Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Khảo sát tiểu từ tình thái trong giáo trình dạy tiếng việt cho người nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.08 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

MAI THỊ THANH TUYỀN

KHẢO SÁT TIỂU TỪ TÌNH THÁI TRONG GIÁO TRÌNH
DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS – TS NGUYỄN VĂN CHÍNH

Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công
bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Mai Thị Thanh Tuyền


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS – TS Nguyễn Văn Chính,
ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn em một cách tận tình và tạo những điều kiện
tốt nhất có thể để em có cơ hội thực hiện và hoàn thành luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngôn ngữ


học, phòng Quản lý khoa học và Sau đại học – trƣờng Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình hƣớng dẫn và
giúp đỡ em trong suốt thời gian em học tập tại trƣờng.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn đến cơ quan tôi đang công tác, bạn bè,
đồng nghiệp, gia đình và ngƣời thân đã cũng chia sẻ, động viên, giúp đỡ và
tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành đƣợc luận văn này.

Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn
Mai Thị Thanh Tuyền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. TT

: Tiểu từ

2. TTTT

: Tiểu từ tình thái

3. TTTT TV

: Tiểu từ tình thái tiếng Việt

4. ĐHQGHN

: Đại học quốc gia Hà Nội


5. KHXH&NV

: Khoa học xã hội và nhân văn

6. GTDTVCNNN

: Giáo trình dạy tiếngViệt cho người nước ngoài

7. KHXH

: Khoa học Xã hội

8. Khoa VNH&TV

: KVNH&TV

9. VVNH&KHPT

: Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển

10. TVNC

: Tiếng Việt nâng cao

11. NXB

: Nhà xuất bản

12.TG


: Thế giới

13. VHSG

: Văn hóa Sài Gòn.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................ 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 4
5. Ý nghĩa của luận văn................................................................................... 4
6. Bố cục của luận văn.................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................. 6
1.1. Khái quát về tình thái. ............................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm về tình thái. ............................................................................ 6
1.1.2. Các phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái. ........................................ 11
1.1.3. Sự phân loại các kiểu tình thái. ............................................................. 12
1.2. Khái quát về tiểu từ tình thái trong tiếng Việt. ................................... 16
1.2.1. Khái niệm tiểu từ tình thái trong tiếng Việt. ......................................... 16
1.2.2. Phân loại tiểu từ tình thái. ..................................................................... 17
1.2.3. Chức năng của tiểu từ tình thái trong tiếng Việt. .................................. 23
1.3. Lý thuyết hành động nói. ....................................................................... 26
1.3.1. Khái niệm về hành động nói. ................................................................ 27
1.3.2. Hành động ở lời và các tiểu từ tình thái. ............................................... 28
1.4. Nguyên tắc lịch sự. ................................................................................. 29
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1................................................................................... 33
CHƢƠNG 2: TIỂU TỪ TÌNH THÁI TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY

TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI. .............................................. 34
2.1. Các TTTT đƣợc phân loại theo tiêu chí cấu tạo từ. ............................ 34
2.1.1. Tiểu từ tình thái trong GTDTVCNNN có cấu tạo là từ đơn. ................ 34
2.1.2. Tổ hợp tình thái trong GTDTVCNNN ................................................. 39
2.2. TTTT và tổ hợp TT trong GTDTVCNNN phân theo vị trí. .............. 45


2.2.1. Nhóm các TTTT và tổ hợp TT đứng đầu phát ngôn. ............................ 45
2.2.2. Nhóm các TTTT và tổ hợp tình thái đứng cuối phát ngôn. .................. 48
2.3. Khả năng kết hợp của các TTTT trong GTDTVCNNN. ................... 50
2.3.1. Khả năng kết hợp của các TTTT với các yếu tố tạo câu (phát ngôn). .. 50
2.3.2. Khả năng kết hợp trong nội bộ nhóm TTTT. ........................................ 53
2.4. Tiểu từ tình thái trong GTDTVCNNN với việc đánh dấu các hành vi
ngôn ngữ. ........................................................................................................ 56
2.4.1. Tiểu từ tình thái đánh dấu hành vi hỏi. ................................................. 56
2.4.2. Tiểu từ tình thái đánh dấu hành vi cầu khiến. ....................................... 60
2.4.3. Tiểu từ tình thái đánh dấu hành vi khẳng định. .................................... 63
2.4.4. Tiểu từ tình thái đánh dấu hành vi phủ định. ........................................ 63
2.5. TTTT biểu thị thái độ, tình cảm của ngƣời nói đối với sự việc trong
phát ngôn........................................................................................................ 64
2.6. TTTT thể hiện phép lịch sự. .................................................................. 65
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2................................................................................... 73
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý KHI GIẢNG DẠY TTTT TRONG GIÁO
TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI......................... 74
3.1. Sử dụng TTTT trong văn hóa giao tiếp. .............................................. 74
3.2. TTTT trong các cấp độ giảng dạy cho ngƣời nƣớc ngoài. ................. 78
3.3. Một số kiến nghị trong việc giảng dạy TTTTCNNN .......................... 83
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3................................................................................... 86
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 87
TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU

TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Tên bảng biểu

STT
1.

Bảng 2.1.

Bảng tổng số TTTT có cấu tạo là từ đơn sử

Trang
38

dụng trong GTDTVCNNN
2.

Bảng 2.2.

