Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thị xã hương trà, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.65 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG
NGHIỆP
Ở THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

ĐẶNG THỊ THÙY NHI

Huế, tháng 1 năm 2018
1


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG
NGHIỆP
Ở THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Giáo viên hướng dẫn:
TS. Hà Thị Hằng

Huế, tháng 1 năm 2018
2

Sinh viên thực hiện:


Đặng Thị Thùy Nhi
Lớp: K48 KTCT


ỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài khóa luận này, ngoài sự cố
gắng và nổ lực của bản thân, tôi cũng đã nhận được
sự giúp đỡ và ủng hộ của rất nhiều người trong suốt
thời gian qua.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến
quý thầy cô khoa Kinh tế Chính trị cũng như các thầy
cô trong trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế đã tận
tình dạy bảo, truyền đạt những kiến thức quý báu cho
tôi trong suốt thời gian học tập tại trường, từ đó tôi có
nền tảng kiến thức nhất định để có thể hoàn thành đề
tài này.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc nhất
đến cô giáo TS. Hà Thị Hằng – người đã tận tình
hướng dẫn, góp ý và truyền đạt kiến thức cho tôi
hoàn thành đề tài này. Cảm ơn cô đã luôn chỉ dạy,
động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các cô chú ở cơ
quan thị xã Hương Trà, ủy ban nhân dân thị xã
Hương Trà; phòng Kinh tế, phòng Thống kê, phòng
Lao động thương binh xã hội thị xã Hương Trà, tỉnh
Thừa Thiên Huế đã tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất
để tôi hoàn thành Khóa luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè
đã giành tình cảm, sự động viên, chia sẻ, hỗ trợ tôi

về tinh thần lẫn vật chất trong suốt thời gian học tập
và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã cố gắng và nổ lực trong việc thực hiện
Khóa luận này, song chắc chắn không tránh khỏi
thiếu sót, hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận được
3

3


dự đóng góp, chỉ đạo, bổ sung thêm của quý thầy cô
để luận văn được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 12 năm
2017
Sinh viên thực hiện
Đặng Thị Thùy Nhi

i

4

4


MỤC LỤC

5

5



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
GO

: Giá trị sản xuất

VA

: Giá trị tăng thêm

IC

: Chi phí trung gian

NN

: Nông nghiệp

CN

: Công nghiệp

XD

: Xây dựng

TM

: Thương mại


DV

: Dịch vụ

GTST

: Giá trị sản xuất

CCKT

: Cơ cấu kinh tế

CDCCKT

: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

6

ĐVT

: Đơn vị tính

Tr.đ

: Triệu đồng

6



DANH MỤC CÁC BẢNG

7

7


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

8

8


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Thực hiện cơ cấu lại nền kinh
tế trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng”[9],[21].
“Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng công nghệ hiện đại, bố trí
lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại…”[19],[21].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đã và đang được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, là một trong những nội dung trọng yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của nước ta hiện nay. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2016 ước tính
tăng 6,21% so với năm 2015, trong đó quý I tăng 5,48%; quý II tăng 5,78%; quý III
tăng 6,56%; quý IV tăng 6,68%. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng 6,68% của
năm 2015 và không đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% đề ra, nhưng trong bối cảnh kinh tế
thế giới không thuận, giá cả và thương mại toàn cầu giảm, trong nước gặp nhiều khó
khăn do thời tiết, môi trường biển diễn biến phức tạp thì đạt được mức tăng trưởng

trên là một thành công, khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp,
giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa
phương cùng thực hiện. Trong mức tăng 6,21% của toàn nền kinh tế, khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,36%, thấp nhất kể từ năm 2011 trở lại đây, đóng góp
0,22 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
7,57%, thấp hơn mức tăng 9,64% của năm trước, đóng góp 2,59 điểm phần trăm; khu
vực dịch vụ tăng 6,98%, đóng góp 2,67 điểm phần trăm. Trong khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp có mức tăng cao nhất với 6,11%, nhưng do
chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành
nông nghiệp với quy mô trong khu vực lớn nhất (khoảng 75%) chỉ tăng thấp ở mức
0,72%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,80%, đóng góp 0,09
điểm phần trăm[29]. Điều này chứng tỏ xu thế tiến bộ, phù hợp với hướng chuyển dịch
cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm góp phần nâng
cao chất lượng tăng trưởng và củng cố tiềm lực kinh tế đất nước.

