Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Lý luận hình thái kinh tế xã hội và vận dụng vào quá trình đổi mới ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.43 KB, 20 trang )

Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

PHẦN MỞ ĐẦU

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Chúng ta đã biết hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, mọi
sự phát triển của xã hội đều đi từ thấp đến cao. Cơ bản đó là sự thay đổi về lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và mối
quan hệ giữa chúng. Tất cả những thay đổi này diễn ra trong từng hình thái kinh
tế xã hội và sự chuyển đổi từ hình thái kinh tế xã hội sang hình thái kinh tế xã
hội khác. Vì vậy hiện nay việc nhận thức, bảo vệ và vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội và quá trình đổi mới ở nước ta đang trở
thành nhiệm vụ chính trị hết sức cấp bách, cần thiết.
Từ khi học thuyết chính trị xã hội của thế giới lâm vào thoái trào thì học
thuyết Mác lại là một trọng điểm lý luận bị đã kích ở nhiều phương diện. Người
ta đã cho rằng học thuyết này trở nên lạc hậu, muốn nhận thức chế độ chính trị
hiện đại phải dựa vào các lý luận khác cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Như vậy thì làm cách mạng, chính trị xã hội không còn cơ sở khoa học và
lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Từ nay không còn cơ sở khoa học nữa vì vậy nảy sinh
một số tư tưởng mới. Có ý kiến đề xuất xây dựng một chủ nghĩa mới thay thế
cho chủ nghĩa xã hội củ, đó là chủ nghĩa xã hội mác xít và học thuyết đang ở
thoái trào.
Cũng có người giải thích học thuyết, lý luận hình thái kinh tế xã hội theo
quan điểm di vật một cách máy móc. Để chứng minh rằng làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một đường lối sai lầm, cứ để xã hội phát triển và hình thành theo
con đường tư bản rồi nhờ quá trình lịch sử - tự nhiên mà Mác đã từng nói: “ xã
hội sẽ tự chuyển sang xã hội, xã hội chủ nghĩa. Không cần trải qua quá trình làm
cách mạng, trên cơ sở lý luận này học cho rằng con đường xã hội chủ nghĩa ở


GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 1

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

nước ta đã lựa chọn trái với quá trình lịch sử. Bởi vì nó không còn tất yếu và
cũng không có khả năng thực hiện, nhất là trong điều kiện hiện nay chế độ xã
hội chủ nghĩa Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ phát triển đi lên theo con
đường chủ nghĩa tư bản.
Trước thực tế sự sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu, những người làm cách mạng phải vận dụng những kinh nghiệm tư tưởng
đúng đắn của mình, đấu tranh chống những quan điểm sai lầm nói trên. Đồng
thời bảo vệ quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
Mặc khác việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, để xác định
từ quá độ đi lên chế độ xã hội chủ nghĩa vào công cuộc đổi mới ở nước ta cũng
đang nảy sinh nhiều vấn đề mới. Đòi hỏi phải biết vận dụng sáng tạo, đúng đắn
quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế xã
hội nói riêng nhằm làm sáng tỏ con đường đi lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của Đảng trong thời đại mới.
Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài “ hình thái kinh tế xã hội và việc vận dụng
vào quá trình đổi mới ở nước ta ”.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “ lý luận hình thái kinh tế xã hội và vận
dụng vào quá trình đổi mới ở nước ta”. Đó là triết học Mác Lênin, dựa vào triết

học Mác Lênin ta có thể biết được khái niệm kết cấu, sự phát triển. Cũng như
vận dụng các lý luận hình thái kinh tế xã hội vào quá trình đổi mới của nước ta.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Tổng hợp tất cả các phương pháp của chủ nghĩa duy vạt biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phải logic về lịch sử phân tích và tổng hợp
gắn liền lý luận với thực tiễn để thực hiện đề tài.

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 2

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN
VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
I.

KHÁI NIỆM VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI.