Bảng tổng hợp tổ hợp TT sử dụng trong

43

GTDTVCNNN
3.

Bảng 2.3.


Bảng tổng hợp phân loại TTTT và Tổ hợp
TT được sử dụng trong GTDTVCNNN

50


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Việc nghiên cứu, giảng dạy ngoại ngữ (ngôn ngữ thư hai) trên thế giới
được bắt đầu vào thế kỷ XVI, tiếp tục phát triển trong các thế kỷ tiếp theo và
trở thành một ngành khoa học ứng dụng có vị trí vững chắc và có tầm ảnh
hưởng khá lớn trong thế kỷ XX. Chính nhu cầu học và dạy ngoại ngữ cũng là
một động lực thúc đẩy khoa học ngôn ngữ trong việc tìm hiểu, xem xét cấu
trúc, chức năng một ngôn ngữ cụ thể. Đồng thời với các nghiên cứu ngôn ngữ
học, việc đề xuất các phương pháp dạy và học ngôn ngữ cũng được chú ý từ
rất sớm.
Với tư cách là một ngoại ngữ, tiếng Việt đã dần trở thành một đối tượng
được nhiều người ở nhiểu quốc gia khác nhau trên thế giới học tập. Từ những
năm 60 của thế kỉ trước, đã có một số sinh viên từ các quốc gia đến Việt Nam
học tiếng lịch sử văn hóa Việt Nam như: Cuba, Nga, Lào, Trung Quốc, Triều
Tiên, Ba Lan…Những năm gần đây, do mối quan hệ của Việt Nam ngày càng
được mở rộng nên số lượng học viên người nước ngoài khắp nơi trên thế giới
đến Việt Nam học tiếng Việt không ngừng tăng. Đồng thời những cơ sở đào
tạo tiếng Việt cho người nước ngoài cũng xuất hiện nhiều hơn ở Hà Nội,
Tp.Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng…
Đáp ứng nhu cầu học tập tiếng Việt ngày càng đông của người nước
ngoài và phục vụ cho việc giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ được hiệu
quả, chúng ta đã xây dựng được hệ thống các giáo trình ở tất cả các trình độ
và đang dần hoàn thiện các bộ giáo trình tiếng Việt chuyên ngành. Những bộ
giáo trình này là cơ sở giúp người nước ngoài tiếp cận với tiếng Việt một cách

hệ thống và dễ dàng. Rõ ràng, học liệu luôn được coi là một trong ba bộ phận
cơ bản cấu thành chu trình dạy và học và việc có được một giáo trình tốt sẽ có
đóng góp tích cực cho đích đến của giáo dục ngôn ngữ (dạy ngoại ngữ).

1


Tiếng Việt có một lớp các TTTT, tuy số lượng không lớn nhưng lại có
tần số sử dụng rất cao trong hoạt động của ngôn ngữ. Lớp từ này có vai trò
lớn trong việc tạo lập câu, phát ngôn, biểu thị ý nghĩa tình thái của phát ngôn.
Ngày nay, với sự lớn mạnh của chuyên ngành ngữ dụng, vai trò của TTTT
trong giao tiếp lại càng không thể không được tính đến.
TTTT là đối tượng được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm, nghiên cứu
từ rất sớm. Tuy nhiên, hoạt động của lớp từ này trong các GTDTVCNNN
chưa được tìm hiểu và nghiên cứu nhiều. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài luận văn: khảo sát tiểu từ tình thái trong các giáo trình dạy
tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài với mong muốn đưa ra những đánh giá đầy
đủ hơn về lớp từ này trong GTDTVCNNN, đồng thời có những ý kiến góp
phần xây dựng những bộ giáo trình dạy TVCNNN tốt hơn.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tƣợng nghiên cứu: Xem xét đánh giá toàn bộ diện mạo các giáo
trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài luôn là một công tác cần thiết và
đương nhiên cần nhiều công sức. Với khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, chúng
tôi không hy vọng và cũng không thể tìm hiểu mọi mặt nội dung của các giáo
trình dạy tiếng Việt hiện hành, đối tượng mà chúng tôi tập trung khảo sát,
nghiên cứu chỉ là tiểu từ tình thái (TTTT) trong các giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài. Tiểu từ tình thái tiếng Việt, tuy là một tập hợp không
nhiều các yếu tố ngôn ngữ nhưng lại đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong giao tiếp. Các tác giả biên soạn giáo trình dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài theo đường hướng giao tiếp cũng đã chú ý phân bố tiểu thái vào

các bài học khi xây dựng giáo trình. Tự hạn định đối tượng khảo sát là các
TTTT tiếng Việt, ngoài việc muốn tìm hiểu sự thể hiện loại từ này trong các
sách dạy tiếng Việt ra sao, chúng tôi cũng muốn làm một việc có ý nghĩa thực
tiễn, giúp ích cho công việc mà chúng tôi đảm nhiệm là dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài.

