong những điều kiện và hoàn
cảnh xác định. Đây là điểm khác biệt giữa xã hội học và chính trị học.
Xã hội học chính trị có mối liên hệ như thế nào với chính trị học và xã hội
học? Xã hội học chính trị nằm ở đâu, thuộc về cái gì? Thuộc về xã hội học hay chính
trị học? ở một cách nhìn khác, lại không thể không thấy, chính trị là đối tượng
nghiên cứu của nhiều khoa học. Vậy giữa chính trị học và xã hội học, đâu là những
điểm khác biệt trong tiếp cận - nghiên cứu và trình bày về chính trị? Nhận biết
những mối liên hệ này sẽ có thể tìm thấy quan niệm và những đặc điểm của xã hội
học chính trị.
Có thể có những nhận xét sau đây:

7



Thứ nhất, xã hội học chính trị là một phân hệ, một chuyên ngành của xã hội
học. Nó có thể được nhìn nhận như một xã hội học chuyên biệt nằm trong cơ cấu
tổng thể của xã hội học, là phái sinh của xã hội học đại cương.
Hình dung cụ thể hơn, xã hội học chính trị là khoa học nghiên cứu mặt xã hội
của chính trị, của đời sống chính trị dựa trên các quan điểm, nguyên lý và phương
pháp xã hội học. Nếu xã hội học đại cương vạch ra lý luận và phương pháp nghiên
cứu về tổ chức và cơ cấu xã hội, các quan hệ xã hội giữa người và người trong hoạt
động - hành vi, giao tiếp - ứng xử, các động thái và xu hướng biến đổi của xã hội,
của các tập hợp xã hội (nhóm lớn và nhóm nhỏ), của các cộng đồng, tính cơ động xã
hội, các chuẩn mực đánh giá xã hội, các diễn biến về dư luận và phản ứng xã hội đối
với các sự kiện xã hội và hành vi con người (người cầm quyền và dân thường) thì
các xã hội học chuyên biệt (xã hội học lao động, xã hội học gia đình, xã hội học
nông thôn, xã hội học đô thị…) dựa trên lý luận và phương pháp xã hội học đi sâu
nghiên cứu các vấn đề hay khía cạnh xã hội của từng lĩnh vực hoạt động, từng đối
tượng - chủ thể trong các lĩnh vực hoạt động đó, từ đó đưa ra những đề xuất, khuyến
nghị hay những dự báo về quản lý, về chính sách, về tổ chức hoạt động và đời sống
của con người và xã hội.
Xã hội học chính trị là một kiểu, một dạng cụ thể - đặc thù trong cái chung,
phổ biến của xã hội học. Đó là xã hội học chuyên biệt về chính trị.
Có những chuyên biệt xã hội học tương ứng với từng lĩnh vực hoạt động của
đời sống mà cũng có những chuyên biệt xã hội học nghiên cứu về cơ cấu, hình thái
hoạt động lao động đặc thù: xã hội học văn hoá, xã hội học khoa học, xã hội học
nghệ thuật, xã hội học tôn giáo, xã hội học chính trị vừa nghiên cứu lĩnh vực hoạt
động chính trị vừa nghiên cứu các quan hệ xã hội trong tổ chức - thiết chế - thể chế
chính trị, con người và nhân cách chính trị.
Ngành xã hội học ở nước qua nhiều thập kỷ hoạt động đã bắt đầu định hình và
phát triển, tuy vẫn muộn và chậm.
Dường như chưa có sự quan tâm đầy đủ, thường xuyên hoặc chưa đẩy mạnh
nghiên cứu cả lý thuyết cơ bản lẫn ứng dụng - thực hành và dự báo những xã hội học
chuyên biệt như xã hội học giáo dục, xã hội học khoa học, xã hội học văn hoá, xã

hội học chính trị. Như đã nói, chậm nhất ở nước ta là xã hội học chính trị.
8


Thứ hai, xã hội học chính trị không chỉ là một nhánh của xã hội học mà còn
liên hệ mật thiết, tất yếu với chính trị học. Sẽ không thể hình thành xã hội học chính
trị như một khoa học nếu thiếu chính trị học.
Chính trị học là một khoa học lý thuyết, phổ quát về chính trị, quá trình chính
trị và hoạt động chính trị. Chính trị học được ví như triết học xã hội học của chính
trị, nó đem lại những phân tích và khái quát lý luận về bản chất, cấu trúc, đặc trưng,
xu hướng vận động và phát triển của chính trị theo các lớp quan hệ chủ yếu sau đây:
- Quan hệ lợi ích và quyền lực chính trị.
- Quan hệ thiết chế và thể chế chính trị.
- Quan hệ hoạt động và vận động chính trị.
- Quan hệ thời gian và không gian chính trị (tạo thành quá trình chính trị)
Các lớp quan hệ nêu trên thể hiện trong đời sống chính trị đều liên hệ mật
thiết và xác định với các chủ thể và đối tượng chính trị, sự kiện và tình huống chính
trị, mục đích và phương tiện, động cơ và hành vi chính trị với những hình thái lịch
sử - cụ thể. Những nội dung và những tri thức của chính trị học đó là cơ sở lý luận –
tư tưởng của xã hội học chính trị. Nó được xem như cái cốt vật chất của xã hội học
chính trị. Dựa trên “nguồn lực” này, xã hội học chính trị bằng phương pháp, thủ
pháp xã hội học, tạo dựng và thiết kế nên nội dung nghiên cứu, tìm ra cái lô gích
nghiên cứu thuộc về đối tượng nghiên cứu của mình.
Mặt xã hội, phương diện xã hội, các yếu tố, khía cạnh, vấn đề xã hội của đời
sống chính trị, của hoạt động chính trị, của con người và tổ chức chính trị chính là
miền hoạt động của xã hội học chính trị.
Vậy là, xã hội học chính trị ra đời như là một tái cấu trúc từ xã hội học và
chính trị học tạo thành một cấu trúc riêng của mình. Xã hội học chính trị là một tổng
hợp liên ngành những tri thức lý luận và phương pháp của chính trị học và xã hội
học. Nó là một tổng hợp, tích hợp chứ không phải là một tổng số số học, một phép

cộng giản đơn, cơ giới giữa xã hội học với chính trị học.
Xã hội học chính trị sử dụng, vận dụng các quan điểm, nguyên tắc, phương
pháp xã hội học để đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ bản chất xã hội của chính trị, đời
sống chính trị, hoạt động chính trị của con người và của các tổ chức, lực lượng chính
trị trong một cơ cấu xã hội chỉnh thể.
9


