Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CHUYÊN ĐỀ “MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN KIẾN THỨC LỊCH SỬ LỚP 12”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.74 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………..
TRƯỜNG ………………..

CHUYÊN ĐỀ
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN KIẾN THỨC
LỊCH SỬ LỚP 12”

Tác giả: ……………….
Đơn vị : ………………………

Năm học ……………..
1

1


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài ..........................................................................................3
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài ...........................................................................6
3. Đối tượng, …… ............................................................................................6
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài .........................................................................6
5. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 9
NỘI DUNG ................................................................................................... 10
Phần A . Nêu thực trạng của vấn đề ............................................................10
1. Thuận lợi ................................................................................................... 10
2. Khó khăn ................................................................................................... 10
Phần B . Mơ tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính................... 11
I. Sử dụng sơ đồ tư duy và tổ chức trị chơi trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thơng ...................................................................................................... 11
1 Thực trạng vấn đề....................................................................................... 11


2 Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy ........................................ 14
3 Tiến trình 1 tiết dạy theo sơ đồ tư duy........................................................ 16
4 Áp dụng 1 số trò chơi để truyền đạt kiến thức lịch sử................................ 18
Phần C. Kết quả và bài học kinh nghiệm ................................................. 21
1. Kết quả....................................................................................................... 21
2. Bài học kinh nghiệm.................................................................................. 22
KẾT LUẬN ...................................................................................................24
2

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài, thuận lợi và khó khăn
Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp
dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều
trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội
thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện
tại khơng ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”
Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc
cho học sinh chép, đọc hoặc ghi lên bảng một sự kiện lịch sử, một số yếu tố
địa lý, đoạn thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này khơng có nghĩa là
giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”.
Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ
Giáo dục và Đào tạo chủ trương hạn chế việc dạy học thụ động, nghĩa là
chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên
lớp.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, sự phát triển của nhận thức
cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khn trong dạy học, dễ có tư tưởng
phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc

tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh
trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo
cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không
động não suy nghĩ, khơng biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, khó vận dụng kiến
thức vào cuộc sống.
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học
thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy
vào bài làm, khơng có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc
khơng sáng tạo, khơng thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc khơng dám thể
hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức
3

3


theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và
mang tính áp đặt.
Vậy tại sao Giáo viên lại thích “ đọc” cho Học sinh “chép”
Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong
một tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm
tra bài cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoảng 30 phút
để giảng bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”.
Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ
động trong học tập nên cũng có thầy cơ chọn cách đọc bài, học trị chép bài.
Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ
cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao…
Cũng còn một số giáo viên khơng chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài
dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất
sức, cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng
lại ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa

không tốn sức.
Trang thiết bị và các phịng học chức năng khơng đủ hoặc khơng có để
đáp ứng nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh khơng có
nhiều điều kiện để thực hành hoặc học theo phương pháp trực quan sinh động.
Khắc phục tình trạng nhàm chán trong dạy học là một yêu cầu cần
thiết để nâng cao chất lượng dạy học đối với tất cả các mơn học. Đó là một
nhiệm vụ vơ cùng khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều
trường. Thực hiện tốt việc chống dạy học theo kiểu thụ động là cả một quá
trình lâu dài với sự cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm
của thầy cô giáo là điều hết sức quan trọng mới có thể có kết quả.
Đã có những bài thi ngây ngơ đến mức khó tin, bởi thiếu phương pháp
tư duy, rập khn máy móc do việc học lệ thuộc hồn tồn vào thầy, cịn thầy
thì lệ thuộc sách giáo khoa. Cách dạy và học này còn tiếp tay cho nạn quay

4

4


cóp, gian lận trong thi cử, tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người học
nghiêm túc và những người thầy thực sự muốn đổi mới cách dạy học.
Thầy đọc, trò chép trên lớp, cộng với việc học quá tải liên miên khiến
các em không đủ thời gian suy ngẫm và tự học, thì lấy đâu ra việc tìm tịi, suy
luận để có kiến thức thực sự? Nhưng vấn đề đặt ra, thế nào là thầy khơng đọc,
trị khơng chép? Khơng đọc kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, thì thầy
sẽ nói gì để các em ghi lại và phát triển tư duy?
Nếu không chuẩn bị kỹ lưỡng với một tinh thần nghiêm túc có thể xảy
ra tình trạng, giáo viên photo bài giảng và bộ câu hỏi rồi phát cho học sinh tự
đọc, tự trả lời để tránh tiếng “thầy đọc, trị chép”. Và cũng khơng loại trừ xảy
ra chụn, thầy cứ giảng, trị muốn ghi gì cũng được mà khơng biết đâu là nội

dung chính để tập trung học hỏi. Rồi khi thi kiểm tra chất lượng, thầy có chấp
nhận nội dung bài thi khác với ý của mình hay khơng.
Đội ngũ giáo viên hiện nay phần lớn cũng được đào tạo bằng phương
pháp “đọc – chép” nên để thay đổi cách giảng dạy cũng khó có thể đạt kết quả
một sớm một chiều. Trong khi đó, bộ sách giáo khoa bậc phổ thơng đang tiếp
tục được thay đổi và nội dung còn khá nặng nề cũng là một lực cản trong q
trình nói khơng với “đọc – chép”.
Thực tế những năm qua có nhiều giáo viên (kể cả bậc đại học) đã áp
dụng phương pháp giảng dạy không đọc chép cho học sinh, sinh viên và đem
lại hiệu quả rõ nét. Nhưng vì khơng có động lực, thiếu sự khuyến khích, động
viên và tiêu chí rõ ràng, nên cách làm này chỉ có tính tự phát ở một số ít
người.
Chấm dứt tình trạng khơng đọc chép sẽ trở thành hiện thực nếu đội
ngũ giáo viên được coi trọng, nếu đội ngũ giáo viên có động lực và sự đánh giá
nghiêm túc, công bằng từ các cơ quan quan quản lý.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp
những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến
ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện
5