2


Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi lựa chọn tìm hiểu nhóm TTTT trong
một số giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài đã được biên soạn và
xuất bản ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỉ XX cho đến gần đây (năm
2013) làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu.
Bên cạnh đó trong quá trình khảo sát, chúng tôi cũng quan tâm đến một
số tập bài giảng, giáo trình được sử dụng ở các cơ sở đào tạo nước ngoài khi
cần để kiểm chứng…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: Với đề tài nghiên cứu “Khảo sát tiểu từ tình thái
trong giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài”, chúng tối muốn thực
hiện các mục đích sau:
Tìm hiểu, khảo sát và phân tích vai trò và tác dụng của các TTTT trong
giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Trên cơ sở đó đưa ra các đánh
giá, nhận xét về việc dùng các TTTT tiếng Việt trong các giáo trình này.
Bước đầu đề xuất một vài kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
nhóm TTTT cho học viên người nước ngoài.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tóm tắt những nét cơ bản nhất về lý thuyết tình thái và một số khái niệm
có liên quan.
Khảo sát, tìm hiểu các TTTT TV trong một số giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài. Do hạn chế về mặt thời gian nên chúng tôi chỉ lựa

chọn một số giáo trình tiêu biểu thường xuyên được sử dụng trong công tác
giảng dạy cho học viên là người nước ngoài.
Miêu tả một số TTTT đặc trưng trong những giáo trình đã được lựa chọn
để nghiên cứu.
Dựa vào số liệu thống kê thu được qua việc xử lý số liệu để đưa ra mức
độ sử dụng TTTT trong một số giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài

3


Nêu ý nghĩa và đánh giá về việc sử dụng các TTTT trong giáo trình dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài. Trên cơ sở đó đánh giá cách sử dụng các
TTTT trong một số trường hợp khác nhau.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Một số thủ pháp và phương pháp được chúng tôi chủ yếu sử dụng trong
luận văn là một số phương pháp, thủ pháp nghiên cứu ngôn ngữ học thường
gặp như thống kê, phân tích, xử lý, so sánh đối chiếu …
5. Ý nghĩa của luận văn.
5.1. Ý nghĩa lý luận
Về phương diện lý luận, luận văn đã trình bày một bức tranh tổng quát
về vấn đề tình thái, thông qua việc khảo sát TTTT trong giáo trình dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài đã góp phần làm sáng tỏ và nổi bật hơn đặc điểm
của TTTT TV cũng như vai trò to lớn của nó trong sứ mệnh tạo “linh hồn”
cho câu.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Công trình nghiên cứu giúp chúng tôi có nhận thức rõ hơn về các TTTT
và tác động của các TTTT trong giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài.
Luận văn có giá trị làm tư liệu tham khảo cho những người làm nghiên

cứu khoa học và giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Đồng thời,
những kết luận, nhận xét của luận văn cũng góp một tiếng nói xây dựng cho
các tác giả trong công tác chỉnh lý, biên soạn các giáo trình dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài.
6. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm ba chương:
Mở Đầu:
1. Lý do chọn đề tài.

4


2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Ý nghĩa luận văn
6. Bố cục luận văn.
Nội Dung:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết.
Chương 2: TTTT trong GTDTVCNNN.
Chương 3: Một số gợi ý khi giảng dạy TTTT trong giáo trình dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài.
Kết Luận.

5


CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Khái quát về tình thái.
1.1.1. Khái niệm về tình thái.
F.de. Saussure chính là người đầu tiên đặt nền móng cho ngôn ngữ học
cấu trúc. Một thời gian dài sau F.de. Saussure, các nhà ngôn ngữ học vẫn
không muốn xóa đi ranh giới giữa ngôn ngữ và lời nói. Các nghiên cứu ngôn
ngữ trong giai đoạn này nghiêng về hình thức nên ít xem xét ngôn ngữ trong
hoạt động giao tiếp. Vì thế, vai trò của người nói đối với nội dung của phát
ngôn ít được đề cập đến. Vấn đề tình thái bị đẩy về phía lời nói và bị coi là
thứ yếu.
Nghĩa tình thái là một phạm trù khá phức tạp. V.Z. Panfilov đã khẳng
định: “không có phạm trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và thành phần ý
nghĩa bộ phận lại gây ra nhiều ý kiến khác biệt và dối lập nhau nhƣ phạm trù
tình thái” (dẫn theo [21,254]). Chính vì thế, tình thái được hiểu không giống
nhau ở các khuynh hướng ngôn ngữ học khác nhau. Sau đây chúng tôi xin dẫn
một số quan niệm của các nhà ngôn ngữ học về tình thái.
Trên thế giới
Những nhà khoa học nghiên cứu tiên phong về tình thái: V.Z. Panfilov,
Ch.Bally, Noam Chomsky, J. Lyons.
Ch.Bally đưa ra quan điểm về tình thái bắt nguồn từ nội dung ngữ nghĩa
của câu. Theo ông, nội dung ngữ nghĩa của câu cần phân biệt hai yếu tố khác
nhau là: Dictum (ngôn liệu) và Modus (Tình thái). Trong đó, Dictum gắn với
chức năng thông tin, chức năng miêu tả của ngôn ngữ, còn Modus là bộ phận
tình thái, là những thái độ, cách đánh giá khác nhau của người nói đối với nội
dung được biểu hiện cũng như mối quan hệ giữa nội dung ấy với hiện thực
trong cách nhìn nhận của chủ thể phát ngôn, đó là cái mon muốn hay không
mong muốn, cái hiện thực hay phi hiện thực, gắn với mục đích phát ngôn