I.1- Hình thái kinh tế xã hội.
Các Mác đưa ra khái niệm hình thái kinh tế xã hội bằng cách phân tích tất

cả các quan hệ giữa người với người trong đời sống hằng ngày, đó là những
quan hệ xã hội. Trong tất cả những quan hệ đó, ông làm nổi bật lên quan hệ giữa
người với người trong sản xuất vật chất, coi đó là những quan hệ cơ bản ban
đầu, quyết định tất cả các quan hệ khác còn lại. Vì vậy Lê Nin viết: “Mác đã xây
dựng tư tưởng cơ bản đó bằng cách nào ?” bằng cách là trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bậc lĩnh vực kinh tế bằng cách là tất cả
mọi quan hệ xã hội và những quan hệ sản xuất. Coi đó là những quan hệ cơ bản
đầu tiên, quyết định tất cả mọi quan hệ khác.
Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của Các Mác được xây dựng dựa
trên sự phân tích sâu sắc, thấu đáo quy luật vận động của đời sống xã hội hiện
thực như một quá trình lịch sử tự nhiên mà động lực của sự phát triển là lực
lượng sản xuất.
Các Mác đã chứng minh rằng: sản xuất vật chất là sự tồn tại và phát triển
của xã hội chủ nghĩa loài người bởi một chân lý đơn giản là “trước hết con cần
phải ăn, uống, ăn và mặc, nghĩa là phải lao động…”
Mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất hợp thành những phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử. Sự tiến bộ
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 3

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

của lượng sản xuất là nguyên nhân và động lực đưa đến những biến đổi cách
mạng của quan hệ sản xuất và cơ cấu xã hội.

Sự hình thành và vận động của những quan hệ xã hội là cơ cấu kinh tế, để
tạo ra trên nó những kiểu kiến thức thượng tần tương ứng về tư tưởng, chính trị,
pháp lý, xã hội… toàn bộ những quan hệ sẽ hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội,
tức là cơ sở hiện thực trên đó xây dựng một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị - tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái kinh tế xã hội.
Khi nghiên cứu một xã hội cụ thể, Các Mác không chỉ chú ý đến mối
quan hệ giữa lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà Ông còn chú ý đến những
mối quan hệ khác, đặc biệt là mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với tổng hợp các
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội với kiến trúc thượng tầng
với tư tưởng là tổng hợp những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với các thể chế xã hội tương ứng với chúng
như là nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức tôn giáo…
hình thái trên cơ sở hạ tầng đó. Lực lượng sản xuất đó quan hệ sản xuất, kiến
trúc thượng tầng là ba yếu tố cơ bản của mỗi hình thái kinh tế xã hội gắn bó hữu
cơ với nhau trong một chỉnh thể và sự tác động qua lại giữa chúng, sự vận động
của mỗi yếu tố trong một hình thái kinh tế xã hội đưa sự vận động, biến đổi của
xã hội theo quy luật, làm cho sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên.
Vậy hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ ra xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một kiếu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 4

SVTH: Huỳnh Văn Hưng



Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

I.2- Kết cấu của kinh tế-xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp,
trong đó cá các mặt cơ bản là lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt hình thái kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại
lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh
tế - xã hội. Hình thái kinh tế xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau.
Suy đến cùng, sự phát triển của lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát
triển và thay thế lẫn nhau của hình thái kinh tế-xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi
quan hệ sản xuất khác. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và tác động tích cực trởi lại lực lượng sản xuất. Mỗi hình thái
kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất
là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Các quan hệ sản xuất
tạo hành cơ sở hạ tầng của xã hội.
Các quan điểm chính trị pháp quyền, đạo đức, triết học… và các thể chế
tương ứng được hình thành, phát triển trên cơ sở các quan hệ sản xuất tạo thành
kiến trúc thường tầng của xã hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát
triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và
phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế xã hội còn có quan
hệ và gia đình dân tộc và các mối quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn
bó chặt chẻ với quan hệ sản suất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản
xuất.


GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 5

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

I.3- Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử.
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội nói
tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động khách quan của xã hội
Cac Mac đã đi đến kết luận “sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là
một quá trình lịch sử- tự nhiên”.
Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống, trong đó các mặt không ngừng
tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng và các quy
luật xã hội khác, chính sự tác động của các quy luật khách quan-kinh tế xã hội
vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là sự phát triển
của các lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản suất đã quyết
định, làm thay đổi quan hệ sản xuất đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ
làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo và do đó mà hình thái kinh tế xã hội
cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó
diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Lênin viết:
“chỉ có đem qui những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem qui
những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta

mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình
thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên.
Hệ thống các qui luật:
• Qui luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
• Qui luật về sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng.
• Qui luật đấu tranh giai cấp và trong xã hội có giai cấp.
• Các qui luật xã hội khác.
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 6

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

Sự tác động của các qui luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế xã
hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao, đó là con đường phát triển chung
của nhân loại. Song con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối
bởi các qui luật chung mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, chính
trị, truyền thống văn hóa, điều kiện quốc gia… Chính vì vậy lịch sử phát triển
của nhân loại hết sức phong phú đa dạng. Mỗi dân tộc điều có nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình
thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một
hay một số hình thái kinh tế xã hội. Tuy nhiên việc bỏ qua cũng diễn ra theo một
quá trình lịch sử tự nhiên chứ không theo ý muốn chủ quan.
Như vậy quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những

diển ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong
những điều kiện nhất định, một hay một vài hình thái kinh tế xã hội nhất định.

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 7

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

Chương II:

Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN
HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA.


I. Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ
HỘI.
Lần đầu tiên trong lịch sử học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã
hội đã vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã hội và chỉ ra
qui luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của xã hội loài người, đó là
cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xã hội và chống lại các quan điểm di tâm về
lịch sử.
Đối với ta lý luận hình thái kinh tế xã hội là cơ sở cho đường lối chiến
lược cách mạng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và trong

công cuộc đổi mới hiện nay nói riêng.
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm thống trị trong khoa học xã hội. Các nhà
triết học đã không thể giải quyết một cách khoa học vấn đề phân loại các chế độ
xã hội và phân kỳ lịch sử. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội ra đời là
một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội.
Mác đã nhận thấy động lực của lịch sử không phải do một tinh thần, thần
bí nào, mà do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các qui luật
khác quan.
Học thuyết mác về hình thái kinh tế xã hội là biểu hiện tập trung của quan
niệm duy vật về lịch sử. Quan niệm ấy, như Anghen giải thích xuất phát từ “cái
sự thật hiển nhiên…là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc nghĩa là
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 8

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có
thể họat động chính trị, tôn giáo, triết học…”
Chừng nào cái sự thật hiển nhiên đó vẫn tồ tại thì quan niệm duy vật về
lịch sử không thể trở nên lạc hậu được. Học thuyết mác về hình thái kinh tế xã
hội đối lập với quan điểm trù tượng về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả một xã
hội nói chung, một xã hội cấu thành chỉ bởi con người sinh vật. Quan niệm phi
lịch sử về xã hội phải nhường chổ cho quan điểm lịch sử.
Trong tất cả mọi quan hệ xã hội Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội

vật chất, từ là những quan hệ hình thành mà không thông qua ý thức con người.
Đó là những quan hệ sản xuất mà Mác coi là những quan hệ cơ bản, ban đầu và
quyết định tất cả mọi quan hệ khác. Bằng cách này chủ nghĩa duy vật cung cấp
cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hòan toàn khách quan để tư trong mạng lưới
phức tạp những hiện tượng xã hội thấy được tính lập lại và tính hợp qui luật. Do
đó có thể có thể đem những chế độ của các nước khác nhau khái quát lại thành
một khái niệm cơ bản di nhất là hình thái xã hội.
Với quan niệm đó Mác đã đánh đổ hẳn quan niệm cho rằng xã hội là một
tổ hợp có tính máy móc, có thể tùy ý biến đổi theo đủ mọi kiểu, mọi tổ hợp sinh
ra và biến hóa một cách ngẩu nhiên.
Như vậy học thuyết về hình thái kinh tế xã hội là một cơ sở phương pháp
luận của sự phân tích khoa học về xã hội, là nền tảng của khoa học xã hội.
Ngày nay thực tiển lịch sử và kiến thức về lịch sử của nhân loại có nhiều
bổ sung và phát triển mới, những cơ sở khoa học mà quan niệm về lịch sử đã
đem đến cho khoa học xã hội thì vẫn giữ nguyên giá trị.
Giá trị đó không thể bác bỏ của học thuyết hình thái kinh tế xã hội chẳng
những ở tính khoa học mà còn ở tính cách mạng. Khi phân tích qui luật vận
động của một hình thái nhất định, học thuyết này chỉ ra những mâu thuẩn bên
trong và chính sự vận động của những mâu thuẩn này cuối cùng dẫn đến sự