5


hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong q
trình dạy học nói chung và đối với bộ mơn lịch sử nói riêng.
Từ thực tế trên tơi mới tìm hiểu 1 số phương pháp để giúp học sinh
hứng thú hơn để tiếp cận môn lịch sử và bài trả lời cho câu hỏi làm thế nào để
đổi mới phương pháp dạy học “không đọc – chép ; khơng nhìn – chép” theo
chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà tôi trăn trở băn khoăn bấy lâu nay đã có
cách để giải quyết

Qua một vài năm học áp dụng cho học sinh lớp 12 ở 1 số trường
Trường THPT khu vực Phúc Yên do tôi phụ trách ở bộ môn lịch sử, tôi nhận
thấy đây là cách dạy mang lại hiệu quả cao nếu giáo viên biết vận dụng các kĩ
năng CNTT vào tiêt dạy thì sẽ giúp học sinh hứng thú, yêu thích tiết học lịch
sử hơn so với một tiết dạy bằng giáo án điện tử thông thường.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Từ mục đích nghiên cứu của đề tài này thì đối tượng nghiên cứu chủ yếu
là các phường pháp tạo sự hứng thú khi học sinh tiếp cận với kiến thực lịch sử
chủ yếu ở khối lớp 12, điều này góp phần hạn chế bớt sự nhàm chán đồng thời
làm phong phú thêm các phương pháp dạy học mộ lịch sử.
Hướng dẫn học sinh 1 số phương pháp học tốt mơn lịch sử để có kiến
thức lích]r phục vụ cho cuộc sống, phục vụ để tham gia các cuộc thi có kiến
thức lịch sử.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : “1 số phương pháp tạo sự hứng thú khi tiếp cận
kiến thức lịch sử” ở lớp 12 phục vụ việc ôn thi THPT QG.
Khách thể nghiên cứu : Môn lịch sử lớp 12 ở trường THPT.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Với mục đích hạn chế cách dạy học “đọc - chép” góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục. Do vậy ngay từ khâu đào tạo giáo viên ở các trường đại
học, cao đẳng phải đào tạo họ biết cách “không đọc chép”. Nói thì dễ nhưng
làm thật khó. Nhiều đồng nghiệp đã nhận thức được sự tai hại của việc dạy học
6

6


theo lối đọc chép, nhưng quả thực để “Nói khơng với đọc chép”, có người
chưa biết nên bắt đầu từ đâu, làm như thế nào, thậm chí cịn rất ái ngại, vì thay
đổi một tập qn khơng dễ gì nếu thiếu một quyết tâm và sự định hướng.

Để góp phần tạo nên sự chuyển biến trong dạy học bộ môn, đáp ứng
yêu cầu phát triển xã hội, giáo viên lịch sử cần lưu ý một số điểm sau đây:
Giáo viên phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc dạy học
lịch sử là phải cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản về lịch sử
thế giới, lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương, qua đó giáo dục tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, truyền thống cho học sinh. Phải giúp cho các em tiếp cận và biết
cách vận dụng những tri thức lịch sử vào cuộc sống.Trong sách giáo khoa, các
nội dung sự kiện được trình bày một cách cơ đọng vốn đã rất cần sự phân tích
diễn giải, minh hoạ, so sánh, đối chiếu để giúp học sinh hiểu vấn đề một cách
thấu đáo. Nếu dạy theo lối đọc chép, có nghĩa giáo viên một lần nữa tóm tắt
sách giáo khoa, đọc cho các em chép rồi buộc các em phải học thuộc lịng.
Làm như vậy, bộ mơn lịch sử sẽ trở nên giáo điều, nhồi nhét, vì học sinh chẳng
thể nào hiểu nổi một vấn đề, một sự kiện và như vậy việc học tập trên lớp trở
nên vơ bổ, thậm chí làm cho các em có cảm giác như bị “tra tấn” trong học tập
bộ mơn.
Để đổi mới phương pháp địi hỏi giáo viên phải có tâm huyết với nghề
nghiệp, phải ln thấy được trách nhiệm và uy tín cá nhân của mình trước hết
là đối với học sinh. Cần phải tích cực đầu tư chun mơn và khơng ngừng học
tập nâng cao trình độ nghiệp vụ. Việc đầu tư chuyên mơn địi hỏi phải tiếp cận
với thơng tin khoa học chuyên ngành. Điều kiện sách vở, tài liệu tham khảo và
các nguồn thông tin cần thiết hiện nay không đến nổi quá khó khăn. Mỗi khi
đã có sự hiểu biết sâu sắc về chuyên môn, giáo viên dễ dàng lựa chọn phương
pháp để giảng dạy, vì phương pháp là sự vận động của tri thức.
Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, tuỳ theo nội dung kiến
thức và đối tượng mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp nhằm tạo biểu
tượng, hình thành khái niệm, khắc sâu kiến thức cơ bản… cho học sinh. Để
7