Quan hệ giữa xã hội học chính trị với chính trị học là một quan hệ tác động
tương hỗ biện chứng, nhân quả xét về mặt nội dung lý luận. Chính trị học cung cấp
cho xã hội học chính trị những kiến giải về bản chất của chính trị và quyền lực chính
trị, những tính quy luật của sự xuất hiện, phát triển, biến đổi của quyền lực chính trị,
từ đó xã hội học chính trị xem xét những tác nhân xã hội, sự biểu hiện về mặt xã hội
của chính trị và quyền lực chính trị đó, làm sâu sắc hơn những đảm bảo xã hội của
việc thực thi, giữ vững quyền lực của chủ thể quyền lực. Nhờ có xã hội học chính trị
mà chính trị học có thêm những cơ sở sinh động về mặt xã hội để làm sâu sắc hơn lý
luận của mình.
Quan hệ này không phải là quan hệ phái sinh của xã hội học đối với xã hội
học chính trị.
Cả chính trị học và xã hội học chính trị đều nằm trong tập hợp của các khoa
học chính trị. Từ những khoa học độc lập mà hợp thành hệ thống.
Quan niệm này có cơ sở của nó, bắt đầu từ một tiền đề: phải phân biệt và phân
định chính trị - chính trị học và khoa học chính trị, chúng thống nhất mà không đồng
nhất.
Hệ luận rút ra ở đây là gì? là với các vấn đề của chính trị, việc nghiên cứu nó
với tư cách là nghiên cứu khoa học sẽ không dừng lại ở nghiên cứu chuyên biệt,
chuyên ngành mà tất yếu phải mở rộng theo hướng liên ngành, theo quan điểm phức
hợp, hệ thống, nhiều chiều.
Xã hội học chính trị với tư cách là một khoa học mang tính liên ngành (xã hội
học, chính trị học), nó vừa thực hiện những nghiên cứu cơ bản vừa hướng tới mục

đích thực tiễn là nghiên cứu ứng dụng. Nó nghiên cứu cơ sở xã hội, tính liên kết xã
hội, năng lực xã hội của hoạt động chính trị của con người, cá nhân, tổ chức và cộng
đồng.
Những nghiên cứu về đoàn kết dân tộc, đồng thuận xã hội, giải quyết mâu
thuẫn, xung đột xã hội, phát triển dân chủ xã hội, phát huy nguồn lực xã hội của
chính trị đó là những vấn đề mà xã hội học chính trị có lợi thế và ưu thế để giải
quyết.
2. Những vấn đề nghiên cứu của xã hội học chính trị

10


Với tư cách là một khoa học, xã hội học chính trị cũng mọi các khoa học khác
đều có nội dung nghiên cứu của mình trên hai phương diện: lịch sử và lý luận.
Xã hội học chính trị có cơ sở phương pháp luận chung, đó là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học và trong chủ nghĩa MácLênin. Nó cũng đồng thời dựa trên cơ sở phương pháp luận ngành và chuyên ngành,
chung đúc từ xã hội học và chính trị học.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học chính trị là điểm giao nhau, là chỗ giao
thoa giữa xã hội học và chính trị học.
Xã hội học chính trị phải khai thác triệt để từ xã hội học những tư tưởng về xã
hội và cơ cấu xã hội, hoạt động, hành vi của chủ thể con người xã hội, từ cá nhân tới
cộng đồng.
Xã hội học chính trị đồng thời tựa vào chính trị học trên những vấn đề về
quyền lực, cầm quyền và thực thi quyền lực của chủ thể được uỷ quyền cũng như
thái độ và hành vi xã hội của số đông dân chúng khi uỷ quyền, giao quyền cho
những người cầm quyền và tổ chức thực thi quyền lực của chính mình.
Theo đó, nói tới nghiên cứu lý luận của xã hội học chính trị không thể không
nói tới việc nghiên cứu tập hợp chính trị, hành vi chính trị, sự kiện và quá trình
chính trị, tác động của các nhân tố xã hội tới tổ chức và hoạt động của chính trị, của
hệ thống chính trị trong xã hội, trong đời sống chính trị của xã hội.

Diện mạo xã hội học chính trị như vậy sẽ được hình dung như thế nào? Nói
một cách khác, xã hội học chính trị nghiên cứu cái gì và nghiên cứu như thế nào từ
những mối quan hệ nêu trên giữa xã hội học chính trị với xã hội học và chính trị học.
Các vấn đề mà xã hội học chính trị nghiên cứu đều xoay quanh hoạt động
chính trị của những cá nhân, nhóm, lực lượng xã hội với những thúc đẩy từ động cơ
và lợi ích khác nhau, do đó cũng khác nhau về thái độ và hành vi, những phản ứng
và hiệu quả xã hội khác nhau đối với chính trị.
Trong những vấn đề ấy nổi lên mối quan hệ giữa chính trị và xã hội.
Giải quyết mối quan hệ này là chỗ đến của các vấn đề nghiên cứu đặt ra từ
chỗ đứng của xã hội học chính trị. Dù rất quan trọng nhưng chính trị không phải là
tất cả xã hội, nó chỉ là một lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.