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 9

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác


chuyển hóa từ một hình thái này sang một hình thái khác, từ một trật tự xã hội
này sang một trật tự xã hội khác. Khi chứng minh tính tất yếu của trật tự hiện
thời ( trật tự của chế độ tư bản chủ nghĩa ). Mác cũng đã chứng minh tính tất yếu
của một trật tự cao hơn mà hình thái tư bản chủ nghĩa nhất thiết phải chuyển
sang.
Phép biện chứng Macxit vận dụng nhất quán vào nhận thức xã hội loài
người phải là như vậy. Mác viết “ Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang
tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao gồm những quan niệm về sự phủ
định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái
kinh tế xã hội đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động,
tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó, vì phép biện chứng đó…về thực chất
thì nó có tính phê phán và cách mạng”.
Giá trị khoa học của việc nghiên cứu lịch sử chính là ở chổ nó giải thích
rỏ nhửng quy luật đặc thù chi phối sự phát minh, tồn tại, phát triển và diệt vong
của một cơ thể xã hội nhất định và sự thay thế nó bằng cơ thể khác cao hơn. Vì
vậy, trong quan niệm duy vật về lịch sử, tính khoa học và tính cách mạng là
thống nhất.
Gần đây những thành tựu kì diệu của khoa học và công nghệ, lại trong
điều kiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước bị sụp đổ, phương hướng tuyệt
đối hóa cách tiếp nhận theo nền văn minh tăng lên nhầm hạ thấp, thậm chí loại
bỏ cách tiếp cận hình thái kinh tế xã hội. Họ cho rằng, lý luận hình thái đang mất
đi cả ý nghĩa nhận thức lẫn cơ sở bản thể bản thể luận. Vì thế, nó không thể áp
dụng vào bức tranh thế giới hiện đại. Đó là một kết luận không có cơ sở.
Họ cho rằng “Cách tiếp cận văn minh” đứng ở đỉnh cao hơn cách tiếp cận
hình thái. Vi nó xuất phát từ nền văn minh hậu công nghiệp, trong khi cách tiếp
cận hình thái chỉ dựa trên văn minh công nghiệp.
Nhận định này không đúng, vì bản thân phương pháp tiếp cận hình thái
của Mác không hề giới hạn mình chỉ trong phạm vi một nền văn minh nhất định
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên


Trang 10

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

và nó luôn đánh giá cao vai trò cách mạng của lực lượng sản xuất và công nghệ,
tức là vai trò của những trình độ văn minh vật chất.Họ cho rằng cách tiếp cận
hình thái chỉ nhấn mạnh yếu tố kinh tế trong khi đó “cách tiếp cận văn minh” coi
mọi yếu tố điều có tác động lớn đến sự phát triển xã hội .
Lập luận này là sự tương tác trắng trợn. Một là, cách tiếp cận hình thái
không bao giờ chỉ coi kinh tế là nhân tố duy nhất quết định . trái lại , thừa nhận
mọi yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng d6ều tác động qua lại lẫn nhau và tất
cả điều ảnh hưởng đến quá trình phát triển. hai là, dù là các yếu tố chính trị, tư
tưởng văn hóa có ảnh hưởng to lớn đến đâu chăng nữa thì những quan hệ kinh tế
xét đến cùng vẫn là quan hệ quyết định.
Thật ra, “cách tiếp cận văn minh” đã phạm sai lầm căn bản là chỉ coi trình
đọ phát triển khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định duy
nhất bỏ qua vau trò các quan hệ kinh tế, giai cấp, chế độ chính trị.
Họ cho rằng, cách tiếp cận hình thái xem xét thế giới theo cách nhìn
“lưỡng phân” chỉ dẩn dến nhữnng xung đột đối kháng !Cách tiếp cận văn minh
tránh được sai lầm đó, vì nó lấy sự thống nhất, hoà hợp làm nguyên lý cơ bản.
Lập luận này là sai, thế giớ hiện nay có lưỡng phân hay không, có xung
đột đối kháng hay không đó là thực tế lịch sử , đâu phải do cách xem xét tạo ra .
Ví dụ : Thế giới hiện nay có khoảng 30 nước phát triển, còn lại trên 100 nước
chậm phát triển thuộc thế giới thứ 3, thậm chí có khoảng nước rất nghèo khổ .