7



phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, mỗi phương pháp dạy học có
ưu thế riêng. Mỗi bài học chứa đựng một số vấn đề cơ bản của lịch sử, bằng sự
hiểu biết của mình, giáo viên nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh giải quyết bằng
cách sáng tạo thành sơ đồ tư duy, tạo sự tò mò thong qua các câu hỏi … nhằm
phát huy tính tích cực và huy động bộ não các em làm việc hết công suất cho
mỗi bài học, sẽ không cịn tình trạng học sinh ngồi im thụ động chỉ có vài em
được phát biểu và làm việc với giáo viên trong tiết học.
Việc học sinh tham gia trực tiếp vào việc giải quyết những yêu cầu của
bài học vừa có tác dụng phát triển tư duy vừa gây hứng thú học tập. Tất nhiên
vai trò dẫn dắt của người thầy là hết sức quan trọng. Dạy học là một nghệ
thuật, bằng tâm hồn, sự hiểu biết và nghệ thuật của giáo viên, những “phần
xác” lịch sử sẽ được “phả hồn” vào một cách sinh động và đẹp đẽ, giúp các em
cảm nhận tốt hơn, u thích hơn bộ mơn lịch sử.
Phương tiện dạy học bằng sơ đồ tư duy ngày càng trở nên phóng phú
và được các nước tiên tiến trên thế giới sử dụng đạt hiệu quả cao. Nếu biết
khai thác tốt sơ đồ tư duy sẽ hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình giảng
dạy. Cùng với sự kết hợp các phương pháp, phương tiện trực quan và kỹ thuật
sẽ góp phần đẩy lùi hiện tượng “đọc chép” một cách có hiệu quả.Việc sử dụng
sơ đồ tư duy cùng phương tiện trực quan và kỹ thuật địi hỏi giáo viên phải có
sự đầu tư cơng sức và trí tuệ cho bài giảng. Rõ ràng làm tốt cơng việc này sẽ
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy và hiên tượng “đọc chép” sẽ
không có cơ hội để tồn tại.
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng, học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ
thể của quá trình dạy học. Dạy học theo lối đọc chép có nghĩa giáo viên đã thủ
tiêu mất vai trò chủ thể của học sinh, đưa các em vào trạng thái hoàn toàn thụ
động, bị nhồi nhét một cách đáng thương. Việc tạo những phương pháp dạy
học sử dụng sơ đồ tư duy hay những câu hỏi tình huống …trong đó học sinh
có điều kiện trao đổi với thầy với bạn, sẽ phát huy tốt tính tích cực, chủ động
của các em, giúp các em vươn lên chiếm lĩnh tri thức.Thay đổi mơ hình dạy

8

8


học theo phương pháp mới là một yêu cầu không thể thiếu được. Nó vừa phát
huy tốt ưu thế của bộ môn, vừa tạo được sự hấp dẫn, hứng thú đối với học
sinh.
Khả năng vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống là cái đích của việc
dạy học bộ mơn. Khả năng đó có được từ nghệ thuật truyền dạy và tổ chức rèn
luyện của giáo viên cho các em. Học lịch sử mà không liên hệ được thực tế,
không làm bài tập thực hành, sẽ không thể nào có được năng lục vận dụng và
như vậy sự học trở nên vô bổ. Cuộc sống đang đặt ra vô vàn những vấn đề
phức tạp, hiểu sâu sắc lịch sử để lý giải những vấn đề của cuộc sống hiện tại là
vơ cùng cần thiết, nó tỏ rõ ưu thế của bộ môn. Không làm tốt điều này xem
như giáo viên lịch sử chưa hoàn thành nhiệm vụ.
5. Kết cấu của đề tài .
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
phần :
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung các phương pháp tiếp cận
với kiến thức lịch sử, biện pháp để sử dụng các phương pháp đó.
-Phần III : Kết quả, bài học kinh nghiệm và kiến nghị

9

9


NỘI DUNG

Phần A . Điều kiện nghiên cứu vấn đề
1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài
Trường THCS&THPT Hai Bà Trưng là 1 trong những trung tâm chất
lượng cao của khu vực và được đầu tư lắp đặt nhiều thiết bị phục vụ cho việc
dạy và học. Đội ngũ Giáo viên được tập huấn và tìm hiểu kỹ về tính năng các
thiết bị để khai thác có hiểu quả trong việc dạy và học.
Đội ngũ Giáo viên và Học sinh được tuyển chọn kỹ hầu hết Giáo viên
là những người có kinh nghiệm, vữ vàng về chun mơn, học hinh đã số có
học lực giỏi và hạnh kiểm tốt các em ln có tinh thần ham học hỏi, tìm hiểu
kiến thức đặc biệt là các lĩnh vực mới.
Số lượng học sinh các lớp ít nên thuận lợi trong việc áp dụng các hình
thức dạy học theo hướng tạo hung thú cho học sinh.
Lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo, đầu tư cho công tác
chuyên môn đặc biệt luôn đầu tư cho các phương pháp mới trong việc dạy và
học, trong các hoạt động bề nổi.
2. Khó khăn khi thực hiện đề tài
Trong những năm gần đây môn lịch chưa thực sự tạo được sự hứng thú
cho học sinh 1 phần vì mơn lịch có nội dung dài, lại ít tham gia vào các nội
dung thi đại học cao đẳng.
Đa số giáo viên chưa áp dụng những phương pháp dạy học mới mà
chủ yếu là cách dạy cũ truyền thụ kiến thức 1 cách thụ động quan hình thức “
đọc – chép”
Quan niệm của học sinh luôn cho rằng với môn lịch sử chỉ cần học
thuộc long rồi chép lại vào bài kiểm tra là xong chứ không cần phải sang tạo .
Thời lượng cho môn lịch sử không nhiều chỉ 1 hoặc 2 tiết trong tuần trong khi
lượng kiến thức yêu cầu lại nhiều nên khó áp dụng các phương pháp mới.