11


Dù chính trị, từ chủ thể quyền lực đến hệ thống tổ chức bộ máy và thể chế của
nó có thể tác động tới các lĩnh vực của đời sống nhưng chính trị không phải là duy
nhất.
Các nhà lãnh đạo nói chung, dù là tinh hoa, ưu tú, đặc sắc được xã hội lựa
chọn ra nhưng bộ phận này của nguồn nhân lực cũng chỉ có thể tác động, dẫn dắt tổ
chức hành động chứ không thể làm thay dân chúng trong cộng đồng xã hội. Nhà
nước dù là một nhà nước mạnh, thực quyền cũng không trùm lên xã hội, không ở
bên ngoài xã hội mà ở trong, là một bộ phận của xã hội. Thể chế luật pháp có thể
hoàn thiện và giả định rằng, nó đạt tới sự tối ưu đi nữa thì chỉ riêng luật pháp cũng
không đủ để giải quyết mọi vấn đề, mọi quan hệ xã hội trong xã hội. Cùng với luật
pháp, xã hội cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ của đạo đức, của dư luận xã hội. Pháp luật
chỉ trừng trị được hành vi phạm tội chứ không xét xử được cái xấu, cái ác trong đời
sống. Phải dùng đạo đức để phòng chống và sự lên án của dư luận xã hội đối với cái
xấu, cái ác để tăng cường cái thiện, cái nhân tính.
Chính trị không chỉ cần đến sức mạnh quyền lực, quyền uy và sự bảo vệ của

pháp luật. Nó còn cần được nhân văn hoá, văn hoá hoá bằng cách làm cho đạo đức
thấm vào trong chính trị, trong khi sức mạnh vật chất của chính trị, trước sau vẫn là
và chỉ là kinh tế.
Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy vấn đề phải làm cho chính trị thấm sâu vào đời
sống dân gian, nói theo ngôn ngữ ngày nay là xã hội hoá chính trị.
Do xã hội rộng hơn chính trị, mà xã hội là tập hợp những con người, quan hệ
con người, là đời sống loài người, là quan hệ giai cấp - dân tộc và nhân loại nên vấn
đề cần được xác định là chính trị nằm trong xã hội, Đảng - Nhà nước - các tổ chức
chính trị là những yếu tố cấu thành của hệ thống chính trị nằm trong xã hội, tồn tại vì
xã hội chứ không tự lấy mình làm cứu cánh.
Xu hướng phát triển dân chủ và tăng cường hiệu lực pháp luật của nhà nước
pháp quyền đặt ra một đòi hỏi khách quan là hoạt động chính trị của con người và tổ
chức phải chịu sự ràng buộc, điều tiết của luật. Theo ý nghĩa thể chế, một cơ chế dân
chủ phải đồng thời là cơ chế lấy luật làm chuẩn mực, lẽ dĩ nhiên đó phải là luật pháp
dân chủ, tiến bộ. Hợp pháp, hợp hiến, có cơ chế bảo hiến và có các chế tài xử lý vi

12


hiến là yêu cầu thường trực đối với hành vi chính trị. Chỉ có thể xã hội hoá chính trị
chứ không thể chính trị hoá xã hội.
Đây là vấn đề rất đáng phải nghiên cứu từ góc nhìn xã hội học chính trị, nhất
là xã hội học chính trị nghiên cứu dân chủ và pháp quyền trong xã hội đương đại. Xã
hội học chính trị cũng có thể và cần phải làm sáng tỏ quan niệm và quan hệ giữa xã
hội hoá chính trị với xã hội học chính trị.
Các vấn đề đã nêu trên, từ tập hợp chính trị - hành vi chính trị đến sự kiện và
quá trình chính trị đều liên quan tới xã hội hoá chính trị. Tính tích cực chính trị - xã
hội của mỗi công dân với tư cách con người chính trị tuỳ thuộc vào mức độ và hiệu
quả giải quyết vấn đề xã hội hoá chính trị như thế nào cho phù hợp với các nguyên
tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ, tự do, bình đẳng.

Dân chủ hoá xã hội gắn liền mật thiết với xã hội hóa chính trị, nó thực sự là
điều kiện đảm bảo cho quá trình xã hội hoá chính trị một cách lành mạnh, tích cực.
Chỉ như vậy, phương châm “nhà nước nhỏ hơn, xã hội lớn hơn”, nhà nước ít hơn, xã
hội nhiều hơn mới được thực hiện. Và, xã hội công dân, đời sống xã hội dân sự là cơ
sở xã hội của nhà nước pháp quyền, của sự phát triển dân chủ và nâng cao tính chủ
động, quyền tự quyết, tự quản của dân và cộng đồng dân cư. Đó là những vấn đề mà
xã hội học chính trị phải quan tâm nghiên cứu một cách thực chất, thấu đáo
3. Đối tượng nghiên cứu cụ thể của xã hội học chính trị
Đối tượng cụ thể của xã hội học chính trị là gì? Đây là vấn đề còn không còn
ít tranh cãi.
Theo Gaston Bouthoul trong cuốn: "Xã hội học chính trị" xuất bản ở Paris
năm 1967, thì xã hội học chính trị là khoa học: "Nghiên cứu các chế định và các hiện
tượng chính trị có liên quan đến các hiện tượng xã hội khác, coi đó như những sáng
tạo của những hành vi chính trị đặc trưng có thể quan sát được ở xã hội loài người
như sự phát sinh các nguồn dư luận, các hiện tượng lây lan về tinh thần, các xung
đột tập thể, các tín ngưỡng tôn giáo và các dạng thức về tư tưởng"1.
Theo quan điểm này, xã hội học chính trị là chuyên ngành xã hội học nghiên
cứu thiết chế chính trị và các sự kiện, hiện tượng chính trị trong mối liên quan đến
các thiết chế và các hiện tượng xã hội khác. Trên cơ sở này mà làm rõ những hành vi
1

Gaston Bonthoul: Xã hội học chính trị, Nxb Paris, 1967, bản dịch của Viện XHH thuộc Viện Hàn