6



nào…Ch.Bally cho rằng chính những yếu tố ấy là “linh hồn của câu”. Cuối
cùng Ch.Bally đã định nghĩa:"Tình thái là thái độ của ngƣời nói đƣợc biểu thị
đối với sự việc hay trạng thái đƣợc diễn đạt trong câu". (dẫn theo [16,10]).
Quan điểm này của Ch.Bally đã được Fillmore phát triển khi ông nghiên cứu
cấu trúc của câu, ông đã chia cấu trúc nghĩa của câu thành hai phần chính là
mệnh đề và tình thái, được triển khai theo công thức: S = M + P (S-Modus, PProposion).
Noam Chomsky, người mở đường cho ngữ pháp cải biến tạo sinh, có
một cách nhìn khác về tình thái khi cho rằng: Câu bao giờ cũng phải là câu
khẳng định, câu nghi vấn hay là câu mệnh lệnh. Tính chất khác nhau của
những câu đó là “tình thái”. Như vậy, tình thái là yếu tố buộc phải có, để cùng
với “hạt nhân” tạo ra câu cơ sở. Và không thể nào có một câu mà không có
tình thái, tức không thuộc một trong các kiểu câu nói trên. Cũng không thể
nào một câu có hai, ba tình thái, tức là cùng một lúc thuộc hai, ba kiểu câu.
(dẫn theo [22, 743-744]). Như vậy, so với quan điểm của Ch. Bally thì ông
không xét riêng đến thái độ tình cảm của người nói mà chỉ xét đến các yếu tố
phân biệt kiểu câu. Nhưng có thể nhìn nhận rằng: Thái độ tình cảm đã được
bao trùm ở trong tình thái – yếu tố xác định kiểu câu, vì kiểu câu là sự biểu thị
hai quan hệ gắn bó với nhau (quan hệ giữa người nói với thế giới và quan hệ
giữa người nói với người nghe). Vì vậy, tình thái trong cách nhìn của
N.Chomsky và tình thái trong cách nhìn của Ch. Bally tuy có khác nhau nhưng
về cơ bản không đối lập, mâu thuẫn với nhau.
J. Lyons: (1980) [26] một câu thường tồn tại 3 kiểu nghĩa tình thái cơ
bản là:
Tình thái tất yếu và khả năng: Loại tình thái này bắt nguồn từ sự phân
chia của các nhà logic.
Tình thái nhận thức: Là kiểu tình thái liên quan đến tính thực tế, tính
hiện thực

7



Tình thái nghĩa vụ: Liên quan đến trách nhiệm.
Ông còn cho rằng, về mặt lý thuyết, có thể phân tình thái nhận thức
thành hai loại: tình thái chủ quan và tình thái khách quan, nhưng đó không
phải là sự phân chia có thể tiến hành một cách hoàn toàn rạch ròi (dẫn theo
[26, 406 – 412]). Đến năm 1990, ông bổ sung thêm hai loại nữa là:
Các thì ngữ pháp nhƣ một loại tình thái.
Bắt buộc, cho phép, cấm đoán, miễn trừ.
Ở Việt Nam
Với tiếng Việt, vấn đề nghiên cứu tình thái và các phương tiện biểu thị
tình thái còn gặp nhiều khó khăn. Trong những năm gần đây đã có một số tài
liệu, công trình nghiên cứu đề cập đến ý nghĩa tình thái trong phát ngôn và
đưa ra một số phương tiện biểu thị tình thái như: phương tiện từ vựng,
phương tiện ngữ pháp và ngữ khí của từ,…dựa trên văn cảnh của phát ngôn,
hoàn cảnh nói năng hay mục đích giao tiếp.
Ở Việt Nam, khái niệm tình thái cũng được các nhà ngôn ngữ học nghiên
cứu từ rất sớm. Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu sau: Nguyễn Kim Thản
[19], Hoàng Trọng Phiến [17], Nguyễn Đức Dân [7], Nguyễn Anh Quế [18],
Diệp Quang Ban [1], Cao Xuân Hạo [9], Phan Mạnh Hùng [13], Phạm Hùng
việt [23], Nguyễn Thị Lương [16], Nguyễn Văn Hiệp [12]. Trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi chủ yếu dựa theo quan điểm của các
tác giả: Diệp Quang Ban, Cao Xuân Hạo, Hoàng Trọng Phiến.
Quan niệm của Diệp Quang Ban
Vận dụng lý thuyết của lý thuyết ngữ pháp chức năng – hệ thống của A.
K. Halliday, Diệp Quang Ban đã nêu ba chức năng cơ bản của câu tiếng Việt:
Chức năng diễn đạt nghĩa biểu hiện (câu với tư cách sự biểu hiện)
Chức năng liên nhân – chức năng tương tác (câu với tư cách lời trao đổi)
Chức năng tạo văn bản (câu với tư cách thông điệp) (dẫn theo [2, 18-19])