10

10



Phần B . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính
Để tạo hứng thú cho việc dạy và học mơn lịch sử cũng có nhiểu cách sau đây
Tơi xin đưa ra 1 số cách thức có thể áp dụng trong dạy học lịch sử chủ yếu là ở
lớp 12. Các cách thức sau phải được sử dụng 1 cách khéo léo trong từng
trường hợp cụ thể, các đối tượng cụ thể, trong 1 thời điểm có thể áp dụng
nhiều phương pháp .
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀ TỔ CHỨC TRÒ CHƠI TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Thực trạng vấn đề:
Sơ đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra như là một
phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là
cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một
dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngồi khả năng ghi nhớ kiểu
tuyến tính (ghi nhớ theo 1 trình tự nhất định chẳng hạn như trình tự biến cố
xuất hiện của 1 câu trụn) thì não bộ cịn có khả năng liên lạc, liên hệ các dữ
kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ não.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ
ý, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng
thì liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được
ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều biểu thị toàn bộ cấu trúc chi
tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối
tượng, sự quan hệ hỗ tương giữa các khái niệm (hay ý) có liên quan và cách
liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề lớn.
Qua thực tế cho thấy việc giảng dạy này đã tạo hứng thú cho học sinh.
Mỗi học sinh có thể tự lập sơ đồ tư duy cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo
viên để bài học trở nên dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Cùng một nội dung
11


11


nhưng các em có thể thêm nhánh, thêm chú thích dưới dạng hình vẽ nhiều màu
sắc tùy vào cách hiểu, cách lĩnh hội kiến thức trong bài học của mình.
Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn
gọn thể hiện qua mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giảng). Từ phần nội
dung chính, giáo viên vẽ ra từng nhánh nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài
giảng và chú thích, giảng giải theo một ngôn ngữ dễ hiểu và gần gũi với học
sinh.
Như vậy, thay vì phải học thuộc lịng các khái niệm, định nghĩa hay cả
bài giảng đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được
khái niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên cũng
giúp các em nhớ được phần trọng tâm của bài giảng.
Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay
tỷ lệ nhất định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy
màu sắc và thực sự hiệu quả. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích cực
nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể thành nhân vật
trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng say hơn trong
học tập.
Trước đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho
học sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng
dạy bằng sơ đồ tư duy, nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của
mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua sơ đồ sau đó
yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Việc vận dụng sơ đồ tư duy
trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề
một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
Trong dạy học: Việc sử dụng sơ đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng
của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp

dạy học.

12

12


Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp học sinh có thói
quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc – đã học,
theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy.
Sau khi cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, giáo
viên đưa ra một chủ đề chính, đặt chủ đề này ở vị trí trung tâm bảng (hoặc vào
trang vở, tờ giấy/ bìa) rồi đặt câu hỏi gợi ý để học sinh vẽ tiếp các nhánh cấp 1,
cấp 2, cấp 3... Mỗi vấn đề được tự vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy,
giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem lại kiến thức khi cần.
Nguyên lý hoạt động theo nguyên tắc liên tưởng “ý này gợi ý kia” của
bộ não. Học sinh có thể tạo một sơ đồ tư duy ở dạng đơn giản theo nguyên tắc
phát triển ý: từ một chủ đề tạo ra nhiều nhánh lớn, từ mỗi nhánh lớn lại tỏa ra
nhiều nhánh nhỏ và cứ thế mở rộng ra vơ tận.
Tổ chức trị chơi trong việc truyền đạt kiến thức lịch đã được sử dụng
từ lâu vời nhiều hình thức phong phú tuy nhiên lại chủ yếu với mục đích giải
trí đơn thuần, các kiến thức trong những chương trình đó dời dạc khơng hệ
thống khiến người học khó tập chung.
Cùng với sự phát triển của xã hội, khoa học kỹ thuật, nhu cầu tiếp thu
kiến thức lịch sử 1 cách hệ thống được đề cao địi hỏi giáo viên dạy sử cũng
phải tìm hiểu , thay đổi phương pháp truyền đạt kiến thức 1 cách hệ thống
nhưng lại phải sinh động thì mới thu hút học sinh.
Hiện nay nghành giáo dục luôn ưu tiên phát triển tồn diện người học
vì vậy khơng ngừng đầu tư trang thiết bi, phương tiện kỹ thuật giúp việc dạy
học hiệu quả hơn từ đó tạo hung thú cho học sinh điều nayftaoj điều kiện để áp

dụng việc đưa 1 số trò chơi để truyền đạt kiến thức lịch sử.
* Những lưu ý :
- Khi sử dụng sơ đồ tư duy
Màu sắc cũng có tác dụng kích thích bộ não như hình ảnh. Tuy nhiên,
học sinh cũng khơng cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc. Học sinh có thể chỉ
cần dùng một hai màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian.
13

13


Nếu học sinh thấy mất quá nhiều thời gian để tơ đậm màu trong một
nhánh, thì học sinh có thể gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó –
rất mới mẻ và tốn ít thời gian.
Vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự
mềm mại, cuốn hút.
Khi học sinh sử dụng những từ khóa riêng lẻ, mỗi từ khóa đều khơng
bị ràng buộc, do đó nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ
mới.
Nếu trên mỗi nhánh học sinh viết đầy đủ cả câu thì như vậyhọc sinh sẽ
dập tắt khả năng gợi mở và liên tưởng của bộ não. Não của học sinh sẽ mất hết
hứng thú khi tiếp nhận một thơng tin hồn chỉnh. Vì vậy, trên mỗi nhánh học
sinh chỉ viết một, hai từ khóa mà thơi. Khi đó, học sinh sẽ viết rất nhanh và khi
đọc lại, não của học sinh sẽ được kích thích làm việc để nối kết thơng tin và
nhờ vậy, thúc đẩy năng lực gợi nhớ và dần dần nâng cao khả năng ghi nhớ của
học sinh.
Giáo viên nên thường xuyên cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy khi
làm việc nhóm và hệ thống kiến thức đã học trong môn học lịch sử, đặc biệt là
khi ôn tập cho các kỳ thi. Sơ đồ tư duy cũng giúp các học sinh và các thầy cô
tiết kiệm thời gian làm việc ở nhà và trên lớp rất nhiều với các phần mềm sơ

