SỞ GD &ĐT TỈNH VĨNH PHÚC
PHÒNG GD & ĐT HUYỆN LẬP THẠCH
CHUYÊN ĐỀ MÔN CÔNG NGHỆ 7
“PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG GIẢNG DẠY
MÔN CÔNG NGHỆ NÔNG NHIỆP TRUNG HỌC CƠ SỞ”
Người thực hiện : Nguyễn Mạnh Cường
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác:
Trường THCS Quang sơn
Lập thạch, Tháng 12 năm 2018
1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn chuyên đề:
I.1 Cơ sở lí luận:
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được
cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công
việc chuyển từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách
học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm
chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí
nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, chú
trọng kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm
nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
- Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI:“Đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng
hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo
dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ
yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội,
ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học”;
- Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo
Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ: "Tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học".
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản
của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công
dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích
học tập suốt đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà
trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới.
1.2 Cơ sở thực tiễn:
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công
nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong cuộc
sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi to lớn,
phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học- kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn
của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành GD- ĐT nói
chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa
quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con
người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và
không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều
hữu hạn và tương đối.
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo
dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Như chúng ta đã biết, môn Công nghệ có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với
việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết đơn giản về bộ môn sẽ giúp các em
biết các công việc trong cuộc sống hằng ngày, giúp các em có thể định hướng nghề
nghiệp trong tương lai. Có câu nói rằng: con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con
đường “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức
cần thiết để đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ trực
quan”.
Đặc biệt trong dạy học mới hiện nay: là phát huy tính tích cực chủ động
sáng tạo của học sinh thì yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho học
sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình
bằng các “Đồ dùng trực quan”, chính vì thế mà “Đồ dùng trực quan” đã trở thành
một nhân tố khá quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nó vừa là phương tiện giúp
học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng, phong phú mà học sinh
rất dễ nắm bắt.
Qua giảng dạy môn Công nghệ ở trường THCS đặc biệt là từ khi thực hiện
thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây là một vấn
đề bổ ích về lí luận cũng như thực tiễn.
Nhằm để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và chương trình giáo dục đổi mới
hiện nay, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với
hướng dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm”. Một trong những phương pháp đặc
trưng bộ môn Công nghệ là phương pháp “Sử dụng dụng cụ trực quan” trong giảng
dạy.
Tuy nhiên thực tế cho thấy việc chuẩn bị “Đồ dùng trực quan” làm dụng cụ
trực quan là công tác rất khó khăn, rất công phu và rất tốn kém. bên cạnh đó việc
sử dụng “Đồ dùng trực quan” như thế nào để đảm bảo tính trực quan và sử dụng
“Đồ dùng trực quan” như thế nào để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy Công nghệ
lại là một vấn đề càng khó khăn hơn.
Qua đợt tập huấn đổi mới sinh hoạt chuyên môn vừa qua , với hy vọng góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Công nghệ tôi xin mạnh dạn làm
chuyên đề “Phương pháp sử dụng Đồ dùng trực quan trong giảng dạy môn
Công nghệ nông nghiệp trung học cơ sở” sẽ giúp cho việc dạy học theo phương
pháp mới và việc thực hiện chương trình giáo dục mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn
như mong muốn. Trong quá trình làm chuyên đề còn nhiều thiếu sót rất mong sự
đóng góp ý trân thành của các đồng nhiệp.
II. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Mục đích xây dựng chuyên đề
Về lí luận và thực tiễn, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong học tập môn Công nghệ là điều cần thiết và quan
trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục. Đó chính là lí do chủ yếu để nghiên cứu vấn
đề này.
Nội dung gồm:
a. Cơ sở lí luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy-học Công nghệ.
b. Thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy -học ở trườngTHCS.
c. Những biện pháp sư phạm để phát huy sử dụng đồ dùng trực qua có hiệu quả
2. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng là HS THCS lớp 7 và lớp 9
- Giáo viên dạy bộ môn và thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở
trường THCS hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề này nghiên cứu trong phạm vi nội dung chương trình môn Công
Nghệ khối 7.
