Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

ÁP DỤNG KẾ HOẠCH BÀI HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỤM VĂN BẢN NHẬT DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.86 KB, 41 trang )

.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH XUYÊN
TRƯỜNG THCS BÁ HIẾN

CHUYÊN ĐỀ
ÁP DỤNG KẾ HOẠCH BÀI HỌC
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
CỤM VĂN BẢN NHẬT DỤNG

- Tác giả chuyên đề:
1. Cao Thu Giang- Giáo viên
2. Nguyễn Thị Phương Oanh- Giáo viên

1


Bá Hiến, tháng 12 năm 2018

2


ÁP DỤNG KẾ HOẠCH BÀI HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC CỤM VĂN BẢN NHẬT DỤNG
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lời giới thiệu
Môn Ngữ văn là môn học có vai trò cực kì quan trọng trong hệ thống Giáo
dục và Đào tạo nước ta. Dạy văn là dạy cách ứng xử cách làm người. Môn văn là
công cụ đắc lực trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay mục tiêu giáo dục không chỉ hình thành cho trẻ tri
thức mà chú trọng giáo dục đạo đức, giá trị sống, rèn kĩ năng sống, hiểu biết xã hội,
pháp luật, vận dụng kiến thức, kĩ năng giải quyết các vấn đề thực tiễn phát triển


năng lực học. Ngữ văn chính là môn học công cụ, mang tính nhân văn giúp học
sinh phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông.
Hiện nay, giáo dục phổ thông đang chuyển dần từ tiếp cận nội dung sang tiếp
cận năng lực của người học. Để thực hiện được điều đó, chúng ta nhất định phải
thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một
chiều” sang dạy học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
và vận dụng kiến thức kĩ năng của người học. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật với đổi mới tri thức, kĩ
năng, phát triển năng lực, phẩm chất, nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học
và giáo dục. Trước bối cảnh đó, việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực
của người học là cần thiết.
Trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học đã đạt được những
thành công bước đầu. Đó là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến tới
việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của người học. Tuy nhiên, từ thực
tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp, trong quá trình
giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và giảng dạy những văn bản thuộc cụm văn bản
nhật dụng nói riêng, bản thân tôi cùng đồng nghiệp quen sử dụng phương pháp
truyền thống dạy học nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết và tri thức một chiều.
Số giáo viên thường xuyên chủ động sáng tạo trong phối hợp các phương pháp dạy
học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học tự lực sáng tạo của học sinh còn
chưa nhiều. Việc rèn kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết các vấn đề thực tiễn cho học
sinh thông qua việc vận dụng tri thức tổng hợp chưa được quan tâm. Việc vận dụng
công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi
3


và có hiệu quả. Giờ dạy Ngữ văn trước đây có thành công học sinh mới dừng lại ở
mức độ ghi nhớ máy móc, chưa phát huy năng lực chủ động sáng tạo trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức nên học sinh thụ động, lúng túng giải quyết các vấn đề

thực tiễn. Là giáo viên đứng lớp, chúng tôi băn khoăn, trăn trở làm như thế nào để
nâng cao được chất lượng giảng dạy và điều quan trọng hơn là học sinh qua mỗi bài
học có thể khám phá tri thức mới như thế nào, có thể ứng dụng được gì trong thực
tế cuộc sống. Xuất phát từ điều đó mà bản thân chúng tôi không ngừng tìm tòi, học
hỏi để đưa ra phương pháp dạy học văn bản nhật dụng theo định hướng phát triển
năng lực học sinh.
II. Mục đích, đối tượng, phạm vi của chuyên đề.
1. Mục đích:
Đưa ra một số định hướng dạy học phát triển năng lực học sinh trong cụm
văn bản nhật dụng lớp 6, 7, 8 theo kế hoạch bài học 5 hoạt động, 4 bước.
2. Đối tượng:
Cụm văn bản nhật dụng môn Ngữ văn lớp 6, 7, 8 - THCS
3. Phạm vi:
- Năng lực và năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn.
- Cụm văn bản nhật dụng lớp 6, 7, 8 THCS.
- Hình thức thiết kế giáo án 5 hoạt động, 4 bước theo định hướng phát triển
năng lực học sinh.

4


PHẦN B: NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Vị trí vai trò của văn bản nhật dụng:
Văn bản nhật dụng không phải khái niệm chỉ loại thể hay kiểu văn bản. Nói
đến văn bản nhật dụng là nói đến tính chất nội dung văn bản. Đó là những bài viết
có nội dung bức thiết với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng xã hội
hiện đại, hướng người học tới những vấn đề thời sự hàng ngày mà mỗi cá nhân,
cộng đồng đều quan tâm như: thiên nhiên, môi trường, dân số, ma túy… Do đó
những văn bản này giúp người học dễ đạt được mục tiêu tăng tính thực hành, giảm
lý thuyết, gắn bài học với thực tiễn. Tuy nhiên để dạy thành công một văn bản nhật

dụng có tính giáo dục cao đòi hỏi người giáo viên có hiểu biết phong phú các lĩnh
vực trong đời sống và kết hợp có hiệu quả phương pháp dạy học.
Văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như kiểu văn bản. Văn
bản nhật dụng chiếm 10% số văn bản trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Cụ thể:
* Văn bản lớp 6:
- Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử - chủ đề di tích lịch sử.
- Bức thư của thủ lĩnh da đỏ - chủ đề đất đai, tự nhiên, khí hậu, môi trường.
- Động Phong Nha - chủ đề danh lam thắng cảnh.
* Văn bản lớp 7:
- Cổng trường mở ra - chủ đề nhà trường.
- Mẹ tôi - chủ đề gia đình.
- Cuộc chia tay của những con búp bê - chủ đề quyền trẻ em.
- Ca Huế trên sông Hương – chủ đề sinh hoạt văn hóa.
* Văn bản lớp 8:
- Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000 - chủ đề môi trường.
- Ôn dịch thuốc lá - chủ đề tệ nạn xã hội.
- Bài toán dân số - chủ đề dân số.
Như vậy văn bản nhật dụng được phân phối dạy đều trong các khối 6, 7, 8, ý
nghĩa, nội dung của văn bản đều là những vấn đề gần gũi và quen thuộc, bức thiết
đối với con người và cộng đồng của xã hội hiện đại cùng với sự phát triển về tâm lý
và học thức của học sinh, các vấn đề được đề cập trong các văn bản nhật dụng ngày
5


càng phức tạp hơn, vậy để mỗi văn bản nhật dụng thấm sâu và có ý nghĩa thiết thực
với từng học sinh, khi dạy văn bản giáo viên cần am hiểu sâu sắc về nội dung, hình
thức, ý nghĩa nhân văn của từng văn bản. Đổi mới phương pháp dạy học để các vấn
đề thời sự của cá nhân và cộng đồng hiện đại được khơi dậy, đánh thức và làm giàu
tình cảm, ý thức công dân, cộng đồng trong học sinh để các em hòa nhập hơn với
cuộc sống xã hội.

