Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Kết cấu tiểu thuyết ngược dòng nước lũ của ma văn kháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGÔ THỊ TRANG

KẾT CẤU TIỂU THUYẾT NGƯỢC DÒNG NƯỚC LŨ
CỦA MA VĂN KHÁNG
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Tôn Thảo Miên

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Cho phép tôi bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả các tập thể, cá nhân đã
tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Tôn Thảo
Miên – người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới toàn thể quý thầy
cô trong Ban Giám hiệu trường ĐHSP Hà Nội II, Viện Văn Học, Khoa Ngữ
văn trường ĐHSP Hà Nội, Khoa Ngữ văn trường ĐHSP Hà Nội II cùng các
thầy cô giáo trong Phòng Sau Đại Học trường ĐHSP Hà Nội II đã giảng dạy
và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học này.


Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
quan tâm, động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời học tập và nghiên
cứu.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ và
góp ý của các thầy cô giáo.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Ngô Thị Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Ngô Thị Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 8
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................ 8
4.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn................................................................................. 8
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 9
NỘI DUNG .................................................................................................... 10
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾT CẤU TÁC PHẨM VĂN
HỌC VÀ TIỂU THUYẾT. VỊ TRÍ CỦA NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG. .. 10
1.1. Kết cấu tác phẩm văn học ....................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học .................................................... 10
1.1.2. Quan hệ kết cấu với các yếu tố nội dung của tác phẩm văn học ......... 14
1.1.2.1. Quan hệ kết cấu với chủ đề tư tưởng ................................................. 14
1.1.2.2. Quan hệ kết cấu với cốt truyện .......................................................... 15
1.1.2.3. Quan hệ kết cấu với hệ thống nhân vật .............................................. 15
1.2. Tiểu thuyết và kết cấu tiểu thuyết ............................................................ 16
1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 16
1.2.2. Kết cấu tiểu thuyết ................................................................................ 18
1.3. Vị trí của nhà văn Ma Văn Kháng trong bối cảnh văn học đổi mới ........ 21
1.3.1. Vài nét về tiểu sử Ma Văn kháng và hành trình sáng tạo văn học........ 21
1.3.2. Vị trí tiểu thuyết Ma Văn Kháng trong dòng chảy tiểu thuyết việt nam
đương đại......................................................................................................... 27


1.4. Vài nét về tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ ............................................. 31
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỢC
DÒNG NƯỚC LŨ .......................................................................................... 34
2.1. Các kiểu nhân vật ..................................................................................... 34

2.1.1. Nhân vật trí thức.................................................................................... 34
2.1.1.1. Nhân vật trí thức có tài, có tâm nhưng rơi vào bi kịch và sự thức tỉnh
ý thức cá nhân ................................................................................................. 36
2.1.1.2. Nhân vật trí thức bị tha hóa, băng hoại về nhân cách ........................ 44
2.1.2. Nhân vật phụ nữ .................................................................................... 47
2.1.2.1. Người phụ nữ mang vẻ đẹp thanh cao và khao khát tình yêu cuộc
sống mãnh liệt ................................................................................................. 48
2.1.2.2 . Người phụ nữ méo mó dị dạng và ham muốn vật chất bản năng ..... 54
2.1.3. Các loại nhân vật khác .......................................................................... 57
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 61
2.2.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lí ...................................................................... 61
2.2.2. Nghệ thuật thể hiện thế giới tâm linh nhân vật ..................................... 65
2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 69
2.2.3.1. Ngôn ngữ đối thoại............................................................................. 70
2.2.3.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm............................................................... 72
CHƯƠNG 3. TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỢC
DÒNG NƯỚC LŨ .......................................................................................... 76
3.1. Khái niệm cốt truyện ................................................................................ 76
3.2. Các kiểu cốt truyện................................................................................... 80
3.2.1. Cốt truyện lắp ghép ............................................................................... 81
3.2.2. Cốt truyện tâm lý................................................................................... 88
3.3. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ............................................................... 91
3.3.1. Chủ đề gia đình và truyền thống văn hóa ............................................. 92


3.3.2. Chủ đề đấu tranh, phanh phui những tiêu cực trong cuộc sống........... 95
KẾT LUẬN ................................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 104