8



Theo tác giả, cấu trúc câu với tư cách lời trao đổi gồm phần thức và
phần dƣ. Phần thức diễn đạt quan hệ liên nhân, phần dƣ diễn đạt sự việc hữu
quan. Phần thức gồm biểu thức thức (chỉ thái độ của người nói với người
nghe) và các yếu tố tình thái khác (tình thái tố) (chỉ cách nhìn của người nói
đối với sự việc được nói đến) (dẫn theo [2, 29]). Như vậy, phần thức tương
đương với modus, phần dƣ tương đương với dictum của Ch. Bally.
Cao Xuân Hạo trong cuốn “Tiếng Việt - sơ thảo ngữ pháp chức năng”
đã đưa ra quan niệm của mình như sau: Trong lôgic học, nội dung của một
mệnh đề được chia làm hai phần là: ngôn liệu và tình thái với cách hiểu như
sau:
Ngôn liệu: “ tức là cái tập hợp gồm sở thuyết (vị ngữ lôgic) và các tham
tố của nó đƣợc xét nhƣ một mối liên hệ tiềm năng”. (dẫn theo [9,50]).
Tình thái là: “Cách thực hiện mối liên hệ ấy, cho biết mối quan hệ ấy là
có thật (hiện thực) hay là không có (phủ định nó, coi nó là phi hiện thực), là
tất yếu hay phi tất yếu, là có thể có đƣợc hay không thể có đƣợc”. (dẫn theo
[9,50]).
Hoàng Trọng Phiến: có bàn đến tính tình thái như một điều kiện để tạo
câu khi xác định các điều kiện để tạo câu (cùng với tính vị ngữ). Ông quan
niệm: “câu bao giờ cũng mang tính tình thái nhất định. Tính tình thái là phạm
trù ngữ pháp của câu”, “nó có tác dụng thông báo một điều gì mới mẻ. Qua
câu, người nhận hiểu rõ người nói có thái độ như thế nào đối với hiện thực,
người nói trình bày hiện thực với sự đánh giá của mình” (đánh giá đúng hay
sai, tin hay ngờ, ước đoán hay đã tồn tại thực, khuyên bảo hay ra lệnh…),
(dẫn theo [17,30]).
Nguyễn Văn Hiệp:
Cũng giống nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ khác, trong cuốn “Cơ sở
ngữ nghĩa phân tích cú pháp”, Nguyễn Văn Hiệp đồng ý với quan điểm của


9


Byee là: “Tình thái là tất cả những gì mà ngƣời nói thực hiện cùng với toàn
bộ nội dung mệnh đề” (dẫn theo [12,92]).
Tác giả đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa.
Tình thái nhận thức: Thuật ngữ “epistemic” (nhận thức) có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp, có nghĩa là hiểu biết, tuy nhiên được dùng theo nghĩa rộng hơn,
không chỉ liên quan đến tính tất yếu, tính khả năng mà còn liên quan đến mức
độ cam kết của người nói đối với điều được nói ra trong câu. (dẫn
theo[12,103]).
Tình thái đạo nghĩa: Là tình thái liên quan đến nhân tố ý chí của người
nói. Nếu như tình thái nhận thức chỉ ra vị thế hiểu biết của người nói bao gồm
cả sự xác nhận cũng như những đảm bảo cá nhân của người nói đối với điều
anh ta nói ra thì tình thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo đức
hay các chuẩn mực xã hội khác đối với hành động do một người nào đó hay
chính người nói thực hiện. Tuy nhiên, có thể thấy hai loại tình thái này đều có
hai đặc điểm chung là tính chủ quan và tính không thực hữu.
Tính chủ quan:
Ở tình thái nhận thức, tính chủ quan thể hiện ở những bằng chứng và cơ
sở lý luận mang tính cá nhân của người nói nhằm thể hiện sự cam kết có mức
độ vào tính chân thực của điều được nói ra.
Ở tình thái đạo nghĩa, tính chủ quan thể hiện ở thái độ, ý chí và mong
muốn của người nói đối với hành động. Người nói cho rằng hành động là bắt
buộc, là bị cấm đoán, là được miễn trừ. Qua đó, người nói thể hiện ý chí,
mong ước người nghe thực hiện hành động (thể hiện ở nhóm hành động hay
cam kết).
Tính không thực hữu:
Ở tình thái nhận thức, tính không thực hữu thể hiện ở sự cam kết, mức
độ của người nói đối với tính chân thực của điều được nói ra. Nói cách khác,

người nói không đảm bảo hoàn toàn tính chân thực của nó.

10


Ở tình thái đạo nghĩa, tính không thực hữu thể hiện ở hành động tương
lai mà người nói muốn người nghe thực hiện hay tự mình thực hiện. Những
phát ngôn thuộc nhóm điều khiển đều có thể phân tích như là những phát
ngôn áp đặt ai đó nghĩa vụ phải làm cho mệnh đề được nêu trong phát ngôn
trở thành hiện thực trong một tương lai nào đó. (dẫn theo [12, 103-111]).
1.1.2. Các phƣơng tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái.
Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình thái, các phương tiện dùng
để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng. Có một số công trình đã đề cập
đến các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ nói chung và trong
tiếng Việt nói riêng như: Nguyễn Thị Lương (1996) [16], Phạm Hùng Việt
(2003) [24], Nguyễn Văn Hiệp (2008) [12]…Tuy nhiên, có thể tổng hợp một
số phương tiện chính biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt như sau:
Phƣơng tiện ngữ âm:
Trong những câu vắng mặt các phương tiện từ ngữ tình thái thì ngữ điệu
là một trong những phương tiện thể hiện thể hiện ý nghĩa tình thái trong phát
ngôn. Một phát ngôn có hình thức tường thuật nhưng được phát âm với những
ngữ điệu khác nhau cũng cho ta các kiểu câu khác nhau và những ý nghĩa tình
thái khác nhau. Ta hãy xét các ví dụ sau.
Ví dụ:
(1) Anh cũng chỉ đọc trong sách thôi mà.
(VI, 192)
- Anh cũng chỉ đọc trong sách thôi mà. Phát ngôn với ngữ điệu đi lên
cho ta phát ngôn có đích ở lời là hỏi (chất vấn).
- Anh cũng chỉ đọc trong sách thôi mà. Phát ngôn hạ giọng ở hai âm tiết
cuối “thôi mà” ta sẽ có một phát ngôn có đích là hành động phân trần, giải

thích.
Ngoài ngữ điệu, nhấn giọng vào một điểm nào đó trong phát ngôn cũng
thể hiện được ý nghĩa tình thái thuộc cấp độ ngữ âm, âm vị.