đồ tư duy trên máy tính học sinh có thể làm tại nhà và gửi email cho các thầy
cô chấm chữa trước khi lên lớp.
- Khi tổ chức trò chơi:
- Xác định đúng đối tượng là học sinh vì vậy ngồi yếu tổ hấp dẫn, giải
trí thì phải đảm bảo tính giáo dục, nhân văn trành xa vào mục đích khác.
- Lựa chọn khơng gian phù hợp với đối tượng và nội dung, trị chơi có
thể tổ chức trong lơp hay sân trường hay viện bảo tang, hay ngồi trời …
nhưng phải đảm bảo tính sư phạm, an ninh, khoa học
- Phải phối hợp với các tổ chức, các bộ môn khác để tổ chức

14

14


- Có nhiều phương án đối phó với những tình huấn có thể sảy ra ngồi
kế hoạch: mất điện, trời mưa …
2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy
a. Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
Sơ đồ tư duy (Mind Map) là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc
và hình ảnh, để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở vị trí trung tâm sơ đồ là
một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. Ý
trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các nhánh
chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để
nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay
hình ảnh ln được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức
tranh tổng thể” mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
Những yếu tố đã làm cho sơ đồ tư duy có tính hiệu quả cao và nền
tảng của chúng là:
Sơ đồ tư duy đã thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng

ta hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não
bộ của con người đều cần có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và
sử dụng. Khi có một thông tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại,
chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó.
Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh đã đem lại
một cơng dụng lớn vì đã huy động cả bán cầu não phải và trái cùng hoạt động.
Sự kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên kết giữa 2 bán cầu não, và kết quả
là tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não.
b. Giới thiệu một số phần mềm dùng để tạo sơ đồ tư duy
Một sơ đồ tư duy có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với
các loại bút màu khác nhau, tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó
lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các
phần mềm để tạo ra sơ đồ tư duy. Một số phần mềm tiêu biểu trong thể loại
“phần mềm mind mapping” (mind mapping software).
15

15


Phần mềm Buzan’s iMindmap™: một phần mềm thương mại, tuy
nhiên có thể tải bản dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online
Ltd. thực hiện. Trang chủ tại www.imindmap.com
Phần mềm Inspiration: sản phẩm thương mại của công ty Inspiration
Software, Inc. Sản phẩm có phiên bản dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo
đến lớp 5) rất dễ dùng và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ
tại www.inspiration.com
Phần mềm Visual Mind: sản phẩm thương mại của công ty Mind
Technologies. Phần mềm dễ sử dụng và linh hoạt trong sắp xếp các nút chứa từ
khóa. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại www.visual-mind.com
3. Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy

Trước tiên Giáo viên phải hướng dẫn học sinh hiều về sơ đồ tư
duy, hướng dẫn cách vẽ và sử dụng nó
Sơ đồ tư duy là một cơng cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ
nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não của học sinh rồi đưa thơng tin ra ngồi
bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng
nghĩa của nó là “Sắp xếp” ý nghĩ của học sinh.
Lập sơ đồ tư duy (hoặc ý tưởng) là việc bắt đầu từ một ý tưởng trung
tâm và viết ra những ý khác liên quan tỏa ra từ trung tâm.
Hướng dẫn học sinh sử dụng những đường thẳng, màu sắc, mũi
tên, nhánh rẽ hoặc những cách khác để thể hiện kết nối giữa những ý tưởng
được đưa ra trong bản đồ tư duy của học sinh.
Đặt ý tưởng hoặc chủ đề chính vào chính giữa trang giấy, ta sẽ có
có không gian tối đa cho những ý khác tỏa ra từ trung tâm. Hầu hết học sinh
đều thấy tiện dụng khi lật ngang trang giấy và vẽ sơ đồ tư duy của các em theo
chiều ngang
Vài sơ đồ tư duy hữu dụng nhất thường được học sinh bổ sung hoàn
chỉnh trong một khoảng thời gian dài tiếp tục sau này trong quá trình học tập
của các em. Sau lần vẽ ban đầu, học sinh có thể muốn làm nổi bật vài thứ,
16

16


thêm thơng tin hoặc thêm vài câu hỏi. Vì vậy, để trống nhiều chỗ trên bản đồ là
một ý hay để sau đó học sinh có thể thêm vào những ý tưởng mới.
Sơ đồ tư duy của học sinh là tài sản riêng của học sinh: một khi học
sinh hiểu cách tạo ra những ghi chú trong sơ đồ tư duy, học sinh có thể phát
huy các quy tắc của riêng mình để làm cho nó tốt hơn. Những đề nghị sau đây
có thể giúp học sinh tăng hiệu quả của việc đó:
* Sử dụng những từ ngữ đơn giản thể hiện thông tin: Hầu hết các

từ trong cách viết bình thường đều là nhồi nhét, bởi vì chúng đảm bảo rằng
thông tin được chuyển tải đúng ngữ cảnh và trong một dạng thức dễ đọc.
Trong sơ đồ tư duy của học sinh, những từ khóa có ý nghĩa có thể chuyển tải
cùng ý nghĩ như thế một cách rõ ràng hơn.
* Sử dụng màu sắc để tách các ý khác nhau: Điều này sẽ giúp học
sinh tách các ý ra khi cần thiết. Nó cũng giúphọc sinh làm sơ đồ trực quan hơn
để gợi nhớ lại. Màu sắc cũng giúp cho việc sắp xếp các chủ đề.
* Sử dụng những ký hiệu và hình ảnh: Khi một ký hiệu hoặc hình
ảnh có ý nghĩa gì đó với học sinh, hãy sử dụng chúng. Hình ảnh có thể giúp
học sinh nhớ thông tin hiệu quả hơn là từ ngữ.
* Sử dụng liên kết đan chéo: Thông tin trong một phần của sơ đồ có
thể liên quan đến phần khác. Khi đó, học sinh có thể vẽ những đường thẳng để
chỉ ra sự liên quan đan chéo. Việc này sẽ giúp cho học sinh thấy mức ảnh
hưởng một phần trong chủ đề đến các phần khác.
Lưu ý khi đặt câu hỏi cho học sinh trả lời giáo viên nên hỏi những
câu liên quan đến sự thông hiểu để học sinh vận dụng khi làm bài bài kiểm tra.
Khi học sinh trả lời giáo viên nên động viên khuyến khích và có thể hỏi tiếp
những câu có liên quan đến kiến thức của bài học cũ để học sinh vừa học kiến
thức mới, vừa ôn tập kiến thức cũ đã học.
Sơ đồ tư duy một cơng cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng
được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có
thể thiết kế sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì
17