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhắc đến các nhà văn Việt Nam đương đại chúng ta không thể không
nhắc đến Ma Văn Kháng - một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền
văn học Việt Nam đương đại. Ma Văn Kháng là một cây bút văn xuôi cần
mẫn và luôn say mê sáng tạo. Trong gần 50 năm cầm bút Ma Văn Kháng đã
sở hữu một gia tài khá đồ sộ và có gía trị lớn. Hơn 10 cuốn tiểu thuyết và
hàng trăm truyện ngắn, trong đó có nhiều tác phẩm đã được trao giải thưởng
từ quốc gia cho đến khu vực. Ma Văn Kháng cũng là một trong số các nhà
văn hiện đại sáng tác thành công ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết.
Qua từng tiểu thuyết, truyện ngắn Ma Văn Kháng không ngừng tìm kiếm
những cách thể hiện mới. Ông là nhà văn có duyên với tiểu thuyết và luôn cố
gắng đổi mới tư duy, tìm hướng đi trong sáng tạo nghệ thuật.
Toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sáng tác theo hai mảng đề tài
lớn với hai cảm hứng chủ đạo, đó là đề tài về dân tộc miền núi với cảm hứng
sử thi và đề tài thành thị với cảm hứng thế sự đời tư. Chính thời gian và kinh
nghiệm của mình đã giúp cho Ma Văn Kháng gặt hái được nhiều thành công
đáng kể. Truyện ngắn Xa Phủ đạt giải nhì ( không có nhất) trong cuộc thi
truyện ngắn của tuần báo văn nghệ 1967-1968, tập truyện ngắn Trăng soi sân
nhỏ- giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1995, giải cây bút vàng cho tryện
San cha chải trong cuộc thi truyện ngắn và kí 1996-1998, do Bộ công an và
Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, ngoài Mùa lá rụng trong vườn giải thưởng
Hội Nhà văn năm 1984, Ma Văn Kháng còn vinh dự nhận được giải thưởng
văn học Đông Nam Á (1998) và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật
(2001). Với những gì Ma Văn Kháng đạt được, nhà văn đã tự khẳng định vị
thế của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại.

1



Cùng với sự đổi mới của văn học dân tộc Ma Văn Kháng đã có sự vận
động chuyển mình rất rõ rệt trên nhiều phương diện : từ quan niệm về con
người đến đề tài, chủ đề, nghệ thuật biểu hiện, thể loại văn học... mà tiêu biểu
là thể loại tiểu thuyết. Giá trị của mỗi tác phẩm tiểu thuyết vẫn tiếp tục đươc
khẳng định trên nhiều phương diện: thể loại, kết cấu, quan niệm nghệ thuật về
con người, ngôn ngữ nghệ thuật... và khi nhắc tới tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng ta không thể không nhắc tới tác phẩm Ngược dòng nước lũ. Đây là tiểu
thuyết đã đánh dấu sự chín muồi của tài năng và đỉnh cao của bút lực sung
mãn của ông. Có thể nói với cuốn tiểu thuyết mới này Ma Văn Kháng đã
bước sang một chặng đường mới, chặng đường thứ ba của văn nghiệp trải dài
sau gần bốn thập niên cầm bút.
Tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ thực sự là một tác phẩm xuất sắc hội
tụ được những mặt mạnh, sở trường của tác giả, đồng thời mở ra những tiềm
năng tự sự mới của thể loại tiểu thuyết Việt Nam.
Các tác phẩm của Ma Văn Kháng đã gây được sự chú ý của giới phê
bình và là đề tài của nhiều luận văn cao học, luận án tiến sĩ. Tuy nhiên chưa
có công trình, luận văn nào đề cập đến kết cấu trong tiểu thuyết Ngược dòng
nước lũ của ông. Tìm hiểu tác phẩm là tìm hiểu sự cách tân trong nghệ thuật
tiểu thuyết và sự đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà. Đồng thời
qua đó thấy được quy luật vận động của văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói
riêng trong thời kì đổi mới.
Với những lý do trên đây chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề “ Kết
cấu tiểu thuyết trong Ngược dòng nước lũ của Ma Văn Kháng” để làm đề tài
nghiên cứu của mình. Việc nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề này sẽ giúp
chúng ta thấy được vị thế của các yếu tố nghệ thuật ( kết cấu, nhân vật, cốt
truyện) trong việc thể hiện tư tưởng của nhà văn. Từ đó khẳng định đóng góp
to lớn của Ma Văn Kháng về phương diện sáng tạo nghệ thuật tiểu thuyết thời