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MÔN CÔNG NGHỆ 7
(Dự thảo ngày 19 tháng 01 năm 2018)
LỚP 7: NÔNG –LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN
STT
NỘI
YÊU CẦU CẦN ĐẠT
DUNG
1
Giới thiệu
NÔNG NGHIỆP
- Nêu được vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế Việt
chung về
Nam.
nông
nghiệp
- Tóm tắt được các lĩnh vực sản xuất chủ yếu trong nông
nghiệp.
- Phân tích được các đặc trưng và tiềm năng của nền nông
2
nghiệp Việt Nam.
Trồng Trọt - Trình bày được vai trò của trồng trọt, các phương thức
trồng trọt chủ yếu ở nước ta.
− Xác định được tính chất của đất trồng bằng phương pháp
đơn giản; thực hiện được việc nhân giống cây trồng bằng
phương pháp giâm cành.
− Nhận xét được ưu nhược điểm của một quy trình trồng
trọt cụ thể dựa trên hiểu biết cơ bản về đất trồng, giống cây
trồng, phân bón cây trồng, sâu bệnh hại cây trồng, kĩ thuật
3
Chăn nuôi
trồng trọt.
- Trình bày được vai trò của chăn nuôi, các phương thức
chăn nuôi chủ yếu ở nước ta.
- Kể tên, nhận diện được một số vật nuôi được nuôi nhiều,
các loại vật nuôi đặc trưng vùng miền ở nước ta.
− Tóm tắt được những nội dung cơ bản về giống vật nuôi,
thức ăn vật nuôi, chăm sóc nuôi dưỡng vật nuôi, phòng và
3
Một số
chữa bệnh cho vật nuôi.
- Kể tên và trình bày được vai trò, đối tượng, đặc trưng, các
ngành nghề công cụ lao động, những yêu cầu cơ bản với người lao động,
chính trong những triển vọng phát triển, nhu cầu thị trường lao động của
1
2.1
nông
một số ngành nghề phổ biến trong nông nghiệp.
nghiệp
− Nhận thức được sở thích, sự phù hợp của bản thân với các
Giới thiệu
ngành nghề trong nông nghiệp.
LÂM NGHIỆP
- Trình bày được vai trò của lâm nghiệp đối với đời sống.
chung về
− Mô tả được các hoạt động sản xuất chủ yếu trong lĩnh vực
lâm nghiệp
lâm nghiệp.
Trồng và
− Phân biệt được các loại rừng phổ biến ở nước ta.
- Tóm tắt được quy trình ươm gieo một số loại cây rừng phổ
chăm sóc
biến
rừng
− Trình bày được thời vụ, kĩ thuật làm đất và trồng rừng
bằng cây con.
2.2
Bảo vệ và
− Giải thích được ý nghĩa của các công việc chăm sóc rừng.
Trình bày được tầm quan trọng của việc khai thác và bảo vệ
khai thác
rừng
rừng
− Mô tả được một số phương pháp khai thác rừng phổ biến.
− Nhận xét ưu và nhược điểm của một tình huống khai thác
3
Một số
rừng cụ thể.
− Kể tên và trình bày được vai trò, đối tượng, đặc trưng, các
ngành nghề công cụ lao động, những yêu cầu cơ bản với người lao động,
chính trong những triển vọng phát triển, nhu cầu thị trường lao động của
lâm nghiệp
một số ngành nghề phổ biến trong nông nghiệp.
− Nhận thức được sở thích, sự phù hợp của bản thân với các
1
2.1
Giới thiệu
ngành nghề trong nông nghiệp.
THỦY SẢN
- Trình bày được vai trò của thuỷ sản đối với đời sống.
chung về
- Tóm tắt được các lĩnh vực sản xuất chủ yếu trong thuỷ sản.
thuỷ sản
- Phân tích được các đặc trưng và tiềm năng của thuỷ sản
Nuôi Thủy
Việt Nam.
− Trình bày được một số phương thức nuôi thuỷ sản phổ
sản
biến ở nước ta, ưu và nhược điểm của từng phương thức.
− Nhận xét được ưu, nhược điểm của môt quy trình nuôi
thuỷ sản dựa trên hiểu biết cơ bản về môi trường nuôi,
giống, thức ăn, chăm sóc và phòng trị bệnh thuỷ sản.
− Đo được nhiệt độ, độ trong của nước nuôi thuỷ sản bằng
2.2
3
Khai thác
phương pháp đơn giản.