II. Thực trạng của vấn đề.
Trong quá trình dạy học, chúng tôi thấy thực trạng sau:
1. Giáo viên:
Giáo viên coi văn bản là một thể loại giống truyện, kí … nên khai thác và
bình giá trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật,
cách kể … mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản.
Chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, các biện pháp tổ chức
gây hứng thú cho học sinh, giáo viên còn phân vân có nên sử dụng phương pháp
giảng bình hay không và có thì sử dụng như thế nào. Chất văn trong văn bản chưa
nhiều nên biến giờ dạy Ngữ văn thành thuyết minh, tuyên truyền.
Số lượng văn bản nhật dụng mới, đưa vào chương trình chưa nhiều nên giáo
viên còn thấy mới mẻ, ít có kinh nghiệm, lúng túng. Giáo viên chưa xác định đúng
mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng, chưa có ý thức sưu tầm tài liệu
liên quan như tranh ảnh, văn thơ…bổ sung cho bài học nên giờ dạy tẻ nhạt, không
thu hút sự chú ý của học sinh nên không đạt mục tiêu bài học.
Giáo viên còn nặng về phương pháp truyền thống truyền thụ một chiều. Bên
cạnh đó việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học cũng hạn chế- một phần
là do kỹ năng sử dụng máy chiếu hay bảng thông minh chưa tốt nên ngại áp dụng.
Cơ sở vật chất của nhà trường bị xuống cấp dẫn đến không đáp ứng tốt cho việc đổi
mới phương pháp dạy học.
Dạy học đọc - hiểu còn mang nặng tính truyền thụ một chiều những cảm
nhận của giáo viên về văn bản. Nhìn chung vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn
là hình thành kỹ năng.
- Dạy học tích hợp đã được chú trọng, tuy nhiên dạy học tích hợp vẫn mang
tính khiên cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học như bảo vệ môi trường, giáo dục
kỹ năng sống… đưa vào một cách cứng nhắc, chưa làm cho học sinh huy động kiến
thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực … để giải quyết các nhiệm vụ học
6



tập. Việc tích hợp nội môn và tích hợp liên môn chưa thực sự hiệu quả, chính vì
vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực
của học sinh chưa được phát triển.
- Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang
tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa
vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa
dẫm, ỷ lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được tính
dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, thói quen bình đẳng, biết
đón nhận quan điểm bất đồng để hình thành quan điểm cá nhân.
- Phương pháp đóng vai thực sự là phương pháp chưa được giáo viên chú
trọng. Nếu có thực hiện thì chỉ là dạng bài viết, việc xử lí tình huống giả định, trình
bày một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy mà học sinh ít có cơ hội
bày tỏ thái độ, chưa hứng thú, chưa hình thành được các kỹ năng và năng lực của
người học.
2. Học sinh:
Học sinh ở trường chủ yếu là học sinh vùng nông thôn nên việc tiếp cận và
tìm tòi những thông tin thời sự phục vụ cho bài học còn hạn chế.
Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong
việc tìm tòi nghiên cứu bài học.
Từ thực tế trên chúng tôi thấy việc dạy – học các văn bản nhật dụng trong
chương trình tại đơn vị chưa thật phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của học
sinh. Yêu cầu đặt ra là phải thay đổi, thay đổi cả ở người dạy và ở người học để sau
mỗi bài dạy học sinh không chỉ có được hiểu biết kiến thức mà còn phải phát triển
được năng lực bản thân, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu về đổi mới giáo dục.
III. Năng lực và năng lực cần hình thành cho học sinh môn Ngữ văn
1. Khái niệm năng lực: Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức,
kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có
hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống.
2. Năng lực chung:
- Năng lực tự học.

- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
- Năng lực thẩm mĩ.
7


- Năng lực thể chất.
- Năng lực giao tiếp.
- Năng lực hợp tác.
- Năng lực tính toán.
- Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông.
3. Năng lực cần hình thành cho học sinh môn Ngữ văn
Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn,
học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ,
tình cảm, động cơ cá nhân … nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của
hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định.
Năng lực cần hình thành cho học sinh môn Ngữ văn:
Đặc điểm
Năng lực
1. Giải quyết - Phát hiện vấn đề, đề xuất
vấn đề.
giải pháp
- Thực hiện
- Đánh giá

2. Năng lực - Phát hiện những ý tưởng
sáng tạo.
mới nảy sinh trong học tập
và cuộc sống
- Đề xuất các giải pháp
một cách thiết thực

- Áp dụng vào tình huống
mới
3. Hợp tác.
- Phối hợp, tương tác hỗ
trợ nhau cùng thực hiện
nhiệm vụ để cùng đạt mục

Thể hiện trong môn Ngữ văn
- Phát hiện và lí giải những vấn đề
mơ hồ, đa nghĩa, khó hiểu trong nội
dung và nghệ thuật.
- Phát hiện và lí giải những vấn đề
trong thực tiễn đời sống được gợi ra
từ tác phẩm.
Ví dụ: “Thông tin về Ngày Trái Đất
năm 2000” chúng ta có cần làm gì
để thông tin đi vào cuộc sống để
biến thành hành động cụ thể?
- Phát hiện và đánh giá những khó
khăn, thách thức đặt ra trong quá
trình tạo lập văn bản nói và viết.
- Có cách tiếp cận và cắt nghĩa độc
đáo về nội dung, giá trị của tác
phẩm.
- Phát hiện những nét nghĩa mới, giá
trị mới của văn bản.
- Có cách nói và cách viết sáng tạo,
độc đáo, hiệu quả.
- Thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận
cá nhân.

- Điều chỉnh thái độ, cách ứng xử
8


Năng lực

Đặc điểm
tiêu chung (thảo luận
nhóm)
-Thảo luận nhóm là
phương pháp có thể áp
dụng với nhiều bài học,
điều quan trọng ta phải
chú ý là đề tài cho học
sinh thảo luận phải là đề
tài có tính phức hợp, có
vấn đề, cần huy động sự
suy nghĩ của nhiều người.
4. Tự quản - Làm chủ cảm xúc
bản thân.
- Suy nghĩ và hành động
hướng vào mục tiêu phù
hợp với hoàn cảnh
- Tự đánh giá, điều chỉnh
hành động phù hợp với
những tình huống mới

5. Năng lực
giao tiếp
Tiếng Việt.


6. Năng lực
thưởng thức
văn học/cảm
thụ thẩm mĩ.

Thể hiện trong môn Ngữ văn
Ví dụ: Văn bản “Ôn dịch thuốc lá”,
nếu gia đình em có người thân hút
thuốc em sẽ hành động như thế nào?
Học sinh đưa ra nhiều ý kiến, sau đó
tổng hợp chọn giải pháp tối ưu.