kì đổi mới, đồng thời đề tài cũng có thể góp một phần nhỏ vào kho tư liệu

tham khảo vốn rất phong phú về sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng.
2. Lịch sử vấn đề
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể
vào công cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975, các sáng tác của Ma Văn
Kháng không phải ngay từ đầu đã trở thành một hiện tượng đặc biệt như một
vài nhà văn của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Nhưng với niềm đam mê
văn chương và sự bền bỉ, chịu khó tìm tòi ông đã dần khẳng định được phong
cách của mình. Tác phẩm của ông đã dần thu hút được sự quan tâm của nhiều
tầng lớp độc giả trong và ngoài nước. Một số tác phẩm của ông đã được dịch
ra tiếng nước ngoài. Những đổi mới về nghệ thuật cũng như sự sâu sắc về nội
dung của các tác phẩm đã được đề cập đến ở nhiều bài viết, lời giới thiệu về
tác phẩm của ông. Trong đó có nhiều công trình nghiên cứu, phê bình của các
nhà văn nhà thơ và các nhà nghiên cứu như : Phong Lê, Lã Nguyên, Nguyễn
Ngọc Thiện, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu... đã được đăng tải trên các
sách báo tạp chí chuyên ngành.
Trong số các nhà nghiên cứu trên đáng chú ý có nhà nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Thiện, ông là một trong số nhà nghiên cứu luôn dành nhiều tâm
huyết nhất cho sáng tác của Ma Văn Kháng. Trong lời giới thiệu “ Tiểu thuyết
về đề tài dân tộc- niềm núi của Ma Văn Kháng”, Nguyễn Ngọc Thiện đã nhận
xét chung về ba tiểu thuyết này như sau “ Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên
ải, Gặp gỡ ở La pan tẩn” đặt nối tiếp nhau thành một chùm tiểu thuyết độc
đáo, làm sáng lên bức tranh lịch sử xã hội, hào hùng bi thương của một vùng
miền núi phía bắc chống Pháp đến thời kì đầu xây dựng trong hòa bình và
chống Mĩ cứu nước” [36, tr142]. Hay trong bài “Về một vài biểu hiện đặc
điểm dân tộc qua một số tiểu thuyết miền núi”, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
đánh giá tiểu thuyết của Ma Văn Kháng: “ nếu xét tính cách nhân vật như một


đặc điểm quan trọng tạo máu thịt cho tác phẩm thì ở tiểu thuyết miền núi, yêu
cầu ngày càng phải được chi tiết hóa một cách nghiêm ngặt” [32, tr135]. Với

đề tài này Ma Văn Kháng đã có những bước tiến dài về tư duy tiểu thuyết
Ma Văn Kháng không chỉ là nhà văn của “ Vùng biên ải” tài năng của
ông thực sự nở rộ khi một loạt tiểu thuyết về đề tài đô thị xuất hiện : Mưa
mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá
thú( 1989)... một loạt tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ra đời đã làm sôi động
không khí văn học đương thời. Với những tác phẩm này tác giả đã cho bạn
đọc thấy rằng ông không chỉ là nhà văn của vùng cao mà ông cũng đã tạo ra
một sắc thái mới cho mảnh đất phồn hoa đô hội này. Cũng chính những điều
ấy mà nhân vật trong các tác phẩm của ông trở nên phong phú đa dạng và
phức tạp hơn. Ma Văn Kháng “ có những thể nghiệm và khả năng khám phá
con người ở nhiều chiều nhiều bình diện xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về
con người”[31, tr51]. Ông cho rằng phải có một cái nhìn mềm dẻo linh hoạt
uyển chuyển hơn về con người.
Ở các tiểu thuyết viết về đô thị thì tiểu thuyết Mưa mùa hạ đã nhận
được khá nhiều ưu ái. Nguyễn Thái Vận trong bài đọc Mưa mùa hạ của Ma
Văn Kháng đăng trên báo Lao động, số 37-1982 cho rằng: “ Mưa mùa hạ
không chỉ cuốn hút người đọc ở cốt truyện hấp dẫn, ở những tính cách nhân
vật sắc nét, hay ở những trang miêu tả kì thú, những nhận xét triết lý sâu sắc
và đúng chỗ, mà trước hết tác phẩm đã gợi được một vấn đề bức thiết của
ngày hôm nay.... tuy còn hạn chế về tầm vóc lý tưởng của nhân vật so với
chủ đề có tính chất hùng tráng. Mưa mùa hạ là một năng lực nắm bắt thực tế
dồi dào”[45, tr162]. Hay như Trần Đăng Xuyền cũng đã nhận xét, trong bài
viết “Một cách nhìn cuộc sống hiện nay”, đăng trên báo văn nghệ, số 151979: “ giá trị của Mưa mùa hạ không chỉ là chỗ mạnh dạn lên án cái tiêu cực


mà chủ yếu là xây dựng cách nhìn, thái độ đúng đắn trước những cái xấu
những cái ngáng trở bước đi lên chủ nghĩa xã hội”[48, tr78].
Tiếp theo đó tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn cũng là một trong
những tiểu thuyết được đánh giá cao về giá trị tư tưởng của tác phẩm. Trần
Đăng Xuyền cho rằng, Mùa lá rụng trong vườn chủ yếu miêu tả sự biển đổi