11


Phƣơng tiện từ vựng:
Các vị từ ngôn hành trong các kiểu câu ngôn hành: ra lệnh, xin, đề nghị,
yêu cầu…
Các vị từ đánh giá và tổ hợp có tính đánh giá: may là, đáng buồn là…
Các động từ tình thái: muốn, toan, định, tin…
Ngữ cố định:
Thành ngữ: đen nhƣ mực, dai nhƣ đỉa…
Quán ngữ: của đáng tội là, dù sao đi nữa…
Các phụ từ tình thái: đã, đang, sẽ, vẫn, cứ, còn…
Các thán từ: eo ôi, chao ôi, trời ơi…
Các TTTT cuối câu và tổ hợp đặc ngữ tương đương: à, ƣ, nhỉ, nhé, chắc,
chăng…
Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả…
Một số từ, tổ hợp từ được chuyên dùng với nghĩa tình thái xuất hiện ở
bậc câu: có lẽ, có thể, chắc chắn, hình nhƣ, biết đâu…
Phƣơng tiện ngữ pháp:
Các phương tiện được nhắc đến là: đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu
thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm cần nhấn trong phát
ngôn. Ngoài ra, còn có một số kiểu câu đặc trưng cũng biểu thị ý nghĩa tình
thái.
Ví dụ:
Một số kiểu cấu trúc câu biểu thị hành động cảm thán:
X ơi là X: con ơi là con…

Động từ + cả + danh từ: điên cả tiết, bực cả mình…
Các kiểu câu điều kiện, giả định: nếu…thì…; giá…thì…
1.1.3. Sự phân loại các kiểu tình thái.
Tình thái trước hết được đa số các nhà nghiên cứu phân thành hai loại
chính: Tình thái khách quan và tình thái chủ quan.

12


- Tình thái khách quan (TTKQ: thuộc phạm vi nghiên cứu của logic học,
nó liên quan tới hiện thực, là một phần của việc miêu tả thế giới. Theo
J.Liapon, nó là dấu hiệu tất yếu của một phát ngôn bất kì, thể hiện mối quan
hệ giữa cái được thông báo với thực tế ở bình diện hiện thực tính. TTKQ
trong logic học không tính đến vai trò của chủ thể phát ngôn. Những câu sau
đây, theo logic học, là đồng nhất về tình thái:
- Có lẽ Mary đã đến trƣờng.
- Nghe đâu Mary đã đến trƣờng.
- May ra Mary đã đến trƣờng.
- Nhỡ ra Mary đã đến trƣờng.
- Tôi nghĩ Mary đã đến trƣờng.
Chúng đều được xếp vào loại phán đoán CÓ THỂ, và đều được biểu diễn
như nhau trong logic hình thức là: “có thể Mary đến trường”
- Tình thái chủ quan (TTCQ): thuộc phạm vi nghiên cứu của ngôn ngữ
học, nó diễn đạt thái độ của người nói cũng theo tác giả J.Liapon, nó là dấu
hiệu không bắt buộc của một phát ngôn, thể hiện mối quan hệ của người nói
với điều được nói ra. Dung lượng ngữ nghĩa của TTCQ rộng hơn dung lượng
ngữ nghĩa của TTKQ và không đồng loại.
TTCQ được các nhà nghiên cứu phân biệt thành hai phạm trù chính là:
tình thái nhận thức (Epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (Deontic
modality). Tình thái nhận thức, theo F.R.Palmer không chỉ liên quan đến tình

thái khả năng hay tất yếu mà còn liên quan đến mức độ cam kết của người nói
đối với điều mà anh ta nói ra và nó gồm ba tiểu loại:
+ Tình thái nhận thức thực hữu (factual): người nói cam kết nội dung
mệnh đề là chân thực, có nghĩa là người nói khẳng định sự tình hay cho rằng
tất yếu sự tình sẽ xảy ra. Ví dụ:
- Gì thì gì cưới em anh cũng phải tới.
- Anh ấy chắc chắn là kĩ sư.

13


+ Tình thái nhận thức phản thực hữu (counter – factual): người nói cam
kết nội dung mệnh đề là không chân thực, có nghĩa là người nói phủ định sự
tình. Ví dụ:
- Tớ có đi chung xe với bạn ấy đâu.
- Chúng tôi có làm gì nó đâu nào.
+ Tình thái nhận thức phi thực hữu ( non-factual): người nói không cam
kết (hoặc cam kết ở mức độ thấp) về sự chân thực của nội dung mệnh đề. Sự
tình ở đây có thể đúng như thế hoặc không đúng như thế. Ví dụ:
- May ra bác ấy qua được đêm nay.
- Có lẽ cái Hà yêu thằng Huy thật.
- Về tình thái đạo nghĩa, theo F.R.Palmer phạm trù này có liên quan đến
tính hợp thức về đạo lý của hành động do chính người nói thực hiện hoặc do
người khác thực hiện. Nó thể hiện độ áp đặt của người nói về trách nhiệm của
người thực hiện hành động như bắt buộc, cấm đoán, được phép hay không
được phép.
Tuy quan điểm phân biệt tình thái thành hai loại như trên là phổ biến
nhưng không phải là quan điểm thống nhất ở tất cả các nhà nghiên cứu.
Cao Xuân Hạo trong “Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng” (1991)
[9] đã khái quát về đặc điểm của tình thái nói chung và đặc điểm sử dụng một