HS cần biết xác định các kế hoạch
hành động cho cá nhân và chủ động
điều chỉnh kế hoạch để đạt được
mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác
động của ngoại cảnh đến việc tiếp
thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng
của cá nhân để khai thác, phát huy
những yếu tố tích cực, hạn chế
những yếu tố tiêu cực, từ đó xác
định được các hành vi đúng đắn, cần
thiết trong những tình huống của
cuộc sống.
Sử dụng Tiếng Việt một Năng lực giao tiếp trong các nội
cách phù hợp và hiệu quả dung dạy học Tiếng Việt được thể
trong tình huống giao tiếp hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói,
đọc, viết và khả năng ứng dụng các
kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình

huống giao tiếp khác nhau trong
cuộc sống.
Biết nhận diện, thưởng - Cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ, nhận
thức và đánh giá cái đẹp ra những giá trị thẩm mĩ trong văn
trong văn học và cuộc học, biết rung cảm, hướng thiện.
sống, biết làm chủ cuộc
sống, biết làm chủ cảm
xúc của bản thân, biết
hành động hướng theo cái
đẹp, cái thiện
9


4. Ý nghĩa của việc Dạy học theo định hướng phát triển năng lực đối với
cụm văn bản nhật dụng
Một trong những mục đích cần hướng đến khi dạy học văn bản nhật dụng là
học sinh phải nhận thức được vấn đề được nói đến nó đã và đang diễn ra như thế
nào, mỗi người cần phải làm gì và làm như thế nào để giải quyết vấn đề đặt ra một
cách phù hợp. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực sẽ giúp học sinh đạt
được mục đích trên vì:
Dạy học phát triển năng lực học sinh sẽ tạo được nhiều cơ hội hơn cho học
sinh thể hiện mình. Với mỗi hoạt động học sinh sẽ nhận thấy vai trò, vị trí của cá
nhân trong tập thể, từ đó các em sẽ tự tin và cố gắng hơn trong quá trình học tập.
Phương pháp này sẽ kích thích được mọi học sinh tích cực làm việc đặc biệt
là những học sinh yếu bởi chính những học sinh này sẽ được giáo viên và các bạn
cùng nhóm để ý đến nhiều hơn.
Khi phát triển được các năng lực trong quá trình học tập tức là học sinh thấy
rõ vai trò vị trí của mình, từ đó sẽ biết nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ, biết hành
động vì người khác và đó chính là một cách để hoàn thiện nhân cách người học
sinh đạt mục tiêu dạy học.

Giáo viên dễ dàng hơn trong việc áp dụng những phương pháp dạy học tích
cực, dễ dàng hơn trong việc triển khai các đơn vị kiến thức. Việc ứng dụng CNTT
sẽ làm cho tiết học trở nên hấp dẫn, cuốn hút học sinh hơn. Thứ hai là học sinh
được thực hành, luyện tập nhiều hơn. Việc luyện tập không chỉ thực hiện trên lớp
mà còn có thể luyện tập áp dụng kiến thức, mở rộng liên hệ trong cuộc sống đời
thường. Mặt khác việc luyện tập mang tính liên tục và có hệ thống.
IV. Một số giải pháp dạy học phát triển năng lực cụm văn bản nhật dụng
1. Dạy đọc hiểu văn bản nhật dụng
Ngoài thực hiện mục tiêu gắn với nhu cầu, các vấn đề thực tiễn, dạy học các
văn bản nhật dụng cũng giống như dạy các văn bản khác mục tiêu là hướng tới việc
hình thành và phát triển các năng lực tự học, đọc, tự viết Tiếng Việt (năng lực tiếp
nhận và xử lí thông tin, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực trình bày, tạo lập các
kiểu loại văn bản cần thiết trong cuộc sống) cho học sinh. Dạy học đọc hiểu là một
trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong việc
tiếp nhận văn bản. Nếu như trước đây chúng ta coi phân tích tác phẩm hay giảng
10


văn là một phương pháp đặc thù của dạy văn thì hiện nay đã có những thay đổi
trong tiếp cận vấn đề này của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn mới. Với
văn bản nhật dụng, cách dạy đọc hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho học
sinh cảm nhận của giáo viên về văn bản được học, mà hướng đến việc cung cấp cho
học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đế nội dung và nghệ thuật
của văn bản, từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ
động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc - hiểu của học sinh cần được thực hiện
theo một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng,
đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực
tự đọc - hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mĩ, khơi
gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc - hiểu của học sinh trong việc
học các văn bản nhật dụng còn được hiểu là sự tích hợp những kiến thức và kĩ năng

của các phân môn cũng như toàn bộ kĩ năng và kinh nghiệm sống của học sinh.
Mặt khác, các văn bản nhật dụng không chỉ nhằm giúp học sinh hình thành
và phát triển năng lực đọc - hiểu với phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ, mà còn
hướng dẫn học sinh cách đọc và tìm hiểu các văn bản nhật dụng với các phương
tiện biểu đạt đa dạng sử dụng nhiều yếu tố ngôn ngữ (sơ đồ, bản đồ, biểu bảng,
hình ảnh). Nội dung thông tin trong các văn bản nhật dụng hết sức phong phú, có
liên quan đến nhiều lĩnh vực cuộc sống và nhiều môn học khác, do vậy cần chú ý
đến những vấn đề liên môn trong việc dạy đọc - hiểu, đồng thời cần giúp học sinh
có phương pháp đọc, khả năng tự tìm kiếm nguồn thông tin đa dạng của cuộc sống
để đáp ứng năng lực, sở thích của cá nhân.
Đọc hiểu một văn bản nhật dụng bất kì, người đọc phải thực hiện các nhiệm
vụ sau đây:
• Tìm kiếm thông tin từ văn bản.
• Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối...thông tin để tạo nên
hiểu biết chung về văn bản.
• Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản.
• Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại
văn bản khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống.
Để đạt được các nhiệm vụ trên, trong quá trình dạy học đọc hiểu văn bản
nhật dụng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện các nội dung cơ bản sau:
11


* Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân là những hiểu biết về
chủ đề hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề của văn
bản.
* Thể hiện những hiểu biết về văn bản:
- Tìm kiếm thông tin: đọc lướt để tìm ý chính, đọc kĩ để tìm các chi tiết.
- Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, phân tích, so sánh, kết nối, tổng hợp…
thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản:

+ Giải thích nghĩa và tác dung của từ ngữ, hình ảnh, câu văn, chi tiết, biện
pháp tu từ... trong văn bản.
+ Thu thập thông tin từ những yếu tố khác của văn bản như các bản đồ, biểu
đồ, đồ thị... (nếu có).
+ Chỉ ra được mối quan hệ giữa các thông tin trong văn bản.
+ Sắp xếp các chi tiết trong văn bản theo một trình tự nhất định (theo thứ tự
thời gian hoặc không gian), phân loại các chi tiết được đưa ra.
+ Nắm được ý chính của các đoạn trong văn bản.
+ Phân tích các mô hình tổ chức trong văn bản liệt kê. Nêu trình tự các ý
tưởng hay sự kiện, so sánh - đối lập, nguyên nhân - kết quả, các lí do/ tổng hợp kết luận, vấn đề - giải pháp.
+ Đưa ra những kết luận về văn bản từ các thông tin, quan điểm của người
viết …
- Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản:
+ Đánh giá các thông tin, các cảm xúc, suy nghĩ của người viết.
+ Nhận ra những khuynh hướng tư tưởng của người viết (ví dụ: qua những từ
ngữ, ngôn ngữ Văn học mà người viết sử dụng).
+ Làm rõ phong cách của người viết ở các khía cạnh sử dụng ngôn từ (từ
vựng, ngữ pháp), biện pháp nghệ thuật, cách thức và quan điểm khi đề cập đến một
chủ đề hoặc đề tài nào đó.
- Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc hiểu vào việc đọc các loại
văn bản khác nhau, sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong
đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu:
12


+ Đọc các văn bản khác (ngoài chương trình SGK) có cùng đề tài? Chủ đề
hoặc hình thức thể hiện, củng cố những hiểu biết và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu.
+ Trình bày những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể (là một nhiệm
vụ trong học tập, trong đời sống) từ việc vận dụng những hiểu biết về văn bản đã
đọc hiểu.

Như vậy, việc dạy học đọc hiểu văn bản nhật dụng không chỉ rèn luyện cho
học sinh năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. Việc sáng tạo
là khả năng trình bày, thể hiện những cảm nhận riêng về đối tượng, cách diễn đạt
phải thể hiện sắc thái cá nhân. Ngoài ra cần thể hiện những liên hệ, trải nghiệm
riêng từ văn bản đến cuộc sống, trình bày những ý tưởng, giải pháp để giải quyết
một tình huống thực tiễn…Viết sáng tạo được thể hiện ở nhiều phương diện khác
nhau, với các mức độ khác nhau, do vậy cần tạo ra được những cơ hội để học sinh
thể hiện ngay trong quá trình dạy học đọc hiểu để học sinh đồng thời phát triển các
năng lực trong học tập.
Lưu ý:
- Dạy học văn bản dụng nhật, ta không thể hiểu nội dung tư tưởng văn bản
nếu không đọc từ các dấu hiệu hình thức của chúng, nên khi dạy cũng phải theo
nguyên tắc đi từ dấu hiệu hình thức tới khám phá mục đích giao tiếp trong hình
thức ấy.
• Ví dụ: Văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê” được tạo theo
phương thức biểu đạt tự sự thì hoạt động dạy học sẽ được tiến hành theo các yếu tố
tự sự đặc trưng như: sự việc, nhân vật, lời văn, ngôi kể. Từ đó hiểu chủ đề nhật
dụng đặt ra trong văn bản này là vấn đề quyền trẻ em trong cuộc sống của gia đình
thời hiện đại.
• Còn khi văn bản được tạo lập bằng phương thức thuyết minh như “Ôn
dịch, thuốc lá” thì hoạt động dạy học tương ứng sẽ là tổ chức cho học sinh tìm hiểu
nội dung văn bản từ các dấu hiệu hình thức của bài thuyết minh khoa học như: tiêu
đề văn bản.
• Ví dụ:
+ Em hiểu như thế nào về nhan đề: “Ôn dịch, thuốc lá”
+ Có thể sửa nhan đề này thành “Ôn dịch thuốc lá” hoặc “Thuốc lá là một
loại ôn dịch” được hay không? Vì sao?
13



+ Theo em, tác giả có vai trò gì trong văn bản này?
+ Đoạn văn nào nói về tác hại của thuốc lá đến sức khỏe con người?
+ Tác hại này được phân tích trên những chứng cớ nào?
+ Các chứng cớ được nêu có đặc điểm gì? Từ đó cho thấy mức độ tác hại
như thế nào của thuốc lá đến sức khỏe con người? Ở đây tri thức nào về tác hại của
thuốc lá hoàn toàn mới lạ với các em.
- Các phương thức biểu đạt của các văn bản nhật dụng chủ yếu là thuyết
minh và nghị luận, nhưng các văn bản này thường đan xen các yếu tố của phương
thức khác như: tự sự, biểu cảm… khi đó giáo viên cũng cần chú ý đến các yếu tố
này.
• Ví dụ: “Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử” có lời văn giàu cảm xúc và
hình ảnh thì người dạy sẽ nhấn vào các chi tiết miêu tả và biểu cảm cụ thể như:
+ Những cuộc chiến tranh nào đã đi qua cầu Long Biên ?
+ Việc nhắc lại những câu thơ của Chính Hữu gắn liền với những ngày đầu
năm 1947- Ngày Trung đoàn Thủ Đô vượt cầu Long Biên đi kháng chiến đã xác
nhận ý nghĩa chứng nhân nào của cầu Long Biên?
+ Số phận của cầu Long Biên trong những năm chống Mĩ được ghi lại như
thế nào?
+ Lời văn miêu tả trong đoạn này có gì đặc biệt?
+ Từ đó cầu Long Biên đóng vai trò là chứng nhân chiến tranh như thế nào?
+ Tác giả đã chia sẻ tình cảm như thế nào đối với cây cầu chứng nhân này?
- Khi dạy văn bản nhật dụng, giáo viên không nên quá coi trọng phương
pháp giảng bình. Đối tượng bình phải là những tác phầm mang vẻ đẹp văn chương
như: “Mẹ tôi”, “Cổng trường mở ra”, “Ca Huế trên sông Hương”, “Cuộc chia
tay của những con búp bê”… còn tác phẩm khác như: “Bài toán dân số”, “Thông
tin về Ngày Trái Đất năm 2000”, “Ôn dịch, thuốc lá”… thì giáo viên không nên
bình để tránh sa vào tình trạng khai thác kĩ lưỡng văn bản mà giảm đi tính chất thực
tiễn, gần gũi và cập nhật của văn bản nhật dụng.
Mục đích của việc dạy văn bản nhật dụng là giúp học sinh hòa nhập hơn nữa
với đời sống xã hội nên giáo viên phải tạo ra không khí giờ học dân chủ, sôi nổi,