13


chính trị đặc trưng ở con người. Từ đó giải thích chính xác hơn về những sự kiện và
quá trình chính trị thực tế.
Theo từ điển tóm tắt xã hội học phương Tây hiện đại thì xã hội học chính trị
được coi là ngành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về các quan hệ qua lại giữa

chính trị với những lĩnh vực xã hội khác, giữa thiết chế chính trị với những thiết chế
xã hội khác. Đây là quan niệm chỉ nhấn mạnh chiều cạnh quan hệ giữa thiết chế
chính trị với các thiết chế khác như thiết chế kinh tế, thiết chế văn hoá, thiết chế tôn
giáo và thiết chế gia đình... Nội hàm cụ thể hơn của xã hội học chính trị, vì vậy, chưa
được làm rõ, nhất là những vấn đề liên quan đến các mô hình hành vi chính trị của
người ta - cái mà xã hội học thường coi là vấn đề cơ bản, cần tập trung nghiên cứu.
Ngoài ra, tập thể tác giả do Tony Bilton đứng đầu, trong cuốn nhập môn xã
hội học do nhà xuất bản Macmillan ấn hành năm 1981 đã đưa và định nghĩa về xã
hội chính trị như sau: Xã hội học chính trị là "sự nghiên cứu hành vi chính trị bên
trong một bối cảnh xã hội, mối quan hệ của chính trị với toàn bộ cấu trúc xã hội mà
nó bị gắn vào trong đó... Hành vi chính trị chủ yếu là hành vi quyền lực, nó không
hề bị bó hẹp trong các thiết chế hoặc hình thức chính phủ đặc biệt mà hiện diện
trong bất cứ tình huống xã hội nào"1.
Theo định nghĩa này, xã hội học chính trị là chuyên ngành xã hội học nghiên
cứu về hành vi chính trị của con người. Hành vi này được quy định bởi kết cấu xã
hội và kết cấu quyền lực xã hội cũng như tương tác của con người trong hệ thống kết
cấu xã hội này. Đây là định nghĩa có nhiều hạt nhân hợp lý hơn cả vì nó đã đề cập
đến vấn đề chính yếu nhất của xã hội học chính trị - hành vi chính trị.
Tiếp thu tư tưởng của những tác giả đã nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa sau
đây về xã hội học chính trị: Xã hội học chính trị là một chuyên ngành của xã hội học
nhằm nghiên cứu hành vi chính trị của người nắm quyền lực và người không nắm
quyền lực trong mối quan hệ tương tác của các nhóm và giai tầng xã hội mà trong
đó hành vi chính trị của người ta được xác lập trên cơ sở người ta hội nhập thế nào
vào cấu trúc quyền lực dưới sự tác động tương hỗ của các thiết chế nhà nước với
các thiết chế xã hội khác như: văn hoá, giáo dục, tôn giáo, gia đình...

1

Tony Bilton và cộng sư: Nhập môn xã hội học, Nxb Macmillan, 1981, bản dịch tiếng Việt của
Viện xã hội học thuộc Viện KHXH và NV Việt Nam, tr...


14


Định nghĩa này cho thấy không chỉ đối tượng chính yếu của xã hội học chính
trị là hành vi chính trị có tính khuôn mẫu của con người mà còn cho thấy những đối
tượng cụ thể mà xã hội học chính trị cần đi sâu nghiên cứu. Ở đây, hành vi chính trị
có tính khuôn mẫu của người ta chính là cách thức tư duy và hành động của họ trong
cuộc đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực xã hội. Hành vi chính trị khuôn mẫu
này thường được hình thành từ việc người ta đang hội nhập vào nhóm xã hội này,
hay nhóm xã hội khác, nhóm nắm quyền lực và nhóm không nắm quyền lực xã hội?
Với nhóm nắm quyền lực xã hội, thường người ta có hai loại hình hành vi là
dân chủ hoặc độc tài. Với nhóm không nắm quyền lực xã hội, thường có hai loại
hành vi là phục tùng hoặc chống đối. Như vậy, nghiên cứu về quyền lực dưới góc
nhìn xã hội học là nghiên cứu bốn loại hành vi chính trị có tính khuôn mẫu của con
người: dân chủ và độc tài, phục tùng và chống đối.
Tuy nhiên, để làm rõ bốn loại hành vi có tính khuôn mẫu này, xã hội học
chính trị phải đi sâu nghiên cứu về hệ thống xã hội và hệ thống quyền lực xã hội
cũng như mối tương quan giữa chúng. Đây là cách tiếp cận điển hình mà xã hội học
thường sử dụng. Theo hướng này, xã hội học chính trị nghiên cứu những vấn đề cụ
thể sau đây:
Thứ nhất: Các tập hợp chính trị. Đây chính là những nhóm xã hội mà sự liên
kết của các thành viên trong nhóm chủ yếu dựa trên một hệ thống quyền lực xác
định. Thông thường quyền lực xã hội được thực thi dưới ba dạng: bạo lực, quyền lực
kinh tế và sự áp chế về tinh thần. Các tập hợp chính trị, vì vậy, cũng có thể được
phân loại dựa vào phương thức thực thi quyền lực này. Ví dụ một đơn vị quân đội
cần tổ chức hệ thống quyền lực dựa trên những mệnh lệnh hành chính và sức mạnh.
Còn một tập thể lao động (đội sản xuất) lại dựa vào áp lực kinh tế như điều tiết hành
vi chính trị của người ta thông qua tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi xã hội. Riêng
với tổ chức Đảng chính trị thì quyền lực được duy trì thông qua sự giác ngộ lý tưởng

và thông qua những nguyên tắc tổ chức mà mọi thành viên đã cam kết thực hiện.
Điều này cho thấy, nghiên cứu các tập hợp chính trị, xem xét kiểu kết cấu và phân
chia quyền lực trong chúng là bộ phận quan trọng đầu tiên của xã hội học chính trị.
Thứ hai: Hệ thống chính trị. Xã hội học nghiên cứu về hệ thống xã hội, do
vậy, xã hội học chính trị phải nghiên cứu về hệ thống chính trị. Ở đây, hệ thống
15