17


màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy. Với
trường có điều kiện cơ sở hạ tầng cơng nghệ thơng tin tốt có thể cài vào máy
tính phần mềm Mindmap cho giáo viên và học sinh sử dụng, bằng cách vào

trang web www.download.com.vn gõ vào ơ “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta
có thể tải về bản demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm
này không hạn chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản.
4. Áp dụng 1 số trò chơi để truyền đạt kiến thức lịch sử
a. Cách thức ứng dụng các trò chơi vào dạy học lịch sử.
* Công tác chuẩn bị.
Công tác chuẩn bị là khâu đầu tiên đảm bảo cho sự thành cơng của một
trị chơi. Công tác chuẩn bị tốt, chu đáo sẽ dẫn đến những thuận lợi khi trò
chơi diễn ra và thu được nhiều thành cơng ngồi kết quả dự kiến và ngược lại..
Công tác chuẩn bị cần đảm bảo những yếu tố:
- Xây dựng kế hoạch tổ chức trò chơi: Kế hoạch phải thật chi tiết, xác
định rõ chủ đề, mục đích – u cầu, quy mơ thời gian, địa điểm, đối tượng,
thành phần tham gia. Cũng như nội dung chính, thể lệ trị chơi, ban giám khảo,
giải thưởng (nếu có).
- Giáo viên bộ môn lịch sử sau khi lên kế hoạch báo cáo với BGH, tổ
chuyên môn báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo. Tranh thủ sự trợ giúp kinh phí vật
chất và các điều kiện khác của nghành, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã
hội khác.
- Giáo viên phải thiết lập hệ thống câu hỏi sao cho khoa học hợp lí mà
học sinh vẫn có thể trả lời nhanh nhất, tiếp thu dễ dàng nhất.
- Giáo viên cần báo cho học sinh biết trước, hướng dẫn cho các em
chuẩn bị bài học ở nhà để khi lên lớp học sinh chủ động tích cựu tham gia vào
q trình giảng dạy hay các trị chơi mà giáo viên thiết kế.

18

18


- Hệ thống micro, màu sắc, âm thanh nếu có cần phải được chuẩn bị kĩ

trước khi để phát huy tối ưu. Khi tiến hành các hoạt động, các em học sinh
phải có đầy đủ chỗ ngồi, đảm bảo các em tham gia được đầy đủ.
- Giáo viên cần phải trực tiếp đóng vai trị làm giám khảo khi tổ chức
các trị chơi. Ngồi ra cần phải chọn ra các em học sinh tham gia vào quá trình
tổ chức như MC, thư kí…
- Ở mỗi bài dạy giáo viên cần đưa ra kế hoạch chi tiết, mỗi phần chơi
bao nhiêu thời gian, áp dụng trò chơi nào là hiệu quả?
- Từ sự góp ý của các bộ phận, giáo viên xem xét bổ sung và hoàn chỉnh
lại toàn bộ kế hoạch.
* Tổ chức trò chơi.
Khi tiến hành trò chơi cần thực hiện các việc sau:
- Theo đúng trình tự chương trình đã có mà thực hiện do nội dung đã
được chuẩn bị kĩ từ trước, được sự xem xét góp ý của lãnh đạo nhà trường
cũng như tổ và đồng nghiệp.
+ Xác định mục đích
+ Xác định đối tượng
+ Cơng bố thể lệ, luật chơi
+ Chơi thử ( nêu ví dụ )
+ Tiến hành chơi
- Giáo viên cần có sự chuẩn bị về vật chất và tinh thần để giải quyết kịp
thời các tình huống phát sinh, khi xử lí cần phải có sự cân nhắc làm sao thật
khéo léo để học sinh được học và chơi thoải mái không mất đồn kết trong lớp
học.
- Về hình thức cần tạo khơng khí thoải mái, nhẹ nhàng vui tươi sinh
động nhưng phải chú ý nội dung hướng cho các em vào những vấn đề mình
muốn truyền đạt.