kích thích sự hào hứng của học sinh.
14


Ví dụ: khi dạy bài “Ca Huế trên sông Hương” giáo viên có thể cho học sinh
nghe một làn điệu ca Huế, cuối giờ có thể tổ chức cho học sinh thi hát các làn điệu
dân ca ba miền. Thi sưu tầm vẻ đẹp của văn hóa Huế…
2. Dạy học tích hợp
Để đáp ứng với yêu cầu dạy học Ngữ văn theo hướng hình thành và phát
triển năng lực, trong dạy học các văn bản nhật dụng cần chú ý đến việc tổ chức dạy
học theo hướng tích hợp. Dạy học theo hướng tích hợp giúp học sinh có thể huy
động nội dung kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết
các nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình thành năng lực.
Mặt khác, tính tích hợp trong việc dạy các văn bản nhật dụng còn thể hiện ở
mối liên thông giữa kiến thức sách vở và kiến thức đời sống, liên thông giữa kiến
thức, kĩ năng của môn Ngữ văn với các môn học thuộc ngành khoa học xã hội nhân
văn và các ngành học khác, nhằm giúp học sinh có được kiến thức và kĩ năng thực
hành toàn diện, góp phần giáo dục đạo đức công dân, kĩ năng sống, hiểu biết xã
hội…
Ví dụ dạy bài: “Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử” giáo viên có thể tích
hợp được nhiều kiến thức về lịch sử, địa lý, văn hóa, kiến trúc… để bài học phong
phú hơn. Còn dạy bài “Ca Huế trên sông Hương” giáo viên lại có thể tích hợp
được kiến thức về âm nhạc, văn hóa, địa lý… Như vậy, tích hợp trong văn bản nhật
dụng không chỉ là phối hợp các kiến thức và kĩ năng của Tiếng Việt và văn học mà
còn là sự tích hợp liên ngành để hình thành một “phông” văn hóa cho học sinh
trong việc đọc hiểu các văn bản nhật dụng và tạo lập những văn bản theo các
phương thức biểu đạt khác nhau. Để thực hiện các mục tiêu đặt ra trong bài hoặc về
văn bản nhật dụng, học sinh cần vận dụng tổng hợp những hiểu biết về ngôn ngữ,
văn hóa, văn học, lịch sử, địa lý, phong tục, vốn sống, vốn tri thức và kinh nghiệm
của bản thân.

3. Kết hợp sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ văn,
dạy học văn bản nhật dụng cũng cần phải sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực như: Thảo luận nhóm, đóng vai, nghiên cứu tình huống, dự án … và các kĩ
thuật dạy học tích cực được thực hiện trong các hoạt động dạy học:
Phương pháp thuyết trình:

15


Là quá trình truyền đạt những thông điệp đã được xác định trước một cách
có hệ thống cho một nhóm người nghe. Áp dụng phương pháp này khi dạy văn bản
nhật dụng giáo viên yêu cầu học sinh trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề nhật dụng ở
nhà, trên lớp thuyết trình, giới thiệu về các vấn đề ấy.
Ví dụ: Ở văn bản “Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử”, giáo viên yêu cầu
học sinh tìm hiểu ở nhà những mẩu chuyện kể về sự tàn phá của bom đạn với cây
cầu trong 2 cuộc chiến tranh. Trên lớp, học sinh chia sẻ những hiểu biết về sự tàn
phá của chiến tranh, làm giờ học sinh động, sôi nổi hơn.
Phương pháp nghiên cứu tình huống:
Phương pháp nghiên cứu tình huống là một phương pháp dạy học, trong đó
trọng tâm của quá trình dạy học là việc phân tích và giải quyết các vấn đề của một
trường hợp (tình huống) được lựa chọn trong thực tiễn.
Phương pháp này khi áp dụng dạy văn bản nhật dụng học sinh tự lực nghiên
cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình huống đặt ra, hình
thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm. Các tình huống được đưa ra là những tình
huống xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, tình huống đó đã gặp hoặc có thể gặp hàng
ngày. Những tình huống đó chứa đựng vấn đề cần giải quyết. Để giải quyết các vấn
đề đó đòi hỏi có những quyết định dựa trên cơ sở những giải pháp được đưa ra để
giải quyết.
Trong nghiên cứu tình huống, học sinh không phải ghi nhớ lý thuyết mà quan

trọng là vận dụng kiến thức đã học vào việc giải quyết những tình huống cụ thể.
Nghiên cứu tình huống thường được thực hiện ở một số nội dung sau:
Phân tích một tình huống giao tiếp, tìm hiểu một văn bản nhật dụng tiêu biểu
cho chủ đề, tìm hiểu một vấn đề thực tiễn cuộc sống để tạo lập một văn bản.
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Ôn dịch, thuốc lá” giáo viên đưa ra tình huống:
Nếu ở nhà gặp bố hoặc người thân hút thuốc lá em sẽ xử sự như thế nào?
Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ
thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho học sinh sáng tỏ những vấn đề
mới; tự khám phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ
những kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống nhằm giúp học sinh củng cố,
mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa tri thức đã tiếp thu nhằm mục đích kiểm
16


tra đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra đánh giá việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo trong quá trình dạy học.
Đối với văn bản nhật dụng phương pháp đàm thoại được vận dụng để giúp
học sinh lĩnh hội, hiểu sâu vấn đề nhật dụng được đề cập. Để làm được điều đó giáo
viên cần sử dụng các câu hỏi đàm thoại sau: đàm thoại gợi mở, đàm thoại củng cố,
đàm thoại tổng kết, đàm thoại tìm tòi phát hiện, giải thích minh họa.
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000”, giáo viên
có thể sử dụng câu hỏi đàm thoại.
- Việt Nam tham gia Ngày Trái Đất với chủ đề gì? Tại sao lại tham gia với
chủ đề ấy?
(Học sinh trả lời câu hỏi để hiểu sâu về chủ đề văn bản)
Phương pháp hoạt động nhóm:
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham
gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, học sinh được tham
gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm.