− Trình bày được ý nghĩa của việc khai thác, bảo vệ nguồn
nguồn lợi
lợi thuỷ sản.
thuỷ hải
− Tóm tắt được ưu, nhược điểm của một số phương pháp
sản
Một số
khai thác thuỷ sản phổ biến.
− Kể tên và trình bày được vai trò, đối tượng, đặc trưng, các
ngành nghề công cụ lao động, những yêu cầu cơ bản của người lao
chính
động, những triển vọng phát triển, nhu cầu thị trường lao
thuộc lĩnh
động của một số nghề phổ biến trong lĩnh vực thuỷ sản.
vực thuỷ
− Nhận thức được sở thích, sự phù hợp của bản thân với các
sản
ngành nghề trong lĩnh vực thuỷ sản
PHẦN II: NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Thực trạng của vấn đề:
Trong vài năm gần đây, bộ môn Công nghệ trong trường THCS đã được chú
trọng hơn trước. Đã được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên qua vài năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học
môn Công nghệ hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở ngại nhất là
việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng trực
quan, tuy đã được phổ biến, học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng
kết quả đạt được không đáng là bao. Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở
những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cho rằng môn Công nghệ là một trong
những môn phụ.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư
nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay về đồ dùng dạy. Tình trạng
dạy chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn Công nghệ lớp7
và cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan mô hình trồng cây ăn quả
điển hình, hoặc vườn cây nhân giống vì không có kinh phí. Điều đó làm cho vốn
kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng .
Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong học
tập bộ môn Công nghệ còn nhiều hạn chế một phần là do cơ chế, những quy định.
Môn Công nghệ chưa bao giờ được chọn là môn dự thi các cấp.
Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, đó là chỉ chú
trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ thực hành, ít chú ý đến việc phát triển
năng lực sáng tạo.
Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên trong việc thực
hiện các phương pháp dạy học phù hợp trong đó phải nói đến phương pháp sử
dụng đồ dùng trực quan để đem lại hiệu quả cho tiết dạy cũng như chất lượng bộ
môn ngày một nâng cao.
II. Các biện pháp cụ thể:
1. Tình hình sử dụng các dụng cụ trực quan đối với việc dạy học:
- Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất, nghèo nàn về các
thiết bị dạy học đối với bộ môn.
- Theo quan niệm giáo dục lạc hậu trước đây cho rằng dụng cụ trực quan là phương
tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ minh hoạ cho các kiến
thức đã truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ.
- Theo phương pháp sử dụng này thì dụng cụ trực quan chưa phát huy hết vai trò
của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của nó, giờ
dạy Công nghệ sẽ rơi vào những hạn chế sau:
+ Giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc
lĩnh hội kiến thức.
+ Các kiến thức do giáo viên cung cấp học sinh sẽ không hiểu sâu, nhớ kỹ bằng
chính các em tự nhận thức.
+ Các nguồn trí thức từ dụng cụ trực quan chưa thực sự hấp dẫn đối với các em.
Do đó không gây hứng thú học tập, không có khả năng phát triển tư duy.
+ Chưa tạo cho học sinh các kỹ năng quan trọng như: biết chăm sóc cây trồng,
nhân giống cây ăn quả, bón phân thúc, làm xiro…
2. Những biện pháp đã thực hiện:
Để cải tiến phương pháp giảng dạy học cho phù hợp với chương trình giáo dục
mới ở bộ môn Công nghệ thì thiết bị dạy học ở các trường học đã trang bị khá đầy
đủ các loại dụng cụ trực quan, chủ yếu là các loại sau:
+ Hình vẽ, tranh ảnh.
+ Mô hình
+ Sơ đồ
Đối với các loại phương tiện này thì người giáo viên Công nghệ cần có
phương pháp sử dụng như thế nào?
2.1 Đối với hình vẽ, tranh ảnh:
a. Đối với hình vẽ:
HS lớp 7 Cũng như HS các khối khác là các em rất thich xem tranh ảnh, hình vẽ
minh họa.
Hình vẽ thường được sử dụng minh họa nội dung bài học phổ biến hơn so với
tranh ảnh.
Vì vậy giáo viên phải làm nổi nội dung hình vẽ để gây hứng thú cho học sinh, kích
thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em khám phá
được kiến thức của bài học.
Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa ra. Khi sử dụng, giáo viên phải phân
tích, định hướng cho học sinh, tự mình đánh giá được ngụ ý của hình vẽ đó .