trong từng nước phát triển ( và cả trong từng nước đang phát triển ) cũng có sự
phân cự rất sâu sắc. giải quyết vấn đề này không thể chỉ bằng tiến bộ khoa học kỹ thuật, điểm mấu chốt vẫn là vấn đề chế độ xã hội nào, tức là vấn đề hình thái
kinh tế xã hội .
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội đòi hỏi phải phân tích sự phát
triển của các xã hội như một quá trình tổng hợp các nhân tố và các quy trình
tổng hợp các nhân tố và các quy luật khách quan. Còn cách tiếp nhận theo các
nền văn minh khác có khi chỉ là trình dộ của lực lượng sản suất hoặc công cụ lao
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 11

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

động có khi là những nét đặc thù về văn hoá, về cộng đòng chủng loại và dân tộc
, mà bỏ qua quan hệ sản xuất , kết cấu giai cấp – xã hội do đó bỏ qua tính chất
xã hội của nền văn minh đó.
Nếu chúng ta đúng vững trên cơ sở chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung và
học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội nói riêng, thì việc nghiên cứu các nền
văn minh được dặt trên một nền tảng khoa học vững chắc, tránh được những vũ
đoán chủ quan siêu hình.
Phương pháp tiếp cận các nền văn minh cũng có những giá trị nhất định.
Nhưng cuộc tiếp cận này thường không chú ý đến bản chất, nguồn gốc các động
lực của sự vận động và phát triển, bỏ qua vai trò của quan hệ sản xuất, mối quan
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các mối quan hệ giai
cấp và đấu tranh giai cấp…

Vì vậy, không thể đem phương pháp tiếp cận theo nền văn minh thay thế
học thuyết Mac cho hình thái kinh tế - xã hội.
Tóm lại học thuyết Mac về hình thái kinh tế - xã hội vẫn là quan niệm duy
nhất khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội.
II. SỰ VẬN DỤNG HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA.

II.1- Đặc điểm quá trình đổi mới ở nước ta.
* Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, Mac đã vận dụng
học thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát
triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo sự ra đời cuả hình thái kinh tế xã hội cao
hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa,mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội đã hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng 10
Nga, khi đó chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hoá tập
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 12

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

trung. Mô hình đó đã phát huy tích cực vai trò trong một giai đoạn lịch sử nhất
định. Nhũng đến cuối những năm 80 của thế kỉ XX đã rơi vào khủng hoảng
nghiêm trọng dẫn đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu xụp đổ.

Từ đó, có quan điểm khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận chủ
nghĩa xã hội.
Thực ra khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế
hoạch tập trung, chứ không phải bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là cao
hơn chủ nghĩa tư bản. Chính sự khủng hoảng đó giúp cho chúng ta nhận thức rõ
hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu như cách
mạng công nghiệp ở thế kỷ XVIII – XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa
tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa
xã hội.Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, Đảng ta
khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là qui
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách
mạng của Đảng, việc Đảng ta luôn luôn quyết định con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội là phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao
động làm chủ, chỉ một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hửu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng,
đoàn kết, giúp đở lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu chúng ta là: “xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
“ Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 13


SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, những tiếp thu, kế
thừa những thành tụ mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt là khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng
nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn phức tạp, cho nên phải trải qua một hình thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ. Trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái củ và
cái mới”.
Đối với nước ta, con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
tất yếu và có khả năng thực hiện.
* Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta “đảng và nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận đông theo cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, đó là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đền một trình độ nhất định, kết quả của
quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hửu, đồng
thời nó là dộng lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của đảng ta “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa có nhiều hình thức sở hửu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giử vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc”.

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 14

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp
với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng
định: “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu quản lý và phân phối”.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ một trình độ phát triển
kinh tế khá thấp thì chế độ tư hữu còn tồn tại khá lâu dài trong và sau khi thời kì
quá độ. Con đường cơ bản của sự phát triển quan hệ sản xuất ở nước ta trong
thời kì quá độ là con đường đan xen kết hợp giữa tư hữu và công hữu trong tất
các thành phần kinh tế quốc dân.

• Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
• Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất
nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là
một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với
hiện đại hoá. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta là nhằm xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng ta đã chỉ ra: “con đường
công nghiệp hoá, hiện dại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa
có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi ích của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được những trình độ công nghệ tiên tiến,
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 15

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày
càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những t hành tựu mới về
khoa học và công nghệ từng bước phát triển kinh tế trí thức – phát huy nguồn
lực trí thức và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá”.

Từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Đây cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại “nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới”. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
• Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của
đời sống xã hội.
• Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước, phải không ngùng đổi mới hệ thống chính trị nâng cao vai trò lãnh
đạo và sự chiến đấu của đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển mọi mặt của đời sống xã
hội, làm cho nhà nước thật sự là của dân, do dân và và dân. Đồng thời
nâng cao vai trò của quần chúng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời với phát triển
kinh tế phải phát triển văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân hướng tới xây dựng nền văn hoá Việt nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc đồng thời giải quyết tốt các vấn đề xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
• Do đặc điểm đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, nên trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 16

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn


Tiểu luận Triết-Mác

xã hội ở nước ta là quá trình tạo ra tất cả các mặt, đổi mới toàn diện do
chưa có tiền đề vật chất của chủ nghĩa xã hội, trình độ của lực lượng sản
xuất thấp, không đều.
• Trước hết: tập trung phát triển lực lượng sản xuất, tiến hành công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
• Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là quá trình tạo ra quan hệ sản xuất mới và cơ sở hạ tầng mới.
II.2- Xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đạt nhiều thành tựu.
* Thành tựu đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị .
Đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện và vững mạnh .
- Đời sống nhân dân được cải thiện rỏ rệt .
- Hệ thống chính trị - khối đại đoàn kết toàn dân tộc được cũng cố và tăng
cường.
- Hệ thống chính trị - xã hội luôn được ổn định .
- Quốc phòng và an ninh được giữ vững .
- Vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao .
- Sức mạnh tổng hợp quốc gia được nâng cao, tạo ra thế lực mới cho đất
nước tiếp tục đi lên xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn .
* Thành tựu và hạn chế trong quá trình đổi mới .
Về thành tựu:
Đại hội Đảng khóa X đã khẳng định: Những thành tựu đã chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng là đứng đắn và sáng tạo phù hợp với thực tiễn ở nước ta.

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên


Trang 17

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi theo chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội - xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày
càng vững mạnh và hoàn thiện, có nhiều tiến bộ .
- Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội vì mục tiêu:
- Dân giàu, nước mạnh công bằng, dân chủ văn minh .
- Là một xã hội do dân vì dân ,do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với nền kinh tế thế giới và khu vực .
- Có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc .

- Con người được giải phóng khỏi áp bức bất công ,có cuộc sống ấm
no tự do, hạnh phúc
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ .
- Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản .
Về hạn chế:
- Đại hội X đã khẳng định “cho đến nay, nước ta vẫn còn trong trình

trạng kém phát triển ’’:
- Kinh tế vẫn còn lạc hậu so với các trong khu vực và trên thế giới
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, hệ thống chính trị còn nhiều yếu kém.
- Lý luận chưa giải đáp được môt số vấn đề của thực tiễn, đổi mới và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt trong việc giải quyết các

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 18

SVTH: Huỳnh Văn Hưng


Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị …

PHẦN KẾT LUẬN


GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 19

SVTH: Huỳnh Văn Hưng



Bộ môn Ngữ Văn

Tiểu luận Triết-Mác

Hình thái kinh tế-xã hội là một khái niệm của Chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đọan lịch sử nhất định của lực lượng sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa
học. Trong điều kiện hiện nay, học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó
đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng
trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng
đắn cho hoạt động thực tiển. Học thuyết đó đã được Đảng ta vận dụng một
cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta. Vạch ra đường lối đúng
đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

GVHD: Ts Đinh Ngọc Quyên

Trang 20

SVTH: Huỳnh Văn Hưng



×