chính trị phải được xem xét dưới hai góc độ: một là, các yếu tố cấu thành cơ bản và
hai là, các kiểu quan hệ và liên hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị. Đây là
những yếu tố quan trọng của xã hội học chính trị. Bởi lẽ, nghiên cứu hệ thống chính
trị suy cho cùng là làm rõ đặc trưng của hệ thống ấy và chỉ rõ được những loại hành
vi chính trị mà hệ thống ấy tạo ra. Đây là những cơ sở quan trọng để phán xét hành
vi hợp chuẩn hay không hợp chuẩn của các vị trí xã hội khác trong hệ thống quyền
lực xã hội mà xã hội học chính trị phải hướng tới làm rõ.
Trong xã hội hiện nay, hệ thống chính trị mà xã hội học chính trị nghiên cứu
không chỉ gồm các thành tố như đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị xã
hội mà còn gồm cả những tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó có hiện diện mối
quan hệ và quyền lực như các công ty, tập đoàn kinh tế, những tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các tổ chức tôn giáo, dòng tộc... Cao hơn nữa, để xem xét những loại mô
hình hành vi chính trị tiêu biểu cho một nhóm, một cộng đồng xã hội, xã hội học
chính trị còn nghiên cứu sự tương tác các quan điểm tư tưởng chính trị, các hệ thống
giá trị và chuẩn mực xã hội mà trên đó hình thành những cách thức hành động trong
cuộc đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực xã hội. Nghĩa là xã hội học chính trị
phải nghiên cứu mối tương quan giữa cơ cấu xã hội với hệ thống quyền lực xã hội để
làm rõ quy luật và tính quy luật chi phối hệ thống quyền lực xã hội cũng như những
sai lệch mà nó đang có. Đây cũng là yếu tố quan trọng để xét đoán về những hành vi
chính trị của cả người nắm quyền lực và người không nắm quyền lực trong xã hội.
Thứ ba: Mẫu hình hành vi chính trị của con người cũng là vấn đề mà xã hội
học chính trị nghiên cứu. Ở đây, ngoài việc làm rõ những khuôn mẫu hình vi dân chủ

hoặc độc tài ở những người nắm quyền lực và hành vi phục tùng hoặc chống đối ở
những người không nắm quyền lực, xã hội chính trị còn đi sâu nghiên cứu những
điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá, tâm lý, gia đình... tác động tạo nên mẫu hành vi
chính trị ở mỗi người, mỗi nhóm người, mỗi cộng đồng người. Ví dụ: Khi nghiên
cứu về hành vi chính trị của người phương Đông và những người phương Tây, các
nhà xã hội học chính trị thường quy về hai mẫu bình hành với cơ bản: Pháp trị với
phương Tây và Đức trị với phương Đông. Ở đây, yếu tố duy lý trong tư duy của
người phương Tây cộng với yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường từ sớm khiến
pháp trị là yêu cầu tất yếu ở phương Tây. Còn phương Đông sự phát triển của lịch sử
16


khá chậm chạp, cộng với yếu tố cộng đồng cao với sự tác động của yếu tố dòng tộc,
gia đình khiến cho mẫu hình "đức trị" chiếm ưu thế. Ngoài ra, những yếu tố khác
trong văn hoá gia đình, ảnh hưởng của nhóm ngang hàng, của ý thức hệ dân tộc, tôn
giáo khác nhau cũng tạo nên những sắc thái khác nhau trong hành vi chính trị ở
những con người mà xã hội học chính trị rất cần tiếp cận nghiên cứu.
Thứ tư: Sự kiện và quá trình chính trị cũng là đối tượng quan trọng của xã hội
học chính trị. Đây là yếu tố tạo nên những biến đổi chính trị quan trọng trong xã hội.
Nghiên cứu về vấn đề này, ngoài việc phân chia các sự kiện theo những đối tượng
khác nhau, quy mô khác nhau, mức độ và ảnh hưởng khác nhau, xã hội học chính trị
còn phải nghiên cứu làm rõ những yếu tố kinh tế, xã hội, tác động làm sự kiện nảy
sinh, phát triển. Ngoài ra, nghiên cứu về các sự kiện và quá trình chính trị, xã hội
học chính trị còn phải nghiên cứu xu hướng phát triển của nó để có những dự báo
cần thiết về khả năng diễn biến và ảnh hưởng của các sự kiện với quá trình chính trị
xã hội. Chính trên cơ sở này mà có những khuyến nghị và giải pháp chính xác để đối
phó kịp thời khi các sự kiện diễn ra, làm giảm tối đa những hiệu quả mà các sự kiện
chính trị có thể mang lại.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về hành vi chính trị có tính khuôn mẫu của con
người, xã hội học chính trị còn đi sâu vào phân tích, so sánh mối quan hệ tương hỗ

giữa thiết chế chính trị với những thiết chế xã hội khác. Đây là những cơ sở khách
quan, khoa học để xét đoán hành vi chính trị ở người này hay người khác trong các
tập hợp chính trị hay trong một cộng đồng xã hội xác định.
Ở đây tương tác giữa thiết chế nhà nước trong những xã hội có phân chia giai
cấp và thiết chế văn hoá, giáo dục, tôn giáo, gia đình,... có vai trò quan trọng tạo
dựng những mô hình hành vi của con người trong cuộc đấu tranh giành, giữ và thực
thi quyền lực xã hội: dân chủ hay độc tài, phục tùng hay chống đối. Đó là những yếu
tố quan trọng nhất hợp thành đối tượng cụ thể mà xã hội học chính trị nghiên cứu:
4. Chức năng, nhiệm vụ của xã hội học chính trị
a) Chức năng của xã hội học chính trị
Cũng như các ngành khoa học xã hội khác, xã hội học chính trị có những chức
năng của nó. Có thể kể tới một số chức năng sau:

17


+ Chức năng nhận thức: Đây là chức năng quan trọng đầu tiên của tất cả các
khoa học nghiên cứu về chính trị. Với xã hội học chính trị, chức năng này liên quan
đến việc xã hội học thông qua điều tra, khảo sát mà cung cấp những thông tin thực tế
và hệ thống quyền lực xã hội, mối quan hệ của những thành tố trong hệ thống quyền
lực này. Trên cơ sở đó mà xác định chính xác các mô hình hành vi chính trị mà mỗi
chủ thể xã hội hay cộng đồng phải có trong cuộc đấu tranh giành, giữ và thực thi
quyền lực. Những thông tin mà điều tra xã hội học cung cấp thường là những thông
tin đầy đủ, có tính đại diện, phản ánh các mặt khác nhau của đời sống chính trị xã
hội. Thông tin có được từ khảo sát điều tra cũng là những thông tin kịp thời, chính
xác, được phản ánh từ quảng đại quần chúng. Chính vì vậy xã hội học chính trị giúp
nhìn nhận rõ ràng hơn, chính xác hơn cả bản chất, kết cấu và những biểu hiện của
quyền lực xã hội, góp phần làm rõ những quy luật và tính quy luật chi phối hành vi
chính trị của mỗi chủ thể cũng như của cả cộng đồng xã hội.
Xã hội học, với hệ thống những lý thuyết của mình như lý thuyết hành vi, lý