19

19



- Cần chọn người dẫn chương trình cho phù hợp với từng loại hình cụ
thể. Nếu nặng kiến thức thì mời người có kiến thức, nặng về giải trí thì mời
người có khiếu hài hước để cuộc chơi ln sinh động.
- Các nội dung thi, các câu hỏi phải được soạn kĩ cả phần hỏi lẫn phần
đáp, được duyệt kĩ trước khi đem ra sử dụng. Các câu hỏi (kín, mở..) phải
được thống nhất chung.
- Giáo viên phải luôn là người cơng bằng nhất, tạo uy tín đối với học
sinh để khi chơi và học các em có tinh thần thoải mái, tin tưởng cầu tiến.
- Sau cuộc thi kết thúc phải tuyên dương các em năng động tham gia
trao q nếu có để khích lệ các em.Cần cho các em dọn dẹp phòng học, kê lại
bàn ghế (nếu cần). Cuối cùng nghiêm túc rút kinh nghiệm công tác tổ chức,
lắng nghe từ nhiều phía nhà trường, gia đình, học sinh…..để lần sau tổ chức tốt
hơn.
b. Giới thiệu 1 số trị chơi phổ biến có thể áp dụng trong việc tiếp
cận kiến thức lịch sử.
* . Trị chơi “ Tơi là ai? “
- Mục tiêu: Giúp học sinh nhớ lại những nhân vật lịch sử đã học thong
qua những thông tin, kiến thức của sách giáo khoa, kiến thức tự tìm hiểu …
- Đối tượng chơi : tất cả học sinh
- Luật chơi : giáo viên tìm 1 học sinh tham gia chơi, học sinh này sẽ hóa
thân vào 1 nhân vật lịch sử bí mật nhưng khơng biết mình là ai. Để biết mình
là ai thì người chơi phải đặt những câu hỏi cho những người còn lại về đặc
điểm của nhân vật đó, người chơi phải chọn những câu hỏi sao cho câu trả lời
được nhiều thông tin về nhân vật nhất những thành viên còn lại phải trả lời câu
hỏi bằng các câu trả lời ”ĐÚNG” , ”SAI”, hay ”CĨ”, ”KHƠNG”. Để hỗ trợ thì
giáo viên 1 gợi ý trước, Giáo viên có thể quy định phần thưởng cho người chơi
là điểm 10 nhưng cứ mỗi câu hỏi lại bị trừ 1 điểm để người chơi sử dụng ít câu
hỏi nhất.


20

20


- Ví dụ : nhân vật cần tìm là Phan Bội Châu thì Giáo viên có thể gợi ý :
” Đây là 1 người Việt Nam yêu nước trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX” . Từ câu gợi ý thì người chời đặt những câu hỏi theo suy luận của
mình, nếu học sinh có nhiều dự liệu về những nhân vật lịch sử thời kỳ này thì
sẽ nhanh tróng tìm ra.
- Ý nghĩa của trị chơi là giúp học sinh nhớ các nhân vật lịch sử 1 cách
sâu sắc, cung cấp nhiều thông tin về nhân vật lịch sử .
* Trị chơi ”Vì bạn xứng đáng”
Đây là trị chơi mơ phỏng giống game cùng tên trên VTV3 đài truyền
hình Việt Nam. Đây là game tên tiếng Anh "You deserve it", được mua bản
quyền sản xuất của Red Arrow Entertainment Group GmbH (Đức) là 1 game
mang tính nhân văn lớn khi người chơi vì 1 người khác có hồn cảnh khó khan
cần sự giúp đỡ.
- Mục đích : thơng qua trị chơi giúp học sinh nhớ lại các sự kiện lịch sử,
nhân vật lịch sử, địa danh lịch sử, đồng thời phát triển kĩ năng quan sát, đánh
giá vấn đề từ đó nhận thức sâu hơn. Trị chơicungx mang lại những giờ phút
thoải mái vui tương trong việc tiếp thu kiến thức lịch sử.
- Đối tượng tham gia: mỗi vấn đề thì 1 học sinh tham gia chơi.
- Luật chơi : Giáo viên nêu ra câu hỏi “AI”, “ Ở ĐÂU” , “ SỰ KIỆN
NÀO” . Học sinh tham gia chơi phải đặt những câu hỏi cho Giáo viên để tìm
được câu trả lời. Giáo viên sẽ đưa ra 1 gợi ý ban đầu, mỗi học sinh tham gia
chơi sẽ được cấp trước 10 điểm, mỗi 1 câu hỏi thì học sinh bị trừ đi 1 điểm.
Khi học sinh trả lời đúng thì số điểm cịn lại sẽ là của học sinh.
- Ví dụ . tìm hiểu “SỰ KIỆN NÀO” để yêu cầu học sinh tìm hiểu về sự

kiện : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN ) ra đời.
+ Câu gợi ý : diễn ra ở Đông Nam Á
+ Học sinh sẽ đưa ra những câu hỏi cho Giáo viên để tìm những thơng
tin về địa điểm đó: SỰ KIỆN ĐĨ DIỄN RA VÀO NĂM NÀO, HỒN CẢNH
CỦA SỰ KIỆN ĐĨ … từ những câu trả lời của Giáo viên thì học sinh sẽ liên
21

21


khết các thơng tin đó thành 1 câu trả lời. Sauk hi tìm ra sự kiện đó thì các học
sinh khác có thể nêu những hiểu biết của mình về sự kiện đó.
- Ý nghĩa: đây là trị chơi cần sự quan sát tinh tế của người chơi, để đưa
ra những câu hỏi bám sát sự kiện. Việc học sinh phải đặt câu hỏi cũng tạo nên
sợ tự tin mạnh dạn của học sinh.
Phần C. Kết quả, bài học kinh nghiệm
1. Kết quả đạt được
Qua một thời gian thực hiện đề tài với đối tượng học sinh ôn thi đại
học môn lịch sử, các tiết ôn tập, tại các buổi ngoại khóa lịch sử, Tơi nhận thấy
học sinh có hứng thú và đạt hiệu quả cao hơn so với cách dạy truyền thống là
đọc chép hoặc một tiết dạy chỉ sử dụng bằng bài giảng điện tử cho học sinh
nhìn chép.
Cách dạy học truyền thống kể cả khi áp dụng những tiến bộ khoa học
và giảng dạy như xem phim mãi, thảo luận một cách thụ động máy móc, xem
bài giảng điện tử mãi học sinh dần dần cũng không còn cảm hứng say mê học
tập mà chỉ ngồi nghe thầy cơ, bạn bè nói xong hết tiết học các em cũng chẳng
cịn nhớ bao nhiêu vì bản thân các em cũng ít được tham gia trực tiếp vào q
trình dạy học.
Sử dụng sơ đồ tư duy hoặc tổ chức trò chơi trong giờ dạy lịch sử sẽ bắt
buộc tất cả 100% học sinh đều phải động não, sáng tạo. Học sinh sẽ tự khám