Thảo luận nhóm còn là hình thức học hỏi có tính dân chủ, mọi cá nhân được
tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng; biết đón nhận quan điểm
bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân. Qua đó giúp học sinh rèn luyện kĩ năng
giải quyết vấn đề. Do vậy khi áp dụng phương pháp này trong việc dạy văn bản
nhật dụng, giáo viên dễ đạt mục tiêu tăng thực hành, rèn kĩ năng sống, giải quyết
vấn đề thực tiễn, hình thành năng lực.
Cụ thể: Giáo viên có thể cho học sinh hoạt động nhóm, thảo luận, nêu ý kiến
về những vấn đề nan giải, phức tạp trong cuộc sống đòi hỏi có sự trao đổi, chia sẻ
để thống nhất quan điểm .
Ví dụ, văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê”, giáo viên cho học
sinh làm việc nhóm trong 4 phút với câu hỏi:
“Nếu em là Thủy được tham gia vào chương trình “Điều ước thứ 7” để trình
bày yêu cầu, nguyện vọng của em, em sẽ nói gì?”
Sau đó, mời đại diện (bất kì một học sinh nào trong nhóm) lên trình bày
trước lớp suy nghĩ của mình.
Liên hệ mở rộng:
17


Giáo viên sử dụng các tư liệu bằng tư liệu chữ viết, hình ảnh, đoạn phim để
làm rõ vấn đề. Các nội dung liên hệ phải mang tính thời sự để hướng học sinh đến
việc nhận thức vấn đề trong thực tiễn. Giúp học sinh thấy được mối quan hệ từ
kiến thức của bài học với cuộc sống.
Ví dụ: Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội kéo theo những biến đổi về
văn hóa, nhiều giá trị đạo đức truyền thống dần bị phá vỡ. Tình trạng li thân, li hôn
trong xã hội khá cao. Theo thống kê của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên - Vĩnh
Phúc năm 2017 có 312 vụ li hôn (tăng 36 vụ so với 2016). Li hôn của cha mẹ là
những nỗi đau bất hạnh của con cái. Những đứa trẻ trong gia đình ấy sẽ ảnh hưởng
đến quá trình hình thành nhân cách và tương lai, ảnh hưởng đến xã hội. Vì vậy hạn
chế tình trạng li hôn đang gia tăng là việc làm cấp bách của xã hội hiện nay.

Học sinh cần được hoạt động tích cực trong bài học, có cơ hội được trình
bày hiểu biết của mình, nói lên tiếng nói, suy nghĩ của cá nhân mình thì mới có thể
hiểu được những ý nghĩa thiết thực mà các văn bản nhật dụng mang lại.
Cùng với đó, sử dụng các mẩu chuyện, dẫn chứng mang tính thực tế, lịch sử
(áp dụng tùy vào nội dung từng bài), để kích thích, hứng thú, say mê cho học sinh.
Giúp học sinh hiểu bài dễ hơn, nhanh hơn, qua phần giới thiệu bài và liên hệ ngay
từng phần của bài học.
Để đạt được những yêu cầu, kết quả đó, giáo viên phải luôn luôn tìm tòi, lắng
nghe, nắm bắt thông tin cập nhật (liên quan đến nội từng văn bản nhật dụng) qua
đài, trên báo chí, qua thông tin mạng, qua tình hình thời sự trong nước, quốc tế…
để vận dụng vào bài giảng.
Phương pháp đóng vai:
Phương pháp đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để
trình bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là
phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng
cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện
cụ thể mà các em quan sát được từ vai của mình.
Trong dạy văn bản nhật dụng, phương pháp đóng vai được thực hiện trong
một số nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học;
chuyển thể một văn bản văn học thành một kịch bản sân khấu, xử lý một tình huống
giao tiếp giả định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau…

18


Giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, đóng vai nhân vật
trong tác phẩm tự sự, kịch hoặc xử lý một tình huống giao tiếp giả định.
Ví dụ: khi dạy học văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê”, giáo
viên cho học sinh đóng vai Thành và Thủy trong cảnh 2 anh em chia tay nhau, để
khắc sâu nỗi đau gia đình li tán.

Để tổ chức hoạt động này giáo viên gợi ý cho học sinh chọn nội dung phù
hợp, xây dựng một đoạn kịch bản và thực hiện đóng vai. Hoạt động này phải mất
nhiều thời gian, do vậy giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh để các em
tự tập luyện ở nhà, trên lớp sẽ kết hợp thực hiện trong giờ hoạt động Ngữ văn.
Phương pháp trải nghiệm thực tế, sáng tạo:
Là tổ chức cho học sinh trải nghiệm thực tế những địa điểm liên quan đến
bài học, từ đó học sinh sẽ tự rút ra kiến thức cho bản thân.
Ở các trường THCS trong huyện Bình Xuyên, hàng năm đều tổ chức cho học
sinh đi tham quan du lịch trải nghiệm rèn kĩ năng sống gồm các điểm đến như Bảo
tàng văn hóa, khu du lịch... Đây là một trong những hoạt động hết sức thiết thực
học sinh có hiểu biết vấn đề xã hội, biết định hướng hành động đúng, biến những
thông điệp trong văn bản nhật dụng đi vào cuộc sống.
Có thể nói khi dạy học văn bản nhật dụng, giáo viên có nhiều cơ hội hơn cho
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, nhờ đó mà các bài học văn bản
nhật dụng sẽ khắc phục được tính thông tin tẻ nhạt, đơn điệu. Từ đó, hiệu quả dạy
học văn bản nhật dụng sẽ tăng lên.
Như vậy, để giờ dạy văn bản nhật dụng đạt kết quả cao, đáp ứng mục tiêu bài
học, người giáo viên cần phải đa dạng hóa các biện pháp dạy học, các cách tổ chức
dạy học, các phương tiện dạy học theo hướng hiện đại hóa, thu thập, sưu tầm các
nguồn tư liệu để minh họa và mở rộng kiến thức. Coi trọng đàm thoại cá nhân và
nhóm, chú ý tới câu hỏi liên hệ để minh họa và mở rộng kiến thức. Sáng tạo trò
chơi dạy học đơn giản, nhanh gọn để minh họa cho chủ đề của văn bản. Tăng
cường phương tiện dạy học điện tử như máy chiếu, bảng tương tác thông minh…
để gia tăng lượng thông tin bài học, tạo không khí dân chủ, hào hứng trong giờ học.
*Kĩ thuật dạy học nhằm hình thành năng lực học sinh:
Kĩ thuật chia nhóm.
Kĩ thuật đặt câu hỏi.
Kĩ thuật “Khăn trải bàn”.
19