Ví dụ 1: dạy trong bài 10 CN 7: Vai trò của giống và phương pháp chọn tạo giống
cây trồng:
Về vai trò của Giống cây trồng: GV cho HS quan sát tranh và so sánh HS sẽ dễ
dàng trả lời được vai trò của giống đối với năng suất, số vụ gieo trồng và cơ cấu
cây trồng.
Với bức tranh này HS dễ dàng biết được người ta sử dụng Phương pháp lai trong
chọn tạo giống cây trồng như thế nào:
Phương pháp lai:
Đặc điểm: Lấy phấn hoa của cây
bố thụ phấn lên đầu nhụy của cây
mẹ → đem hạt cây mẹ gieo trồng
→ cây lai → đem nhân giống
Hình vẽ có thể được giáo viên chuẩn bị trước, (như hình vẽ mô phỏng các động tác
cày, bừa, đập đất, một số loại thức ăn vật nuôi ...)
Đối với hình vẽ: Ta cần cho học sinh tiến hành theo các bước sau:
- Đọc tên và cho biết các công việc được diễn tả trên hình vẽ .
- Rút ra được kiến thức cần thiết từ các bức tranh đó.
b. Đối với hình ảnh
- Đối với giáo viên: Tham khảo sưu tầm nhiều tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến
tiết dạy để minh hoạ trên lớp.
- Đối với học sinh: Ngoài việc làm bài tập và học ở nhà học sinh sưu tầm trên sách
báo, ví dụ báo nông nghiệp, báo khuyến nông, những tranh ảnh liên quan đến bài
học .
Tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học. Từ
việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Thông qua quan
sát miêu tả tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt, lựa chọn ngôn ngữ.
Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh, giáo viên luyện cho các em thói quen
quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích,
giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết luận.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 14 “Nhận biết các loại thuốc trừ sâu” GV phải sưu tầm các
tranh ảnh có trong các tư liệu, nhãn, mác thuốc trừ sâu. Học sinh sưu tầm ở gia
đình các lọ thuốc trừ sâu đã dùng, các túi thuốc đã được sử dụng đem đến lớp. Từ
đó các tranh ảnh mới phong phú, đa dạng, học sinh dễ phân biệt được các loại
thuốc khác nhau:
Thuốc nhũ dầu:
• viết tắt: SC
• ở dạng lỏng, đặc sền sệt, khi phân tán trong nước cũng
tạo hỗn hợp dạng sữa.
ORTUS 5SC
STT
Tên sản phẩm
Nhóm
Hàm lượng
độc
chất tác
dụng
1
Thuốc trừ nhện
Cẩn thận
ORTUS
Chứa 5% chất
tác dụng
TROBIN TOP 325SC
STT
2
Tên sản phẩm
Thuốc trừ nấm
bệnh cây
Nhóm
Hàm lượng
độc
chất tác dụng
Cẩn
Chứa 325% chất
thận
tác dụng
TROBIN TOP
KUN SUPER 150SC
STT
3
Tên sản phẩm
Thuốc trừ sâu
KUN SUPER
Nhóm
Hàm lượng
độc
chất tác dụng
Cẩn
Chứa 150% chất
thận
tác dụng
Bài vai trò của giống và Phương pháp chọn tạo giống cây trồng:
Phương pháp nuôi cấy mô
Đặc điểm: Tách mô hoặc tế
bào sống nuôi trong một
môi trường đặc biệt → nẩy
mầm thành cây con. Sau đó
chọn lọc lại ta được giống
mới.
GV sử dụng tranh để liên hệ thực tế về phương pháp nuôi cấy mô
Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung kiến thức thể
hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho
HS, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em.
* Cách sử dụng tranh ảnh có hiệu quả:
- Đọc tên bức tranh, xác định xem bức tranh đó thể hiện gì?
- Tường thuật lại nội dung bức tranh.
- Rút ra được ý nghĩa và nội dung kiến thức.
2.2 Mô hình:
+ Một số mô hình có sẵn hoặc GV tự sưu tầm hoặc tự làm sẽ giúp cho tiết dạy sinh
động hơn.
+ Giáo viên giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho phần
kiến thức nào?
+ Dùng câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát, trả lời tìm ra các kiến thức liên quan.