9


Hiện nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Thừa Thiên Huế theo hướng
hiệu quả và bền vững, cụ thể: tổng sản phẩm trong tỉnh Thừa Thiên Huế (GRDP) năm
2016 tăng 7,11% so với năm 2015; trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
8,48%; đóng góp 2,99 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung; khu vực dịch vụ tăng
8,02%, đóng góp 4,26 điểm phần trăm; khu vực nông, lâm, thủy sản giảm 1,16%, làm
giảm 0,14 điểm phần trăm mức tăng chung. Cả 3 khu vực kinh tế đều có mức tăng trưởng
thấp hơn năm 2015, trong đó khu vực nông, lâm, thủy sản tăng trưởng âm do chịu ảnh
hưởng thời tiết và sự cố môi trường biển đã tác động không nhỏ đến hoạt động đánh bắt,
nuôi trồng và tiêu thụ thủy hải sản; khai thác gỗ rừng trồng khó khăn về thị trường xuất.
Nhưng nội bộ các ngành nông – lâm – ngư nghiệp vẫn đảm bảo chuyển dịch đúng hướng
với kế hoạch đặt ra. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2016 theo giá so
sánh năm gốc 2010 ước đạt 6.466,3 tỷ đồng, giảm 1,97% so với năm trước, trong đó:

Nông nghiệp ước đạt 4.225,2 tỷ đồng, tăng 3,63%, chia ra: trồng trọt 2.919,3 tỷ đồng, tăng
0,99%; chăn nuôi 1.084,7 tỷ đồng, tăng 11,84%; dịch vụ nông nghiệp 221,2 tỷ đồng, tăng
2,15%. Lâm nghiệp đạt 573 tỷ đồng, giảm 1,12%, chia ra: trồng và nuôi rừng đạt 47,5 tỷ
đồng, tăng 0,27%; khai thác gỗ và lâm sản 476 tỷ đồng, giảm 1,46%; thu nhặt sản phẩm
từ rừng 10,4 tỷ đồng, giảm 7,8%; dịch vụ lâm nghiệp 39 tỷ đồng, tăng 3,45%. Thủy sản
đạt 1.668 tỷ đồng, giảm 13,99%, chia ra: khai thác thủy sản 946 tỷ đồng, giảm 14,96%;
nuôi trồng thủy sản 722 tỷ đồng, giảm 12,68%.
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội của thị xã Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều những chuyển biến tích cực theo hướng “Công nghiệp
Dịch vụ – Nông nghiệp”. Đến năm 2016, tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ, nông
– lâm – thủy sản lần lượt là 57%-26,32%-16,75%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp còn chậm, tỷ trọng nông nghiệp thuần - lâm nghiệp - thủy sản năm 2016
lần lượt là 76,618% - 13,296% - 10,086%. Trong thời gian qua, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp còn hạn chế: chưa khai thác được tiềm năng sẵn có của
địa phương, còn mang tính chất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp là chủ yếu; đời sống người dân
còn khó khăn, phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp. Do vậy cần đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của địa phương nhằm khai thác tối đa các lợi
thế của địa phương, tăng sức cạnh tranh các mặt hàng nông sản, phát triển nông-lâm-

10


ngư nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững hiệu quả,
phù hợp thị trường trong nước và quốc tế. Vì vậy, để đánh giá đúng thực trạng và tìm ra
giải pháp, bước đi đúng đắn cho thị xã trong nhiều năm tới thì tôi chọn và tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thị xã Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói

-

riêng, dưới đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
GS.TS Ngô Đình Giao (1994), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,

-

hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân” NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
TS. Hà Xuân Vấn (2014), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp huyện Phú

-

Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế”, sinh hoạt lý luận, học viện chính trị khu vực III;
Lê Thị Hoa (2015), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Phú

-

Ninh, tỉnh Quảng Nam”, luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế;
Nguyễn Thị Như Ngọc (2015), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở thị xã Hương

-

Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế”, khóa luận tốt nghiệp;
Võ Thị Phương Thảo (2016), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế”, khóa luận tốt nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, vấn đề chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế cho đến nay chưa
có đề tài nào nghiên cứu sâu. Vì vậy, dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả đi trước,
khoá luận sẽ kế thừa có chọn lọc, vận dụng, nghiên cứu tình hình của địa phương.
3. Mục tiêu


a. Mục tiêu chung

Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, đề tài đưa ra giải pháp thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
Huế trong thời gian tới.