thuyết hành động, lý thuyết hệ thống, lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết xung
đột... đã cung cấp những tri thức và cách thức tiếp cận để phân tích và làm rõ các sự
kiện và quá trình chính trị diễn ra trong xã hội. Đây là cơ sở quan trọng để đi sâu
phân tích bản chất của quyền lực xã hội, giúp người ta nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ
hơn về những mẫu hình hành vi chính trị mà người ta thường thực hiện trong quá
trình đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực xã hội.
+ Chức năng thực tiễn: Chức năng này liên quan đến vai trò của xã hội học
chính trị trong việc quản lý các quá trình xã hội - chính trị hiệu quả hơn. Ở đây, qua
việc điều tra, khảo sát, xã hội học chính trị sẽ cung cấp cho các nhà quản lý, lãnh đạo
những thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác để có những tri thức đúng đắn, đầy
đủ về thực trạng hệ thống chính trị, tâm tư nguyện vọng của các chủ thể xã hội và
những khuôn mẫu hành vi chính trị mà mỗi chủ thể thường có. Đây là cơ sở quan
trọng để các nhà lãnh đạo quản lý đưa ra những biện pháp quản lý phù hợp.
Cũng nhờ những thông tin thu được từ khảo sát điều tra, nhất là những điều
tra có tính cắt dọc, xã hội học chính trị giúp cho việc dự báo chính xác các sự kiện
và quá trình chính trị với cả quy mô, mức độ, xu hướng biến đổi của chúng. Đây

18


cũng là cơ sở quan trọng để các nhà lãnh đạo quản lý có thể chủ động, tích cực
chuẩn bị các phương án giải quyết kịp thời.
+ Chức năng giáo dục tư tưởng: Ở đây, xã hội học chính trị cùng các khoa
học chính trị khác cung cấp không chỉ thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về các sự
kiện, hiện tượng, quá trình chính trị - xã hội mà nó còn giúp các chủ thể chính trị
nhất là các nhà lãnh đạo, quản lý có cách tiếp cận và phân tích một cách khoa học
các vấn đề chính trị - xã hội đã, đang và sẽ có thể diễn ra. Đây là cơ sở quan trọng
giúp mỗi người, mỗi nhóm người, mỗi chủ thể có nhận thức, thái độ và cả hành vi
đúng đắn hơn với những vấn đề xã hội - chính trị đang đặt ra.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra, khảo sát, xã hội học chính trị khi công bố

kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho các chủ thể xã hội hiểu rõ hơn những vấn đề chính trị
- xã hội đang đặt ra và thái độ của các chủ thể xã hội khác. Tỷ lệ đồng tình hay phản
đối của mỗi nhóm xã hội hay của cộng đồng xã hội được nghiên cứu sẽ là yếu tố tác
động không nhỏ đến tư tưởng, thái độ của các nhóm người trong xã hội. Nó giúp cho
việc giải quyết về tư tưởng các vấn đề nhất là vấn đề mà các chủ thể còn phân vân,
chưa biết giải quyết theo hướng nào. Rõ ràng, xã hội học chính trị có chức năng
quan trọng trong giáo dục chính trị tư tưởng cho cộng đồng xã hội.
b. Nhiệm vụ của xã hội học chính trị
Từ những chức năng đã được xác định trên, có thể cụ thể hơn thành những
nhiệm vụ mà xã hội học chính trị phải thực hiện như sau:
Thứ nhất, cung cấp các thông tin đầy đủ, chính xác nhiều chiều, cạnh, có tính
đại diện cao góp phần làm rõ bản chất các hiện tượng quá trình chính trị và hành vi
chính trị của các chủ thể. Đây là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của xã hội học chính
trị. Nó bắt nguồn từ cách tiếp cận đặc thù của xã hội học chính trị, đó là điều tra,
khảo sát bằng cả định tính lẫn định lượng các sự kiện, quá trình chính trị.
Thứ hai, xã hội học chính trị góp phần làm rõ quy mô, mức độ, biểu hiện của
những sự kiện và quá trình chính trị. Ở đây, nhờ có các cuộc khảo sát, điều tra, xã
hội học chính trị sẽ cung cấp cho xã hội những số liệu thống kê cụ thể và những vấn
đề chính trị cần nghiên cứu thông qua ý kiến đánh giá của từng nhóm xã hội, từng
tầng lớp dân cư. Nhờ vậy, các nhà lãnh đạo quản lý và cả cộng đồng sẽ thấy rõ thực

19


trạng những vấn đề xã hội chính trị cần nghiên cứu qua những lăng kính đánh giá
của mỗi chủ thể.
Thứ ba, xã hội học chính trị cùng các khoa học chính trị khác vạch rõ những
quy luật và tính quy luật chi phối các quá trình xã hội - chính trị và chi phối hành vi
xã hội của con người. Đây tuy không phải là nhiệm vụ trực tiếp của xã hội học chính
trị song là vấn đề mà xã hội học chính trị có những đóng góp quan trọng. Ở đây, nhờ

những lý thuyết xã hội học mà xã hội học chính trị dựa vào, xã hội học chính trị sẽ
cung cấp cách thức phân tích, tiếp cận để làm rõ bản chất những vấn đề chính trị,
đồng thời giải thích rõ ràng nguồn gốc những loại khuôn mẫu hành vi chính trị mà
con người đã, đang hoặc sẽ thực hiện. Đây là nhiệm vụ thứ ba của xã hội học chính
trị.
Thứ tư, xã hội học chính trị tham gia dự báo và thực hiện các dự báo về các sự
kiện và quá trình chính trị cũng như khả năng biến đổi về hành vi chính trị của chủ
thể này hay chủ thể khác. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ mà xã hội học
chính trị phải thực hiện. Ở đây, nhờ những lý thuyết mà xã hội học dựa vào, nhờ
những thông tin thu được có tính hệ thống trong quá trình điều tra khảo sát, xã hội
học chính trị tham gia vào quá trình phân tích và dự báo. Thông thường những dự
báo mà các nhà xã hội học đưa ra là có độ chuẩn xác cao.
Thứ năm, cũng như những khoa học khác, xã hội học chính trị dựa trên những
thông tin thu được và dựa vào những lý thuyết xã hội học đã được xây dựng sẵn để
đưa ra các giải pháp và khuyến nghị nhằm cải tạo thực tiễn, đáp ứng những nhu cầu
quản lý các quá trình xã hội - chính trị một cách hợp quy luật. Giải pháp và khuyến
nghị mà các nhà xã hội học chính trị đưa ra thường rất sát hợp với tình hình thực tế
nhất là phù hợp với những ý kiến đã được đòi hỏi ở từng chủ thể. Đây có thể coi là
nhiệm vụ thứ năm của xã hội học chính trị.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ

1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tảng lý luận của bộ môn xã hội học chính trị
Là một bộ môn khoa học, xã hội học chính trị cũng như các khoa học khác
đều có nội dung nghiên cứu của mình trên hai phương diện: Lịch sử và lý luận.
Xã hội học chính trị có cơ sở phương pháp luận chung, đó là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học và trong chủ nghĩa Mác 20


Lênin. Nó cũng đồng thời dựa trên cơ sở phương pháp luận ngành và chuyên ngành,
chung đúc từ xã hội học và chính trị học.

Nếu xã hội học chính trị được coi là ngành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu
về hệ thống chính trị và hành vi chính trị, có tính khuôn mẫu của con người thì xã
hội học chính trị phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng lý luận của mình.
Trước hết phải khẳng định rằng, tuy các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin chưa bao giờ coi mình là các nhà xã hội học, song trong nhiều tác phẩm của
mình, các ông luôn đề cập và lý giải khá rõ ràng đến cả hai vấn đề cơ bản của xã hội
học: đó là vấn đề cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội và vấn đề biến đổi xã hội với những
kiểu mẫu hành vi xã hội của từng nhóm người, từng cộng đồng người. Trên những
vấn đề nghiên cứu này, các ông đã đề cập đến cơ cấu quyền lực xã hội và hành vi
chính trị của các nhóm, các tầng lớp xã hội hiện tồn trong đó.
Với hệ thống quyền lực xã hội, các ông đã chứng minh rằng lịch sử xã hội loài
người là lịch sử thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Mỗi hình thái kinh tế
- xã hội tồn tại trong sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trình
độ và tính chất của lực lượng sản xuất thế nào thì sẽ có những quan hệ sản xuất đặc
trưng như thế. Và điều này có nghĩa là ai nắm được những tư liệu sản xuất chính
yếu, người đó sẽ nắm được nền sản xuất xã hội và nắm luôn cả quyền lực xã hội. Ở
đây cơ cấu kinh tế và cơ cấu thành phần thế nào thì sẽ có cơ cấu xã hội và cơ cấu
quyền lực xã hội tương ứng. C. Mác đã rất có lý khi khẳng định rằng: "Toàn bộ
những quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thưc
mà điều đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình
thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" 1. Đây là cơ sở quan
trọng để giải thích một cách khoa học theo quan điểm duy vật biện chứng về tất cả
những hiện tượng xã hội diễn ra ở kiến trúc thượng tầng như quan điểm chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã
hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị-xã hội...
Dựa trên những quan điểm lý thuyết này, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lênin đã chỉ rõ nguồn gốc những hành vi chính trị có tính khuôn mẫu mà mỗi
người, mỗi chủ thể phải có khi hội nhập vào xã hội. Hành vi này được quy định chủ
yếu do họ hội nhập vào những nhóm, những tầng của xã hội nào. Các ông cắt nghĩa,
1


C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1994, tập 13, tr.15.

21


sở dĩ xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sống hoà đồng trong tự do vì xã hội
được tổ chức trên nền tảng chế độ công hữu với lực lượng sản xuất còn hết sức thấp
kém. Chế độ dân chủ chủ nô, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa... thì xã
hội phân chia thành hai cực đối lập - thống trị và bị trị. Hành vi có tính khuôn mẫu
của những giai cấp thống trị chỉ có thể là dân chủ hoặc độc tài còn hành vi chính trị
của người bị trị chỉ có thể là phục tùng và chống đối. Dân chủ hay độc tài, phục tùng
hay chống đối phụ thuộc vào hoàn cảnh điều kiện về cả kinh tế, văn hoá, tư tưởng,
tôn giáo và thậm chí cả nhóm xã hội gia đình mà người ta được hội nhập vào. Nghĩa
là, hành vi chính trị của người ta thế nào về cơ bản, phụ thuộc chủ yếu vào những
nhóm và cộng đồng xã hội mà người ta hội nhập. Trong đó họ giữ vị thế xã hội nào
và đóng những vai trò nào trong đó có ý nghĩa quan trọng. Đây là những quan điểm
có tính nền tảng mà xã hội học chính trị tiếp thu để tiếp cận và phân tích hệ thống
chính trị, hành vi chính trị và các sự kiện quá trình chính trị trong đời sống xã hội.
2. Một số lý thuyết xã hội học - cơ sở nghiên cứu của xã hội học chính trị
Ngoài lý luận Mác - Lênin, xã hội học chính trị còn được xây dựng trên cơ sở
vận dụng một số lý thuyết cơ bản của xã hội học vào việc phân tích thực tiễn. Những
lý thuyết đó là thuyết hành vi, thuyết hành động, thuyết hệ thống, thuyết cơ cấu chức
năng...
Thực tế chứng minh rằng, để làm rõ hành vi độc tài hay dân chủ ở những
người nắm quyền lực cũng như hành vi phục tùng hay chống đối ở những người
không nắm quyền lực, cần phải dựa chắc vào cả lý thuyết hành vi lẫn lý thuyết hành
động. Ở đây, lý thuyết hành vi sẽ cho phép nhà nghiên cứu đi sâu phân tích những gì
chi phối hoạt động chính trị của con người từ trong tiềm thức và đặc biệt nhấn mạnh
những hệ thống giá trị chuẩn mực xã hội đã được người ta lĩnh hội, tiếp thu và biến
nó thành hệ chuẩn mực, giá trị của cá nhân để hành động. Ngược lại lý thuyết hành