phá và khi tạo được một tác phẩm đẹp, ý tưởng hoàn chỉnh được giáo viên và
các bạn ngợi khen sẽ phấn khởi rất nhiều.
Khi thấy các bạn tham gia chơi hay làm sơ đồ tư duy các em khác
cũng sẽ cố gắng tự hoàn thiện mình và mỗi học sinh có một tính cách, một ý
tưởng rất khác nhau khi trình bày sơ đồ tư duy của mình nhưng điều quan động
là các em biết cách tự ghi chép đầy đủ nội dung bài học để học ở nhà có thể
trinh bày trước tập thể lớp và ghi nhớ lâu kiến thức bài học.
Bên cạnh những mặt tích cực thì các phương pháp trên có 1 số hạn
chê:
22

22


+ Đối tượng áp dụng không phổ biến chủ yếu là ở các lớp đầu cao
hoặc các lớp chuyên đề, các lớp ơn thi hay các buổi ngoại khóa do sử dụng các
phương pháp trên cần nhiều thời gian, không gian, người tham gia phải nhiệt
tình, có kiến thức đủ để tham gia.
+ Q trình tổ chức trị chơi hay tổ chức cho học sinh vé sơ đồ tư duy
có thể gây ra nhiều tiếng ồn ảnh hưởng đến các lớp học xung quanh. Mặt khác
khi tổ chức trò chơi thì vai trị của người tổ chức rất quan trọng nó quyết định
đến thành cơng của bài học vì vậy khi chọn người chơi, người dẫn trò chơi phải
hết sức chú ý.
2. Bài học kinh nghiệm
Môn lịch sử cũng như nhiều mơn học khác địi hỏi sự chăm chỉ trong
q trình học tập. Sự đầu tư thời gian và cơng sức để học là một trong những
nhân tố quan trọng làm nên thành công.
Nếu các học sinh nghĩ rằng chỉ học thuộc lòng để nhớ các sự kiện là đã
học tốt mơn lịch sử thì đơn giản q. Lịch sử là mơn học địi hỏi rất cao tư duy
độc lập của người học trong cách đánh giá, phân tích nhân vật, sự kiện, v.v...

Để học sinh yêu lịch sử thì cần có sự quan tâm đúng mức của xã hội.
Một dân tộc u lịch sử, tơn trọng lịch sử thì sẽ có những học sinh u lịch sử,
thích học lịch sử. Để có điều đóGiáo viên dạy mơn lịch sử trước hết phải có
lịng u nghề và có kiến thức sâu về chun mơn. Dạy vơ cảm thì hậu quả học
trị học vơ cảm.
Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có ý nghĩa sống cịn đối với
sự tồn tại của quốc gia dân tộc. Học lịch sử trước hết là học về lòng yêu nước,
học xưa để biết nay. Nếu các cá nhân trong một dân tộc không biết nguồn gốc
và tổ tiên của mình thì dân tộc đó sẽ tiêu vong. Đánh mất lịch sử đồng nghĩa
với đánh mất quốc gia dân tộc mình.
Khi dạy học các thầy cô không nên quá cứng nhắc về phương pháp,
mà phải có sự linh hoạt trong từng bài giảng. Khơng nên làm dụng dạy theo
kiểu “thầy đọc trị chép”, vì hậu quả của nó là đến khi đi thi học trò sẽ “chép
23

23


hết gì thầy đã đọc”. Nên dạy cho học sinh cách phân tích, đánh giá, thậm chí là
phê phán các sự kiện lịch sử. Để học sinh thực sự nhập cuộc vào bài học, chủ
động trong lối suy và cách nghĩ, các thầy cô cần đưa ra các chủ đề lịch sử để
các em tham gia thảo luận, nhất là thảo luận theo các nhóm. Dạy học mà khn
cứng là bóp chết lịng đam mê học tập của học trị.Giáo viên phải tạo tâm lý
thoải mái cho học sinh thì học mới có hiệu quả.
Học sinh phải chăm chỉ học theo sơ đồ tư duy của mình phát họa.
Khơng học thuộc lòng theo kiểu học vẹt, mà nên học theo kiểu xây dựng các
dàn ý cho mỗi bài học. Ví dụ một bài có bao nhiêu ý lớn, trong mỗi ý lớn có
bao nhiêu những ý nhỏ. Nắm lấy những sự kiện chính, nhân vật chính, địa danh
chính,… Sau đó viết diễn đạt lại theo văn phong của mình.


KẾT LUẬN
Sử dụng thành thạo và hiệu quả sơ đồ tư duy và tổ chức thành cơng
các trị chơi trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong
phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng
tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan
trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “sơ đồ” thể
hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
Sử dụng sơ đồ tư duy hay đưa các trò chơi vào trong dạy học kiến thức
mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được học
sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến
thức + hội họa + hình ảnh, vận động…” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của
học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi
chứng kiến thành quả lao động của học sinh của mình. Cách học này còn phát
triển được năng lực riêng của từng học sinh khơng chỉ về trí ṭ (vẽ, viết gì
24

24


trên sơ đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước
đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp
hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào
cuộc sống.
Trước đây, các tiết ôn tập chương một số giáo viên cũng đã lập bảng
biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách
của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo
cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu
sắc và đường nét. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử bước đầu tạo
một khơng khí sơi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các hoạt động dạy

học của nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai.
Sơ đồ tư duy một cơng cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể
thiết kế sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì
màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy. Với
trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy
tính phần mềm Mindmap cho giáo viên và học sinh sử dụng./

25

25


×