11


b. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh
-

tế ngành nông nghiệp.
Phân tích và đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thị

-

xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp tại thị xã

-

Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2016
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp chung
Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp cụ thể
*Phương pháp thu thập thông tin
-Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:
Đề tài được tiến hành dựa trên việc thu thập số liệu từ các báo cáo về tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của thị xã Hương Trà từ năm 2012 đến năm 2016; Quy
hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội thị xã Hương Trà đến năm 2020; Niên giám
thống kê thị xã Hương Trà từ năm 2012 đến năm 2016 và các tài liệu liên quan khác.
-Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:
+Tiến hành ghi chép hoạt động của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ và nội bộ ngành nông nghiệp trên địa bàn thị xã Hương Trà
+Lập phiếu khảo sát lấy ý kiến của cán bộ quản lý của thị xã Hương Trà với số mẫu
là 35, thu lại được 30 phiếu còn 5 phiếu do cán bộ đi công tác xa không thu lại được.
*Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm excel để tính toán và vẽ biểu đồ.
*Phương pháp phân tích và tổng hợp

12


-Phương pháp thống kê kinh tế: sử dụng để tổng hợp và hệ thống hóa số liệu theo
các tiêu thức khác nhau phù hợp với mục đích nghiên cứu.
-Phương pháp thống kê mô tả: mô tả các chỉ tiêu nghiên cứu trên các bảng đồ,
biểu đồ để phân tích nhận định.
-Phương pháp so sánh đối chiếu: được sử dụng để so sánh các chỉ tiêu nghiên

cứu qua không gian và thời gian, cụ thể là so sánh đánh giá sự phát triển kinh tế nói
chung, phát triển kinh tế ngành nông, lâm, ngư nghiệp và các bộ phận của nó năm sau
so với năm trước đó, cũng như phân tích tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp.
-Phương pháp tổng hợp: được thực hiện để tổng hợp lại đưa ra giải pháp
phát triển
6. Ý nghĩa của đề tài
-

Về mặt lý luận: Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành

-

cũng như khối ngành liên quan trong quá trình học tập
Về thực tiễn: Đề tài đánh giá được thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm qua và có một số
định hướng cũng như giải pháp đưa ra có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản
lý kinh tế của thị xã hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, kiến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thị xã
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP
13


1.1. Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
1.1.1. Một số khái niệm
 Cơ cấu kinh tế

Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm cơ cấu kinh tế chúng ta hãy tiếp cận nó bằng
khái niệm “cơ cấu”. “Cơ cấu” là một phạm trù triết học dùng để biểu thị cấu trúc bên
trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành hệ thống. Cơ cấu được biểu
hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một
hệ thống nhất định. Nó biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật hiện tượng nó
biến đổi cùng với sự biến đổi sự vật, hiện tượng.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các
lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu
cơ tương đối ổn định giữa chúng hợp thành trong một khoảng thời gian nhất định”.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: Cơ
cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc
dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất
lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể, chúng vận động
hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này cơ cấu kinh tế là phạm trù
kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Trong giáo trình Mác – Lênin viết: “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp
thành, cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ
thống kinh tế quốc dân” [11;227].
Theo C.Mác: “Cơ cấu kinh tế là sự phân chia về chất lượng và tỉ lệ về số lượng của
quá trình sản xuất xã hội” [5,13]. Vì thế có thể hiểu cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối
quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc
các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã

hội với những điều kiện kinh tế -xã hội và thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa là khi
xem xét cơ cấu kinh tế phải xem xét cấu trúc bên trong của nền kinh tế qua các mối quan
hệ khác nhau. Các quan hệ này không chỉ là quan hệ tỷ lệ mang tính số lượng mà còn
mang tính chất lượng thể hiện sự ràng buộc giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.

14


“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ
tương đối ổn định hợp thành”[5,14]. Cơ cấu kinh tế của một nước xét trên tổng thể bao
gồm những mối liên hệ tổng thể giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế của nước đó,
bao gồm các yếu tố kinh tế, các lĩnh vực kinh tế (sản xuất, phân phối trao đổi, tiêu
dùng), các ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ...), các khu vực kinh tế
(nông thôn, thành thị), các thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, cá thể, hộ gia đình).
Ở mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi thành phần kinh tế lại có cơ cấu riêng của mình tùy thuộc
vào những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể. Để có một nền kinh tế phát triển với
tốc độ tăng trưởng cao và ổn định tất yếu phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Từ những quan niệm trên có thể thấy, thuật ngữ “cơ cấu kinh tế” có rất nhiều
cách tiếp cận khác nhau, song tất cả các quan điểm trên có sự thống nhất rằng: “Cơ cấu
kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế của mỗi nước. Các bộ phận
đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ
về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định,
phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, nhằm đạt được hiệu quả kinh
tế - xã hội cao”.
 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự biến đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang
trạng thái khác trong một thời kỳ nhất định trên cơ sở phù hợp với điều kiện khách
quan và chủ quan, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển[17;12]. Có thể hiểu cơ cấu kinh
tế không thể cố định lâu dài mà phải có chiến dịch cần thiết để thay đổi sao cho phù

hợp với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX có viết: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
quá trình thay đổi quan hệ tỷ lệ về lượng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận
cấu thành của nền kinh tế”[10;168].
Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là quá trình cải biến kinh tế - xã
hội từ lạc hậu, mang tính tự cấp tự túc lên nền kinh tế phát triển cao, hợp lý, được
trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Từ đó tạo ra năng suất cao, hiệu quả cao, nhịp
độ tăng trưởng nhanh theo hướng tiến lên phủ định cái cũ, cái lạc hậu và dần dần
hướng đến cái mới tuến bộ hơn và hoàn thiện hơn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự

15


điều chỉnh cơ cấu trên ba mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành kinh
tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế.
Vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chính là
sự vận động phát triển của các ngành làm thay đổi vị trí, tỷ trọng, mối quan hệ tương
tác giữa chúng theo thời gian để phù hợp với sự phát triển ngày càng cao của lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội.
 Ngành nông nghiệp

Nông nghiệp là ngành sản xuất gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của xã hội
loài người. Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng cấu thành nền kinh tế quốc dân.
Mọi quốc gia trên thế giới đều có những chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp.
Ngay cả những nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, Pháp...sản xuất nông
nghiệp cũng luôn được chú trọng và thực tế cho thấy các sản phẩm nông nghiệp đã
đóng góp rất nhiều vào kim ngạch xuất khẩu.
Ở nước ta, sản xuất nông nghiệp đã có từ xa xưa và được xem là cái nôi của nền
văn minh lúa nước. Đến nay, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân với tỷ trọng 16,32% GDP trong năm 2016 [23].

Nông nghiệp là hoạt động sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi các cây
trồng và vật nuôi hữu ích cho con người.
Nông nghiệp theo ngành bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Trong đó cơ cấu các nhóm ngành lại được phân chia như sau:
-

Nông nghiệp gồm hai ngành trồng trọt, chăn nuôi, trong đó trồng trọt chia thành cây
lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau màu. Ngành chăn nuôi gồm có chăn

-

nuôi gia súc, gia cầm.
Lâm nghiệp gồm trồng rừng, khai thác và chế biến lâm sản.
Ngư nghiệp gồm nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản.
Nông nghiệp là ngành phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên: đất đai, khí
hậu, sinh vật, thời tiết; việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Vì vậy, việc xác
định và phát triển đúng hướng các ngành chuyên môn hóa trong cơ cấu sản xuất nông
nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của địa phương và của từng vùng.

 Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

16


Nông – lâm – ngư nghiệp là hệ thống lớn của cơ cấu kinh tế. Cơ cấu nông – lâm
– ngư nghiệp cũng là một cấu trúc gắn bó hữu cơ nhiều nhân tố tác động qua lại lẫn
nhau cùng tồn tại và phát triển trong những thời gian và không gian nhất định.
Cơ cấu nông nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, chịu sự tác động mạnh
mẽ của các điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được phân chia thành: Cơ cấu ngành, cơ cấu vùng

lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
ngành thể hiện rõ nhất bản chất của cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một bộ phận của hệ thống cơ cấu kinh tế quốc
dân, phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc dân, nhưng nó mang tính độc lập tương đối.
Vậy cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp được hiểu: Cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp là tổng thể các mối quan hệ theo tỷ lệ về số lượng và chất lượng tương đối ổn
định của các yếu tố kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp trong một
khoảng thời gian và không gian nhất định.
 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối
liên hệ của các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp theo mục đích và phương pháp nhất
định. Không có một cơ cấu kinh tế cụ thể nào là hoàn thiện và bất biến, quá trình chuyển
dịch này xảy ra bởi sự phát triển và vận động không ngừng của chính cơ cấu kinh tế đó.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình làm biến đổi cấu trúc và các
mối quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng và mục tiêu nhất định,
nghĩa là đưa hệ thống đó từ một trạng thái nhất định tới trạng thái phát triển tối ưu để
đạt được hiệu quả mong muốn, thông qua sự điều khiển có ý thức của con người, trên
cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan[13].
Chuyển dịch CCKT ngành nông nghiệp được xem xét trên 3 góc độ: chuyển dịch
cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành là sự thay đổi tỷ trọng giữa các ngành và nhóm ngành
trong nội bộ ngành nông nghiệp nhằm khai thác tốt hơn các nguồn lực của địa phương.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp không chỉ là sự biến đổi tỷ lệ về số