số phương tiện tình thái nói riêng, chủ yếu gắn với cấu trúc Đề - Thuyết. Ông
phân biệt hai loại tình thái:
- Tình thái của hành động phát ngôn (Modalité d’esnonciation) phân biệt
các lời nói về phương diện mục tiêu và tác động trong giao tiếp. Đó chính là
sự phân biệt giữa các loại câu: trần thuật, hỏi, cầu khiến mà ngữ pháp truyền
thống đã miêu tả. Tình thái của hành động phát ngôn thuộc về lĩnh vực dụng
pháp.

14


- Tình thái của lời phát ngôn (Modalité d’ énoncé) liên quan đến thái độ
của người nói đối với điều mình nói ra hoặc đến quan hệ giữa sở đề và sở
thuyết của mệnh đề. Tình thái của lời phát ngôn thuộc về lĩnh vực nghĩa học.
Trong những năm gần đây, nhằm bao quát hơn bức tranh về tình thái,
nhiều nhà nghiên cứu đã nêu ra một sự phân biệt mới, đó là sự phân biệt tình
thái căn bản (Root Modality) với tình thái nhận thức (Epistemic Modality).
Chúng tôi xin trình bày một cách vắn tắt sự phân biệt này như sau:
Tình thái căn bản (Root Modality) có thể được định nghĩa như là tình
thái của hành động (modality of action). Tình thái căn bản được chia ra thành
hai loại: một loại là tình thái đạo nghĩa và loại kia, theo cách gọi của Palmer
(1986) là tình thái trạng huống (deontic modality).
Đối lập với tình thái căn bản là tình thái nhận thức (Epistemic Modality),
viết tắt là TTNT. Tình thái nhận thức là tình thái của sự hiểu biết, thể hiện
tình trạng (status) hiểu biết của người nói, đó là sự xác nhận, cũng như những
đảm bảo, cam kết cá nhân của người nói đối với điều anh ta nói ra. Lyons
(1980) [26] cho rằng TTNT là cách trình bày thế giới quan điểm của người
nói, tức tình thái này liên quan đến hiện thực, nhưng là hiện thực thông qua
lăng kính chủ quan của người nói. Như đã trình bày ở trên, người ta chia tình
thái nhận thức thành ba loại: tình thái thực hữu (factual), tình thái không thực

hữu (non-factual) và tình thái phản thực hữu (counter-factual). Tình thái thực
hữu được đặc trưng bởi việc người nói cam kết vào tính hiện thực của sự tình
được truyền đạt trong câu: Hóa ra nó thi trƣợt đại học. Với tình thái không
thực hữu, người nói chỉ đưa ra một đoán định chứ không chắc chắn vào tính
hiện thực hay không hiện thực của sự việc được nêu: Nghe nói là nó thi trƣợt
đại học.Còn tình thái phản thực hữu là loại tình thái mà ở đó người nói xác
quyết rằng sự tình được truyền đạt trong câu là không chân thực, sai lầm: Làm
nhƣ thể nó thi trƣợt đại học! Như vậy, cùng một cốt lõi mệnh đề là: Nó thi

15


trƣợt đại học, trong ba phát ngôn kể trên người nói đã lần lượt thể hiện ba thái
độ, ba quan điểm khác nhau.
Những kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy tình thái là một vấn đề khá
phức tạp vì nó gắn với những quan niệm và những cách hiểu rất khác nhau:
quan niệm truyền thống khác với quan niệm trong ngôn ngữ học, đồng thời
trong ngôn ngữ học lại có nhiều quan niệm khác nhau…Nhưng nói chung, các
quan niệm đều công nhận rằng đây là bộ phận gắn với chiến lược của người
nói với thông báo và người đối thoại.
1.2. khái quát về tiểu từ tình thái trong tiếng Việt.
1.2.1. Khái niệm tiểu từ tình thái trong tiếng Việt.
Trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, khái niệm tiểu từ tình thái trở đi trở
lại trong các công trình nghiên cứu của các tác giả ngữ pháp tiếng Việt dưới
nhiều hình thức và tên gọi khác nhau. Các tác giả với cách thức tiếp cận khác
nhau lại có những tên gọi và cách miêu tả khác nhau về nhóm từ này. Do vậy,
cũng có nhiều định nghĩa về TTTT. Chúng tôi xin dẫn ra quan niệm của một
số nhà nghiên cứu tiêu biểu về lớp từ này.
Diệp Quang Ban cho rằng: “tiểu từ tình thái là lớp từ có tính chất hƣ
cao, phần lớn diễn đạt những sắc thái tình cảm rất tế nhị và dễ biến động

trong mối quan hệ với từ, tổ hợp từ mà chúng đi kèm” (dẫn theo [2,553])
Nguyễn Tài Cẩn [4] quan niệm: “tiểu từ tình thái (còn đƣợc gọi là trợ
từ) là những từ không giải thích đƣợc về mặt nghĩa nhƣng nó có vai trò quan
trọng trong việc tạo lập, phân loại câu”.
Đinh Văn Đức [8] đã định nghĩa như sau: “tiểu từ tình thái là những từ
biểu đạt ý nghĩa tình thái trong mối quan hệ với mục đích phát ngôn biểu thị
cảm xúc ngƣời nói”
Phan Mạnh Hùng cho rằng “tiểu từ tình thái” là hƣ từ biểu thị thái độ
của ngƣời nói với thực tại hoặc với đối tƣợng phát ngôn” [13]. Lớp từ này có
vai trò, vị trí quan trọng trong giao tiếp.Việc xác định và phân loại TTTT là