Vídụ 3: Trong bài 36 CN 7: “ Nhận biết một số giống lợn qua quan sát và đo kích
thước các chiều”. Với nội dung bài học này thì giáo viên không thể đem vật mẫu
thật lên lớp được mà chỉ có thể dùng mô hình lợn. Từ con lợn bằng mô hình thì GV
giảng cho học sinh biết các bộ phận trên con vật, chỉ cách đo kích thước các chiều,
qua đó học sinh biết cách tính trọng lượng thật của lợn… Nếu dùng mô hình thì
học sinh được thực hành thên mô hình các em sẽ nắm chắc kiến thức hơn, nhớ lâu
hơn, thích thú trong việc học tập trên lớp hơn…
Từ các mô hình giáo viên giúp học sinh hiểu và nắm chắc các kiến thức
* Cách sử dụng có hiệu quả:
- Giáo viên cho học sinh quan sát nhận biết đó là mô hình gì?
- Có đủ mô hình cho quá trình hoạt động nhóm.
- Rút ra kết luận, ghi nhớ…
2.3 Sơ đồ
Trong giảng dạy môn Công nghệ giáo viên có thể sử dụng sơ đồ câm học
sinh tự nghiên cứu, hoặc học sinh ghi nhớ từ SGK sau đó điền lên sơ đồ đó.
Thông qua sơ đồ giúp học sinh hiểu và nhớ lâu hơn các phần kiến thức.
Qua các việc sử dụng sơ đồ các em cũng có thể đánh giá được một cách hệ
thống các phần kiến thức liên quan.
Ví dụ 3 bài 52: “Thức ăn của động vật thủy sản” sơ đồ 16 mối quan hệ về thức ăn,
đây là một mối quan hệ phức tạp nếu chỉ giải thích thì học sinh rất khó hiểu song
giáo viên treo sơ đồ, yêu cầu học sinh thảo luận nhóm sau đó lên điền bảng và giải
thích thì sẽ giúp học sinh nhớ nhanh và hiểu rõ vấn đề hơn:
Thảo luận nhóm: ? Để tăng lượng thức ăn trong vực nước nuôi tôm, cá phải
làm những công việc gì.
Đáp án: Muốn tăng lượng thức ăn cho tôm, cá ta phải bón phân hữu cơ, phân vô cơ
hợp lí tạo điều kiện cho sinh vật phù du phát triển, trên cơ sở đó các động thực vật
thủy sinh khác phát triển làm cho lượng mồi làm thức ăn phong phú thêm, tôm cá
sẽ đủ dinh dưỡng, sẽ chóng lớn.
Ví dụ 5: Vận dụng sơ đồ để củng cố bài: Các biện pháp chăm sóc cây trồng
Chú ý: GV tránh tình trạng sử dụng quá nhiều hình ảnh, nếu lạm dụng sẽ làm cho
tiết học kém hiệu quả vì chỉ giống như một tiết tham quan học sinh không nắm
được kiến thức trọng tâm của bài học và việc sử dụng các hiệu ứng không phù hợp
cũng dễ gây mất sự chú ý, tập của học sinh vào kiến thức cần đạt.
Như vậy phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Công nghệ
ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý nghĩa lớn cần
được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong
công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại
khoá.
Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách
mạng trong phương pháp dạy – học môn Công nghệ và phải có thời gian kiểm
nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống.
Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng bài phải có
sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để
khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần
trách khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”...đáp ứng được những yêu cầu phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá .
III. Các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng phương tiện trực quan .
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều
giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe,
mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý
quan sát, hứng thú của học sinh.
Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh
phân tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu. Đồ dùng trực
quan có nhiều loại. Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng, nhưng phải chú ý các
nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Phải căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung và hình thức của các loại
bài học để lựa chọn dụng cụ trực quan cho thích hợp, không nên dùng quá nhiều
dụng cụ trực quan cho một tiết dạy.
Thứ hai: Phải có phương phương pháp thích hợp đối với mỗi loại dụng cụ trực
quan ( Như đã nêu ở trên).
Thứ ba: Trước khi sử dụng cần phải giải thích: Dụng cụ trực quan này nhằm mục
đích gì? Giải quyết vấn đề gì? Nội dung gì? trong bài học.