17


lượng (như cơ cấu diện tích trồng, cơ cấu đàn gia súc, cơ cấu giá trị ngành trồng trọt, của
ngành chăn nuôi, cơ cấu lao động…), mà còn chuyển dịch về chất (như sự thay đổi về

trình độ công nghệ trong các ngành nông nghiệp, năng suất, chất lượng nông sản…).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ là tỷ trọng giá trị của cây lương thực
trong cơ cấu trồng trọt giảm xuống, nhưng năng suất, chất lượng và lợi nhuận của lương
thực không giảm mà còn tăng lên. Tỷ trọng của nông nghiệp (theo nghĩa hẹp) giảm
xuống (nhưng sản lượng vẫn tăng lên), tỷ trọng của lâm nghiệp và thủy sản tăng lên.
Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ kinh tế nông nghiệp chính là sự bố trí các ngành sản
xuất và dịch vụ theo không gian cụ thể nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh
của vùng. Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ theo hướng đi vào chuyên môn
hóa và tập trung hóa sản xuất hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung
có hiệu quả cao, mở rộng mối quan hệ với các vùng chuyên môn khác, gắn bó cơ cấu
kinh tế của từng vùng với cả nước.
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: đang diễn ra với xu hướng đa dạng hóa
các thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn khuyến khích tất cả các thành phần
kinh tế tham gia vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn song kinh tế Nhà nước
vẫn giữ vai trò chủ đạo và then chốt.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là chuyển dịch từ ngành có giá trị thấp sang ngành có giá trị cao hơn cụ thể là:
Trong cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thủy sản trong giá trị toàn
ngành, tăng khối lượng nông lâm, thủy sản chế biến và xuất khẩu. Trong nông nghiệp,
tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chăn nuôi. Trong trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị cây công
nghiệp, rau màu, hoa quả. Trong lâm nghiệp, chuyển nhanh từ khai thác sang thực hiện
trồng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng; phủ xanh đát trống, đồi trọc, chế biến lâm sản. Trong
ngư nghiệp, phát triển nuôi trồng gắn liền với khai thác và chế biến thủy hải sản[13].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững là
rất quan trọng. Có thể hiểu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng
phát triển bền vững là quá trình làm cho sản xuất của các ngành nông nghiệp thích ứng
với thị trường, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, nâng cao thu nhập cho

18



nông dân, bảo đảm tăng trưởng nông nghiệp bền vững đi liền với bảo đảm bền vững
xã hội và môi trường cho phát triển nông nghiệp. Quá trình này đòi hỏi phải gắn với
bố trí, sắp xếp lại các chuyên ngành sản xuất nông nghiệp theo nguyên tắc sử dụng tối
đa lợi thế so sánh và sử dụng tối ưu các nguồn lực đầu vào để tạo ra hiệu quả kinh tế,
năng lực cạnh tranh cao hơn, bền vững hơn cho toàn ngành.
1.1.2. Nội dung và tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
1.1.2.1. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành trong ngành nông nghiệp
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành nông nghiệp – lâm nghiệp
– ngư nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành nông
nghiệp thì phải đánh giá sự chuyển dịch giữa các ngành này.
Thông thường, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý thể hiện
ở xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và ngư
nghiệp nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng đất đai trung du, miền núi, diện tích mặt
nước, ao hồ, sông, suối, biển. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với nông – lâm – thủy sản để
hỗ trợ nhau cùng phát triển và bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong nông nghiệp xu hướng phát triển làm giảm dần độc canh lúa, tăng dần tỷ
trọng cây công nghiệp, rau, quả, cây đặc sản, chăn nuôi để sản xuất ra nhiều nông sản
hàng hóa và xuất khẩu có giá trị cao.
 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ các ngành trong ngành nông nghiệp
** Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông nghiệp
Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chủ yếu của nông nghiệp. Tùy thuộc vào đặc
điểm tự nhiên của từng vùng mà trong cơ cấu ngành nông nghiệp có sự khác biệt về tỉ
trọng của các ngành. Ở nước ta nếu xét nông nghiệp trên góc độ của trồng trọt và chăn
nuôi thì trồng trọt vẫn chiếm tỉ trọng cao hơn chăn nuôi. Trồng trọt và chăn nuôi có mối
quan hệ chặt chẽ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trồng trọt phát triển với quy mô sản
xuất lớn tạo ra nguồn thức ăn cho chăn nuôi phát triển theo hướng hàng hóa. Trồng trọt
cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp, thức ăn cho
chăn nuôi, sản phẩm cho xuất khẩu. Chăn nuôi cung cấp những sản phẩm có giá trị dinh

dưỡng cao như trứng, thịt, sữa… Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, cung cấp