Kĩ thuật “Phòng tranh”.
Kĩ thuật “Công đoạn”.
Kĩ thuật “Mảnh ghép”.
Kĩ thuật “Trình bày một phút”.
Kĩ thuật “Hỏi chuyên gia”.
Kĩ thuật “Bản đồ tư duy”.
Kĩ thuật “Đọc hợp tác”.
4. Hình thức tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh.
Hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh là một trong
những nhân tố góp phần không nhỏ vào sự thành công trong việc nâng cao hiệu quả
của công tác giáo dục ở trường Trung học cơ sở.
Tổ chức dưới hai hình thức cơ bản là: hình thức tổ chức dạy học trong lớp và
ngoài lớp. Hình thức tổ chức học trong lớp là hình thức tổ chức dạy học trong các
giờ học chính khóa. Trong đó giáo viên sẽ tổ chức các hoạt động học tập cho học
sinh theo các nội dung học tập. Hình thức tổ chức dạy học này được thực hiện theo
các cách sau: Học theo cá nhân, học theo nhóm, học theo góc.
Hoạt động học theo góc là hình thức tổ chức hoạt động học tập mà người học
thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp
ứng nhiều phong cách học khác nhau và người học có quyền lựa chọn các phong
cách phù hợp, tạo cơ hội khám phá, thực hành, mở rộng, phát triển, sáng tạo, đọc
hiểu các nhiệm vụ và hướng dẫn bằng văn bản của người dạy; cơ hội cá nhân tự áp
dụng và trải nghiệm. Do vậy học theo góc kích thích người học tích cực thông qua
hoạt động; mở rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái, đảm
bảo học sâu, hiệu quả bền vững, tương tác mang tính cá nhân cao giữa thầy và trò,
tránh tình trạng người học phải chờ đợi.
Hình thức tổ chức dạy học ngoài lớp học là hình thức quan trọng, gắn các nội
dung học tập với việc vận dụng vào thực tiễn. Hình thức tổ chức này góp phần tạo
ra một không gian học tập mở, giúp học sinh có thêm các cơ hội để thể hiện năng
lực học tập của mình. Có thể tổ chức hoạt động ngoài lớp học dưới dạng các hoạt

động ngoại khóa như: tổ chức câu lạc bộ văn học, hội thi hùng biện, hoặc tổ chức
các cuộc giao lưu giữa học sinh thảo luận về các vấn đề đặt ra trong văn bản.
5. Định hướng tổ chức giờ học

20


*Lưu ý: Thực hiện giờ dạy học theo hướng mở, vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học tích cực.
Tính chất của văn bản nhật dụng là tính thời sự, do vậy việc dạy học văn bản
này giáo viên không nên quá đặt nặng vấn đề về nghệ thuật mà cần làm cho học
sinh hiểu được “vấn đề” mà văn bản đề cập đã và đang diễn ra như thế nào? Nó có
tác động gì đến cuộc sống xã hội nói chung và đối với bản thân học sinh nói riêng,
từ đó học sinh có thể hình thành được những quan điểm đánh giá riêng của mình.
Do vậy để thực hiện một giờ dạy học văn bản nhật dụng phát huy được tính
tích cực của học sinh và làm cho một tiết học trở nên sinh động, nhẹ nhàng giáo
viên cần làm tốt các nội dung sau:
Bước 1: Làm tốt khâu chuẩn bị cho bài dạy.
- Chuẩn bị kiến thức dạy học:
Để mở rộng hiểu biết và thấm thía các chủ đề nhật dụng đặt ra trong từng
văn bản, tăng cường ý thức công dân của mỗi học sinh nên việc chuẩn bị kiến thức
hỗ trợ cho bài học văn bản nhật dụng mang một ý nghĩa tích hợp rộng hơn, đòi hỏi
sự quan tâm nhiều hơn của cả hai chủ thể dạy và học văn bản nhật dụng. Cụ thể là:
giáo viên thu thập, giao cho các nhóm học sinh cùng sưu tầm các tư liệu ngoài văn
bản liên quan đến chủ đề văn bản trên các nguồn thông tin đại chúng (phát thanh,
truyền hình, mạng internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm nhạc...) làm chất liệu
cho dạy học văn bản nhật dụng gắn kết với đời sống.
Xác định mục tiêu bài học: Trong kế hoạch bài dạy giáo viên cần xác định rõ
các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ và các năng lực cần hình thành. Từ việc
xác định mục tiêu dạy học, giáo viên sẽ có thể lựa chọn được phương pháp giảng

dạy phù hợp, cách thức tổ chức lớp học theo đúng mục tiêu đã định.
- Chuẩn bị phương pháp dạy học: Xác định các phương pháp dạy học theo
đặc thù bộ môn. Bên cạnh những phương pháp dạy học truyền thống cần chú ý các
phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp trực quan, phương pháp làm việc
theo nhóm, phương pháp đóng vai, trải nghiệm sáng tạo, nêu vấn đề, phát vấn…và
các kĩ thuật dạy học tích cực như: chia nhóm, khăn trải bàn, trình bày một phút, hỏi
chuyên gia, bản đồ tư duy…
- Chuẩn bị phương tiện dạy học:
Do yêu cầu cập nhật của các chủ đề nhật dụng đòi hỏi các phương pháp dạy
học đáp ứng cung cấp, khai thác thông tin nhanh và phong phú tới người học. Sách
21


giáo khoa, bảng đen, phấn trắng, bảng phụ, tranh ảnh minh hoạ… các phương tiện
dạy học truyền thống ấy là cần thiết nhưng chưa thể đáp ứng hết các yêu cầu dạy
học văn bản nhật dụng theo tinh thần nói trên. Ở đây hệ thống tư liệu bồi đắp trực
tiếp cho chủ đề văn bản nhật dụng và mở rộng chủ đề đó bên ngoài văn bản (báo
chí, mĩ thuật, điện ảnh) và những câu hỏi trắc nghiệm nếu được thu thập, thiết kế và
trình chiếu trên phương tiện dạy học điện tử (Sử dụng phần mềm powerpoint) sẽ là
các phương tiện tạo hiệu ứng tích cực nhất trong dạy học văn bản nhật dụng.
Bước 2: Tổ chức giờ học
Tiến trình tổ chức hoạt động học tập của học sinh trong mỗi bài học cần được
thiết kế thành các hoạt động học theo tiến trình sư phạm của các phương pháp dạy
học tích cực như: giải quyết vấn đề, tìm tòi nghiên cứu, bàn tay nặn bột…và các
phương pháp đặc thù bộ môn. Các hoạt động của học sinh trong mỗi bài học có thể
được thiết kế như sau:
Hoạt động: Khởi động
*Mục tiêu ý tưởng:
- Kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú cho học sinh về chủ đề sẽ học, học
sinh thấy vấn đề nêu lên rất gần gũi với mình.