16


một việc rất khó khăn, bởi lẽ các TTTT tiếng Việt có khả năng diễn đạt nghĩa
rất tinh tế, biểu đạt đa dạng và phong phú các sắc thái biểu cảm.
Trong luận án của mình, Nguyễn thị Lương cũng dẫn ra khái niệm về
TTTT của F.Keifer làm căn cứ cho luận án như sau:
“tiểu từ tình thái là những tiểu từ có hiệu lực tạo tính tình thái” (dẫn theo
[16,5])
Tác giả cũng đã tổng hợp và chia thành ba nhóm chính:
+ Các tiểu từ như: à, ƣ, nhỉ...thường có hiệu lực tạo tình thái nghi vấn,
tạo câu hỏi cần có sự giải đáp.
+ Các tiểu từ như: đi, nào, thôi...thường có hiệu lực tạo tính tình thái cầu
khiến, bày tỏ mong muốn của người phát ngôn với người nghe.
+ Các tiểu từ như: thay, thế, sao...thường có hiệu lực bộc lộ trạng thái,
cảm xúc của người phát ngôn.
Những nghiên cứu và cách định nghĩa trên đây của các tác giả cho thấy,
vấn đề định nghĩa của tiểu từ tình thái vẫn còn chưa thống nhất. Thật khó để
đưa ra một định nghĩa chính xác cho các tiểu từ tình thái câu tiếng Việt. Song

tựu chung lại, chúng ta có thể nhận xét chung về tiểu từ tình thái như sau:
Tiểu từ tình thái là những đơn vị từ vựng không biểu thị sự vật, hiện
tƣợng của thực tại, mà chỉ biểu thị thái độ, tình cảm của ngƣời nói với hiện
thực đƣợc nói đến trong câu và với ngƣời nghe.
Trong luận văn này, chúng tôi dựa vào quan niệm của nhà nghiên cứu
Diệp Quang Ban để tìm hiểu lớp từ này.
1.2.2. Phân loại tiểu từ tình thái.
Đã có nhiều cách phân loại TTTT khác nhau. Dưới đây, chúng tôi xin
đưa ra những cách phân loại tiêu biểu của một số nhà nghiên cứu.
a. Diệp Quang Ban, TTTT có hai lớp con là ngữ thái từ và trợ từ. (dẫn
theo [2, 553-555])
Ngữ thái từ:

17


Ngữ thái từ (trước đây cũng gọi là ngữ khí từ) là hư từ xuất hiện ở bậc
câu và đứng cuối câu với vai trò tạo phần thức và diễn đạt những thái độ khác
nhau khá tinh tế của người nói đối với người nghe hoặc đối với sự việc được
nói đến trong câu. Ngữ thái từ gồm hai lớp nhỏ là ngữ thái từ tạo kiến trúc
thức và ngữ thái từ diễn đạt các thái độ.
- Ngữ thái từ tạo kiến trúc thức:
Ngữ thái từ tham gia tạo kiến trúc thức là ngữ thái từ làm phần thức
chuyên dụng trong cấu trúc thức (không kể trường hợp chúng thực hiện
những chức năng khác không thuộc cấu trúc thức). Các ngữ thái từ này gồm
những từ làm phần thức trong cấu trúc thức nghi vấn, thức cầu khiến, thức
cảm thán.
+ Ngữ thái từ làm phần thức của thức nghi vấn
Các ngữ thái từ: à, ạ, a, ƣ, hở, hả, nhỉ, chăng, phỏng…chuyên môn làm
phần thức trong cấu trúc thức nghi vấn. Chúng vừa có chức năng làm phần

thức vừa có chức năng diễn đạt thái độ của người nói đối với người nghe
(kính trọng hay thân hữu).
Ví dụ (2):
Marry: Xin lỗi. Anh làm ơn xem giúp mấy giờ rồi ạ?
(V, 197)
Tiểu từ “ạ” của Marry trong phát ngôn góp phần thể hiện sắc thái tình
cảm lịch sự và trang trọng. Tuy không biết người đi đường này là người có vị
thế như thế nào, ở độ tuổi bao nhiêu, nhưng cô ấy đang làm phiền tới người
này (đó là hành động hỏi giờ) nên cô ấy sử dụng TTTT “ạ” là có ý tôn trọng,
lịch sự tới người mà cô ấy đang làm phiền.
+ Ngữ thái từ làm phức của thức cầu khiến.
Những ngữ thái từ chuyên dụng là: đi, thôi, nào, nhé, đã, với…(với sắc
thái dịu nhẹ), đứng ở cuối câu với sắc thái thân hữu, hai từ nào, thôi thường
dùng với ngôi thứ nhất bao gồm có thể dùng kết hợp với từ đi.

18


×