19


nguyên, vật liệu quan trọng cho công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và một số
ngành công nghiệp khác (hóa chất, dược liệu…). Nó cũng cung cấp nguồn hàng xuất
khẩu quan trọng ở nhiều nước đang phát triển, cũng như ở Việt Nam hiện nay chăn nuôi
còn cung cấp sức kéo cho trồng trọt. Trong nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, trồng
trọt chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nông nghiệp, bởi vì sản phẩm của nó đáp ứng nhu
cầu thiết yếu nhất cho đời sống nhân dân. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, đời sống
nhân dân được nâng cao, nhu cầu sản phẩm chăn nuôi ngày càng gia tăng làm cho tỷ
trọng ngành chăn nuôi có xu hướng tăng lên. Ở Việt Nam, ngành trồng trọt vẫn giữ vai
trò chủ đạo, tỷ trọng ngành chăn nuôi có tăng, nhưng còn chậm. Tóm lại, trong nông
nghiệp chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ trồng trọt sang chăn nuôi.
-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nội bộ ngành trồng trọt
Trong nội bộ ngành trồng trọt, cơ cấu chủ yếu là giữa cây lương thực với cây
công nghiệp rau, quả. Lương thực là bộ phận cấu thành chủ yếu trong cơ cấu bữa ăn
hàng ngày của con người. Lương thực đã và sẽ còn giữ vai trò chủ yếu, lâu dài trong
nguồn thực phẩm mà không thể thay thế được. Tuy nhiên, xu hướng chung, cơ cấu bữa
ăn sẽ dần thay đổi theo hướng giảm bớt lương thực. Cây công nghiệp cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp nhẹ (công nghiệp dệt, thực phẩm, dược liệu, hóa chất, …).
Những ngành công nghiệp này lại là những ngành thu hút nhiều lao động, do đó phát
triển những ngành này sẽ tạo thêm việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, để phát
triển cây công nghiệp cần chú ý: Yêu cầu về quy trình kỹ thuật, vốn đầu tư ban đầu và
thâm canh nhiều hơn so với cây lương thực. Rau, hoa quả, rất cần thiết cho đời sống
con người, nó cung cấp đường, a xit, muối khoáng, sinh tố, chất kích thích khẩu vị và
các chất bổ khác cho nhu cầu cơ thể. Có thể sử dụng ở dạng tươi hoặc làm nguyên liệu

cho công nghiệp chế biến thực phẩm để sản xuất đồ hộp, rượu, nước ngọt, bánh mứt,
kẹo với nhiều chủng loại phong phú. Cây ăn quả có tác dụng làm rừng phòng hộ và
phát triển nuôi ong… nhu cầu về rau, hoa quả, cây cảnh ngày càng có xu hướng tăng
lên cả trong nhu cầu bữa ăn cũng như đời sống xã hội. Sản xuất những sản phẩm này
chú ý áp dụng công nghệ tiên tiến và bố trí gần nơi thuận lợi cho vận chuyển cũng như

20


nơi tiêu thụ. Qua đó cho thấy, cơ cấu kinh tế ngành trong nội bộ ngành trồng trọt
chuyển dịch từ cây lương thực sang cây CN, rau, quả.
-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nội bộ ngành chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm là một hoạt động sản xuất quan trọng trong nông
nghiệp, ở Việt Nam, trâu, bò, lợn, gà, vịt thường được nuôi phổ biến. Ngoài ra các vật
nuôi khác như ngựa, dê, ngan, ngỗng… tuy còn nhỏ bé nhưng cũng góp phần đa dạng
hóa sản phẩm. Đặc điểm của việc phát triển chăn nuôi phản ánh điều kiện và thế mạnh
của từng vùng. Cơ cấu các loại gia súc, gia cầm có sự chuyển dịch theo hướng tăng
các loại vật nuôi có giá trị phục vụ tiêu dùng với chất lượng cao và xuất khẩu. Cụ thể
thời gian qua ở Việt Nam là giảm tỷ trọng đàn lợn, tăng tỷ trọng đàn bò và gia cầm,
nhưng sự dịch chuyển này rất chậm.
Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành chăn nuôi cần theo hướng sản xuất hàng
hóa, từ chăn nuôi nhỏ lẻ bầy đàn sang chăn nuôi tập trung trang trại; từ quy mô nhỏ
sang quy mô vừa và quy mô lớn hơn.
** Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành lâm nghiệp
Lâm nghiệp là ngành kinh tế quốc dân có nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ và sử dụng
rừng để phát huy lợi ích kinh tế, công ích xã hội và tác dụng bảo vệ môi trường trên cơ
sở những phương thức sản xuất và kinh tế nhất định. Lâm nghiệp được hình thành và
hoạt động trên cơ sở vai trò, chức năng và tác dụng của rừng và đất lâm nghiệp đối với