- Không khí lớp học vui tươi, tò mò, chờ đợi, thích thú.
*Nội dung hoạt động:
- Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có của học sinh để chuẩn bị bài
học mới.
- Học sinh trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa những nội dung kiến
thức, những thao tác, kĩ năng để làm nảy sinh kiến thức mới.
*Phương tiện:
Đồ dùng trực quan, máy chiếu…
*Cách thức thực hiện:
Đặt câu hỏi, đố vui, kể chuyện, đặt tình huống, tổ chức trò chơi…có thể thực
hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ hoặc cá nhân học sinh.
Tổ chức các hình thức khởi động gần gũi với học sinh.
Ví dụ:
22


Khi dạy văn bản “Ôn dịch thuốc lá”, để phù hợp với chủ đề về tệ nạn xã hội,
vấn đề không chỉ mang ý nghĩa cập nhật mà còn mang ý nghĩa lâu dài, giáo viên có
thể vào bài như sau:
Giáo viên nêu tình huống:
- Đi khắp nơi trên thế giới, đặc biệt nơi công cộng, những thành phố văn
minh của những quốc gia phát triển ta đều thấy biển hiệu cấm hút thuốc lá. Tại sao
như vậy?
- GV cho HS quan sát những hình ảnh tác hại đáng sợ của thuốc lá.
- Giáo viên dẫn dắt vào bài: Thuốc lá trở thành một ôn dịch đáng sợ, thông
điệp của tác giả gửi tới trong văn bản khiến chúng ta phải hành động như thế nào…
Hoạt động: Hình thành kiến thức mới.
*Mục tiêu ý tưởng:
- Học sinh nắm kiến thức, kĩ năng cơ bản về nội dung, đặc sắc nghệ thuật; ý
nghĩa nhật dụng trong các văn bản.

- Vận dụng được những vấn đề đặt ra trong văn bản để giải quyết những tình
huống thực tiễn.
*Nội dung hoạt động:
Giáo viên giúp học sinh lĩnh hội được những kiến thức mới thông qua những
hoạt động khác nhau: nghiên cứu tài liệu, đọc văn bản, xử lí ngữ liệu, trải nghiệm
sáng tạo…
Giáo viên chốt kiến thức mới theo định hướng mở, để học sinh ghi nhận, vận
dụng.
*Phương tiện:
Đồ dùng trực quan, máy chiếu, tranh ảnh…
*Cách thức thực hiện:
- Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, nêu vấn đề để giúp học sinh
thực hiện tiến trình phân tích, cảm thụ nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản.
- Có thể sử dụng hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận theo nhóm, đóng vai,
thuyết trình, hoặc hình thức sáng tạo khác kích thích trí tò mò, sự ham thích, tìm
tòi, khám phá phát hiện của học sinh…nên soạn câu hỏi thích hợp giúp học sinh đi
23


vào tiến trình phân tích, chiếm lĩnh, vận dụng các vấn đề của tác phẩm thuận lợi và
hiệu quả.
Hoạt động: Luyện tập
*Mục tiêu ý tưởng:
Hoạt động này nhằm giúp cho các em khái quát và nắm chắc những đặc sắc
nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản. Nhận ra thông điệp tác giả gửi gắm và
hướng vận dụng giải quyết vấn đề thực tiễn.
Học sinh làm một số bài tập nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Giáo viên phát
hiện những khó khăn mà học sinh gặp phải để hỗ trợ hoặc học sinh tìm cách giải
quyết một vấn đề nào đó hoặc trả lời một câu hỏi nào đó. Tất cả vấn đề đó học sinh
đều phải thể hiện kỹ năng của mình.

*Nội dung hoạt động:
Học sinh nắm được nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản vận dụng tốt trong
giải quyết những vấn đề thực tiễn.
- Học sinh thực hiện đúng thao tác cơ bản một cách thuần thục, làm được các
bài tập áp dụng dạng cơ bản theo đúng quy trình.
- Học sinh tránh những sai lầm điển hình.
*Phương tiện:
Giấy A4, máy chiếu…
*Cách thức thực hiện:
Giáo viên sử dụng phương pháp vấn đáp, nêu vấn đê, thảo luận…
- Vẽ sơ đồ tư duy khái quát nội dung.
- Thông qua việc giải những dạng bài tập cơ bản: nhận biết, thông hiểu, vận
dụng, để học sinh nắm kiến thức. Giáo viên quan sát phát hiện ra những khó khăn
của học sinh, nhấn mạnh lại các quy tắc, thao tác, cách thực hiện.
- Tiếp tục ra các bài tập ở mức khó dần, chú ý phát triển năng lực, phẩm chất
phù hợp với khả năng của học sinh. Giáo viên tiếp tục giúp các em giải quyết khó
khăn.
- Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, từng cá nhân hoặc theo nhóm, theo
cặp đôi, theo bàn, tổ.
24


Hoạt động: Vận dụng:
*Mục tiêu ý tưởng:
Học sinh vận dụng những gì mình đã học được vào thực tế, đồng thời với
hoàn cảnh cụ thể, các em tự đề xuất ra những tồn tại cần giải quyết. Những vấn đề
đó các em có thể đề xuất với bạn bè, cộng đồng.
Các nhóm có thể viết bài thu hoạch về những vấn đề thực tế tại địa phương
nơi các em sinh sống.
*Nội dung hoạt động :

+ Học sinh củng cố, nắm vững, nâng cao nội dung kiến thức trong bài đã
học.
+ Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học vào trong hoàn cảnh mới, đặc biệt
trong những tình huống thực tế gắn với đời sống hàng ngày.
+ Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội, vận dụng kiến thức mới.
*Phương tiện:
Giấy A4, máy chiếu, phiếu bài tập…
* Cách thức thực hiện:
Giáo viên nêu vấn đề, nêu tình huống, học sinh giải quyết vấn đề, tình
huống:
Giáo viên gợi những hoạt động, hiện tượng, sự kiện địa phương, vấn đề nhật
dụng trong cuộc sống, khuyến khích học sinh tìm tòi, mở rộng, vận dụng kiến thức.
Mô tả yêu cầu sản phẩm học sinh cần hình thành (sản phẩm là vấn đề nhật
dụng đặt ra trong mỗi văn bản) để học sinh quan tâm thực hiện.
Hoạt động này có thể không cần tổ chức trên lớp, không đòi hỏi tất cả học
sinh tham gia.
Hoạt động: Mở rộng, sáng tạo
*Mục tiêu ý tưởng:
- Khuyến khích học sinh tiếp tục tìm hiểu và mở rộng kiến thức. Học sinh
hiểu rằng: Ngoài những kiến thức đã học trong nhà trường còn nhiều kiến thức cần
phải học trong thực tế.
25


×