động lại giúp nhà nghiên cứu hiểu rõ những nhu cầu, động cơ mà mỗi cá nhân hay
mỗi chủ thể khi thực hiện những hành động chính trị của mình đã tuân theo. Đây là
cơ sở quan trọng để chúng ta phân tích, tìm hiểu, điều tra, khám phá những yếu tố
bên trong và bên ngoài thúc đẩy người ta hoạt động chính trị. Nhiều khi phân tích
chỉ một sự kiện, một hiện tượng hay một hành động chính trị của người ta, chúng ta
phải kết hợp cả hai lý thuyết này để làm rõ trong sự kiện, hiện tượng hay hành động
22


nào đó thì phần nào thuộc yếu tố tự giác bên trong, phần nào do sự thúc đẩy từ bên
ngoài.
Cũng như vậy, với lý thuyết hệ thống và lý thuyết cơ cấu chức năng, xã hội
học chính trị khi nghiên cứu, tìm hiểu về hệ thống chính trị và hành vi chính trị
không thể không dựa vào hai lý thuyết này. Ở đây, lý thuyết hệ thống sẽ cho ta cách
nhìn toàn diện, biện chứng về những cấu thành và cách thức quan hệ, liên hệ của
những cấu thành này trong một hệ thống chính trị xác định. Đây là cách tiếp cận mà
xã hội học chính trị sử dụng để góp phần tìm hiểu làm rõ những đặc trưng của hệ
thống quyền lực xã hội.
Lý thuyết cơ cấu chức năng thì dựa vào sự phân tích và vị thế, vai trò của từng
thành tố trong hệ thống xã hội để xem xét cơ cấu quyền lực xã hội được phân bố thế
nào giữa các chủ thể của hệ thống. Trên cơ sở này mà xét đoán những hành vi có
tính chức năng của từng chủ thể trong hệ thống kết cấu đó. Đây cũng là một cách
tiếp cận đặc thù mà xã hội học chính trị sử dụng để phân tích hành vi có tính đặc
trưng của mỗi chủ thể trong mối liên hệ và quan hệ biện chứng mà hệ thống quyền
lực xã hội xác định đã tạo ra.
Hai lý thuyết, hệ thống và cơ cấu chức năng, vì vậy, trở thành những cơ sở
quan trọng về mặt lý luận để xã hội học chính trị đi sâu tìm hiểu sự vận động biến
đổi của các loại hệ thống quyền lực xã hội cũng như những loại mô hình hành vi
chính trị mà mỗi hệ thống chính trị đã tạo ra.
3. Những phương pháp nghiên cứu của xã hội học chính trị

Là một khoa học, xã hội học chính trị cũng như các khoa học khác đều có nội
dung nghiên cứu của mình trên hai phương diện lịch sử và lý luận.
+ Phương pháp luận chung
Xã hội học chính trị có cơ sở phương pháp luận chung, đó là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin. Nó cũng
đồng thời dựa trên cơ sở phương pháp chuyên ngành, chung đúc từ xã hội học và
chính trị học.
+ Phương pháp chuyên ngành

23


Phương pháp phân tích tài liệu (bao gồm phương pháp phân tích định tính và
phương pháp phân tích định lượng); phương pháp quan sát; phương pháp phát vấn;
phương pháp thực nghiệm…

24


CHƯƠNG 2
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ

Là một chuyên ngành của xã hội học, xã hội học chính trị ra đời do yêu cầu của
bản thân sự vận động xã hội. Với vai trò, chức năng nghiên cứu xã hội trong tính
chỉnh thể và hệ thống, xã hội học chính trị đi sâu nghiên cứu quan hệ quyền lực giữa
con người và con người, giữa các nhóm xã hội. Bắt đầu từ thế kỷ XIX, xã hội học
với tư cách là một khoa học được ra đời và phát triển mạnh mẽ. Xã hội học chính trị
được ra đời muộn hơn, ở đầu thế kỷ XX. Tuy vậy, những tư tưởng xã hội học chính
trị thì đã xuất hiện từ rất sớm nhằm để tìm hiểu, khám phá bí mật của các hiện tượng
và các quá trình chính trị; làm rõ thực chất của quyền lực chính trị và phương thức

thực hiện nó. Sau đây, chúng ta tìm hiểu lịch sử của tư tưởng xã hội học chính trị
cùng với những đóng góp của một số nhà tư tưởng tiêu biểu.
I. TƯ TƯỞNG XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ THỜI KỲ CỔ ĐẠI …)
Những tư tưởng xã hội học chính trị được hình thành gắn liền với hệ thống các
quan điểm: triết học, chính trị, tôn giáo… của các nhà tư tưởng. Tuy tiếp cận các sự
kiện và quá trình chính trị bằng phương pháp của xã hội học một cách không tự giác,
song những tư tưởng của các đại biểu này đã đặt cơ sở đầu tiên cho việc nghiên cứu
xã hội học chính trị.
1. Khổng Tử (551 – 479 TCN)
Là nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại, người khởi xướng học thuyết chính trị Đức
trị nổi tiếng. Sinh ra và chứng kiến thời kỳ lịch sử có nhiều biến động (thời Xuân
thu- Chiến quốc) nên Khổng Tử rất quan tâm tới những vấn đề xã hội cơ bản như:
thiết chế xã hội, phương pháp cai trị (để đảm bảo sự bình ổn xã hội), tư cách của
người cầm quyền…
Nghiên cứu cơ cấu xã hội đương thời, Khổng Tử đã chia các thành viên xã hội
thành hai hạng người là quân tử và tiểu nhân và ông cũng xác định chuẩn giá trị
cho hai hạng người đó. Quân tử là những người có đủ các phẩm chất về Nhân- Trí –
Dũng. Nhân là lòng nhân ái (tình yêu thương con người với nhau). Trí là trí tuệ, hiểu
biết của con người. Dũng là dũng cảm, không chùn bước trước khó khăn, thử thách.
Còn tiểu nhân thì ngược lại, là những kẻ thấp hèn, không có hiểu biết và tư cách đạo
đức tầm thường (chỉ nhân dân lao động thời bấy giờ).
25


×