đời sống kinh tế xã hội trên các hệ sinh thái khu vực toàn quốc. Lâm nghiệp bao gồm
các ngành trồng và khoanh nuôi rừng, khai thác lâm sản, dịch vụ và các hoạt động lâm
nghiệp khác.
Trong lâm nghiệp, chuyển nhanh từ khai thác sang thực hiện trồng, khoanh nuôi,
bảo vệ rừng; phủ xanh đát trống, đồi trọc, chế biến lâm sản. Phát triển lâm nghiệp toàn
diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng;
tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành phần
kinh tế cùng tham gia đầu tư. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân có thể sống, làm
giàu từ rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng; hình thành các tổ hợp trồng rừng nguyên liệu gắn
với công nghiệp chế biến lâm sản và phát triển các vùng rừng chuyên môn hóa bảo

21


đảm đáp ứng ngày càng nhiều hơn nguyên liệu trong nước cho công nghiệp chế biến
gỗ và các sản phẩm từ gỗ, giấy.
** Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành ngư nghiệp
Ngư nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng cấu thành kinh tế nông
nghiệp ở nước ta. Ngư nghiệp là ngành nuôi trồng và khai thác các loại thủy sản bao
gồm cả thủy sản nước ngọt (trong các ao, hồ, đầm ruộng, sông ngòi…) và thủy sản
nước lợ, nước mặn ở ven biển và đại dương.
Chuyển dịch cơ cấu ngành ngư nghiệp theo hướng giảm khai thác, phát triển
mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi thế từng vùng gắn với
thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp, thâm canh là chủ yếu đối với thủy
sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an
toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc đánh bắt thủy hải sản xa bờ với ứng dụng công nghệ
cao trong các khâu tìm kiếm nư trường, đánh bắt và hiện đại hóa các cơ sở chế biến
thủy sản. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi trồng, đánh
bắt, chế biến, xuất khẩu thủy sản.
1.1.2.2. Tiêu chí phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

 Tiêu chí giá trị trong cơ cấu GDP
Mặc dù có những khiếm khuyết nhất định. Nhưng khoa học kinh tế hiện đại đã sử dụng
chỉ tiêu GDP như một trong những thước đo khái quát nhất, phổ biến nhất để đo lường,
đánh giá về tốc độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu GDP giữa các nền
kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu hướng vận động và
mức độ thành công của công nghiệp hóa. Tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành cấp I
(khu vực nông nghiệp, công nghiệp và du lịch) là một trong những tiêu chí đầu tiên
thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Trong quá trình công nghiệp hóa, mối tương quan này có xu hướng chung là khu vực
nông nghiệp có tỉ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp và
dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện đại, khu
vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỉ trọng cao nhất, sau đó là công nghiệp và
cuối cùng là nông nghiệp. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP:

22


90% hoặc trên 90%, trong đó cơ cấu các ngành chế biến chế tạo đạt trên 20%, tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP dưới 10%.
Ở góc độ cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô và cơ cấu các thành phần kinh tế một chỉ số
kinh tế khác cũng thường được sử dụng là cơ cấu GNP. Sự khác biệt giữa cơ cấu GDP
và cơ cấu GNP chỉ là ở chỗ, chỉ tiêu GNP chỉ phần giá trị tăng thêm hàng năm được
sản xuất ra thuộc sở hữu của một nền kinh tế, còn GDP thì ở trong nền kinh tế đó.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, việc phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp II, cấp III…) có một ý
nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh
chất lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công nghiệp,
những ngành công nghiệp chế tạo đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công
nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, hóa mỹ phẩm, dược phẩm…

chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cao hơn so với những lĩnh vực công nghiệp khai khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp
lắp ráp…Trong khu vực dịch vụ, những lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, gắn với công
nghệ hiện đại như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông, hàng không vv…chiếm tỷ
lệ cao sẽ rất khác với những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân sự với công nghệ
thủ công hoặc trình độ thấp, quy mô nhỏ lẻ.
 Tiêu chí cơ cấu lao động, việc làm
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn
được đánh giá qua một chỉ tiêu rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong
nền kinh tế được phân bổ như thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Một nền
kinh tế đang phát triển không chỉ mở rộng một cách đơn thuần, mà cấu trúc của nền
kinh tế đó cũng thay đổi. Những ngành công nghiệp mới xuất hiện và phát triển, còn
các ngành công nghiệp cũ rút lui và biến mất. Cùng với những thay đổi này, nhiều loại
hình nghề nghiệp khác nhau cũng xuất hiện và biến mất. Điều này có nghĩa: tăng
trưởng đòi hỏi việc tái phân bổ liên tục sức lao động: “Nếu đầu tư, tiến bộ công nghệ
và những thay đổi về thể chế là động cơ của tăng trưởng kinh tế thì chuyển dịch lao
động là dầu bôi trơn để động cơ đó luôn hoạt động. Không có dầu này, tăng trưởng
không được duy trì liên tục".