Thứ tư: Đảm bảo tính trực quan, rõ ràng, thẩm mỹ, cần chú ý tới quy luật nhận
thức, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Không nên sử dụng dụng cụ trực quan quá
cũ nát, các hình vẽ cẩu thả...
Thứ năm: Biết vận dụng, sử dụng dụng cụ trực quan tới các phương pháp dạy học
khác: như nêu vấn đề, mô tả, diễn giải...cho nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả cao.
IV. Hiệu quả thu được.
Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng dụng cụ trực quan ở chương trình Công
nghệ lớp 7 mới tôi nhận thấy kết quả khả quan như sau:
- Phần lớn các em đã có ý thức học tập bộ môn và có phương pháp học tập tốt.
- Các em đã hiểu rõ và nắm chắc các khái niệm.
- Đại bộ phận các em đã hình thành được một số kỹ năng đơn giản.
- Cơ bản là các em biết quan sát tranh ảnh, hình vẽ để rút ra kiến thức cần nắm, Cơ
bản là các em biết tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội các kiến, biết liên hệ thực
tế.
* Kết quả cụ thể:
Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng một số đồ dùng trực quan phù hợp với nội
dung bài dạy ở một số lớp điển hình để thử nghiệm có kết quả như sau:
+ 100% học sinh có sách giáo khoa, sách bài tập thực hành.
+ 90% học sinh thích học bộ môn Công nghệ.
Chất lượng môn Công nghệ 7- Năm học 2017-2018
Lớp SS
7A
7B
7C
31
31
31
Giỏi
SL
6
5
7
Khá
TL % SL
19,4 15
16,2 12
22,7 14
Trung bình
TL % SL TL %
48,3 10 32,3
38,7 12 38,7
45,1 9 29,0
Yếu
SL TL %
2
1
6,4
3,2
TB trở lên
SL TL %
31 100
29 93,5
30 96,8
Như vậy so với phương pháp truyền thống thì hiệu quả của phương pháp sử dụng
đồ dùng trực qua phù hợp trong các tiết dạy mang lại hiệu quả cao.
PHẦN III . KẾT LUẬN
- Dụng cụ trực quan là phương tiện không thể thiếu trong hoạt động dạy học. Bằng
những dụng cụ trực quan sinh động, giáo viên sử dụng phương pháp tốt nhất giúp
HS tự khai thác, lĩnh hội kiến thức, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh
trong quá trình học tập.
- Những dụng cụ trực quan khi sử dụng trong giảng dạy cần phải có sự lựa chọn
cho phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của HS, đặc biệt
là những dụng cụ trực quan tạo ấn tượng, giúp HS khắc sâu, nhớ kỹ, tái hiện lại
những kiến thức đã học.
- Về phương pháp sử dụng: phải sử dụng tinh tế, khéo léo phải đảm bảo tính trực
quan, vừa đảm bảo tính khoa học. Điều đáng lưu ý là dụng cụ trực quan dù sinh
động đến đâu cũng không thể giúp học học tốt nếu thiếu sự chỉ đạo tận tình của
giáo viên bộ môn. Chính vì vậy với cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn, người
giáo viên phải luôn tác động ý thức học tập của các em, phải khơi dậy trong các
em sự tìm tòi, ham hiểu biết, sẵn sàng khám phá khoa học có như thế mới đem lại
hiệu quả.
- Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
trong giảng dạy Công nghệ, đòi hỏi người GV ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao bởi vì phương pháp dù hay đến mấy
nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học
sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng
ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà:
có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng
tạo… đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
thời đại CNH- HĐH.
Với kinh nghiệm này tôi đã nghiên cứu, vận dụng và thấy kết quả tương đối
khả quan. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chỉ với tư cách cá nhân và chỉ có sự
tham khảo đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp trong trường nên chắc chắn
cũng còn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong có sự giúp đỡ, xây dựng của các đồng
nghiệp và các cấp lãnh đạo để thêm hoàn thiện, có hiệu quả, nâng cao chất lượng
bộ môn Công nghệ và góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới PPDH trong giai đoạn
hiện nay và thực hiện Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản
lý và dạy học; Hưởng ứng phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực và cuộc vận động “ Hai không” với 4 nội dung của Bộ giáo dục và Đào tạo
đã phát động.
Quang Sơn, ngày 10 tháng 12 năm 2018
Người thực hiện chuyên đề
Nguyễn Mạnh Cường