23


Các nhà kinh tế học đánh giá rất cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang làm
việc trong nền kinh tế, vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động xã hội mới
là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế-xã hội của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi vì công nghiệp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ
của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất công
nghiệp, mà là cùng với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng, mà còn phải đánh giá
được số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng
như thế nào trong tổng lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Theo tiêu

chí hiện nay, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 20% - 30%,
tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt trên 55%.
Chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động không chỉ phản ánh xác thực hơn mức độ
chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước mà còn ít bị ảnh hưởng bởi các
nhân tố ngoại lai hơn chỉ tiêu thay đổi cơ cấu GDP. Ở một số nền kinh tế, trong khi tỷ
trọng lao động phi nông nghiệp (nhất là khu vực sản xuất công nghiệp) còn chiếm tỷ
trọng nhỏ, nhưng trong cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều. Lý giải cho hiện
tượng này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình trạng “méo mó” về giá cả, nhất là trong
những trường hợp có sự chênh lệch giá cánh kéo lớn giữa sản phẩm công nghiệp và
dịch vụ so với sản phẩm nông nghiệp. Vì thế cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế đôi
khi không phản ánh đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động thậm chí còn được một số nhà
kinh tế xem như chỉ tiêu quyết định nhất để đánh giá mức độ thành công của quá trình
công nghiệp hóa trong nghiên cứu so sánh giữa các nền kinh tế. Chẳng hạn, trong
nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng
dựa trên chỉ tiêu cơ cấu lao động theo ngành để chỉ ra bốn hình thái kinh tế cùng đồng
thời tồn tại ở Trung Quốc: (1) kinh tế nông nghiệp, tạo việc làm cho gần 50% lao
động, tương đương với nước Mỹ, Pháp, Đức năm 1870; (2) kinh tế công nghiệp – xây
dựng, sử dụng 20% lao động đang làm việc; (3) kinh tế dịch vụ, sử dụng 22% lao động
và (4) kinh tế tri thức (gồm giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật – công nghệ, tài
chính ngân hàng, bảo hiểm), tạo việc làm cho 5% lao động.
 Tiêu chí cơ cấu hàng xuất khẩu

24


Trong điều kiện của một nền kinh tế đang công nghiệp hóa, cơ cấu các mặt hàng
xuất khẩu cũng được xem như một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ
thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Quy luật phổ biến của quá trình công nghiệp hóa (đối với phần lớn các nước

đang phát triển hiện nay) là xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, ở đó sản xuất
nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP và số lượng lao động làm nông
nghiệp chiếm phần lớn nhất trong tổng lực lượng lao động xã hội, và do đó, trong tổng
giá trị xuất khẩu ít ỏi mà họ có được; một phần rất lớn là sản phẩm nông nghiệp hoặc
sản phẩm của công nghiệp khai thác ở dạng nguyên liệu thô (chưa qua chế biến hoặc
chỉ ở dạng sơ chế). Trong khi đó nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ,
nguyên vật liệu phục vụ quá trình phát triển công nghiệp lại rất lớn nên tình trạng khan
hiếm và thiếu hụt ngoại tệ luôn là một điểm yếu mang tính kinh niên.
Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa để trở thành một nước
công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong cơ cấu sản xuất và
cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu sản xuất và xuất khẩu hàng sơ chế sang các
mặt hàng công nghiệp chế tạo, lúc đầu là các loại sản phẩm của công nghiệp chế tạo sử
dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như lắp ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm
thủy sản…chuyển dần sang các loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật cao
như sản phẩm cơ khí chế tạo, hóa chất, điện tử, v.v…Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ
cấu hàng xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa
trên cơ sở công nghệ-kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo rất
quan trọng đánh giá mức độ thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hơn nữa,
đối với nhiều nước chậm phát triển, do những chỉ số tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia
nhiều khi thấp hơn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nên cơ cấu sản phẩm xuất khẩu (được
thị trường quốc tế chấp nhận) sẽ là một tiêu chí tốt để bổ sung đánh giá kết quả của
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh ba chỉ tiêu chủ yếu trên, một nhóm các chỉ tiêu khác cũng thường được
sử dụng để góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh tế với tư cách là kết quả
của cơ cấu phân bổ các nguồn lực xã hội. Đó là các chỉ số về tốc độ tăng trưởng kinh

25



×