của gia đình trong thời kì quá độ hiện nay [49, tr60]. Ông cũng đánh giá cao
lòng nhân ái thái độ bao dung của tác giả. Viết Mùa lá rụng trong vườn Ma
Văn Kháng đã rọi vào tác phẩm một luồng ánh sáng nhân đạo khi đánh giá
con người trong thời kì khó khăn, phức tạp hiện nay. Nhà văn cảm thông với
những lo toan vất vả của người phụ nữ, đồng thời có tình, có lý khi phân tích
những thiếu sót sai lầm của họ. Nguyễn Văn Lưu khẳng định “ Mùa lá rụng
trong vườn” đem lại một nhận thức mới cấp bách. Nó đi được vào dòng chính
của đời sống, của sự sáng tạo văn học” [15, tr135]. Đây là cuốn tiểu thuyết đã
đạt đến độ hoàn chỉnh bởi cuốn tiểu thuyết này vượt lên với cách nhìn đời
nhìn người lịch lãm, không duy lý mà hợp tình, lẽ phải, với nghệ thuật xây
dựng tinh túy điêu luyện.
Từ các tiểu thuyết ấy Ma Văn Kháng đã trở thành một trong những nhà
văn đương đại được chú ý nhiều nhất ở mảng tiểu thuyết. Nhưng cho đến năm
1999 thì Ma Văn kháng đã làm dấy lên làn sóng dư luận và được nhiều quan
tâm khi cuốn tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ ra đời. Đây là một tác phẩm
xuất sắc hội tụ được những mặt mạnh, sở trường của tác giả. Đồng thời nó mở
ra những tiềm năng tự sự mới của thể loại tiểu thuyết Việt Nam những năm
cuối thế kỉ này. Theo Lã Duy Lan Ngược dòng nước lũ là một cuộc khám phá
mới đầy tiềm năng vào nguồn văn, vào dòng đời cuộn chảy. Ma Văn Kháng
đã thể hiện trong Ngược dòng nước lũ mọi tầng bậc mới đó là nỗi đau, sự
chua chát và nhức nhối của tầng lớp kẻ sĩ”. Còn Hồ Anh Thái lại cho rằng, nó
là “những điển tích được gài cắm cẩn thận, khi được huy động đã truyền tải


được những gửi gắm của tác giả từ trong chiều sâu suy tư ra bên ngoài, trong
một khoảng không gian mở rộng nhiều chiều kích. Nếu không có dụng công
tài hoa ấy, cuốn sách ấy chắc sẽ khó đọc với những tranh giành đấu đá đầy
tính công thức” [41,tr12].
Ngoài ra, nhà văn Mỹ Wayne Karlin khi viết lời giới thiệu cho bản dịch
Ngược dòng nước lũ sang tiếng Anh đã khẳng định “ở mức độ, tác phẩm phù

hợp với loại phê phán sắc sảo xuất hiện từ khi có chính sách đổi mới vào
những năm 1980... Nhưng hơn cả sự châm biếm xã hội, ở những điểm hay
nhất, nó đặt ra một trong những vấn đề cơ bản mà tiểu thuyết hiện đại phải đặt
ra: Đâu là cách tốt nhất để sống giữa dòng nước xiết này khi mà tất cả chúng
ta đang lênh đênh không tay lái?”.Đồng thời, Wayne Karlin cho rằng “trong
khi xây dựng chân dung Khiêm như một con người có động cơ trong sáng,
một con người nhất quán,thành công thực sự của Ma Văn Kháng ở “Ngược
dòng nước lũ” được thể hiện trong việc sáng tạo ra nhân vật Hoan... Hoan đạt
tới tầm phức tạp hiếm có trong số nhân vật nữ mà văn học Việt Nam miêu tả.”
Cũng in trong cuốn tiểu thuyết này, xuất bản ở Mỹ, W.D.Ehrhart đưa ra nhận
xét “ Ngược dòng nước lũ” của Ma Văn Kháng là cánh cửa mở làm say mê
ngây ngất từ Việt Nam 25 năm sau chiến tranh” [ 47,tr 301]
Tác phẩm Ngược dòng nước lũ đã đạt đến trình độ điêu luyện trong
ngôn ngữ kể và tả, đối thoại và độc thoại.
Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã ánh lên những sắc thái thẩm mĩ khác
nhau cái lý tưởng, cái cao cả đi bên cạnh cái đê tiện, thấp hèn, cái bi tráng, trữ
tình, thăng hoa, ngẫu hứng đan xen với cái hài hước , thô kệch, dung tục sắp
đặt lộ liễu.Giọng điệu và mạch văn cũng được biến hóa, linh hoạt khi gấp
gáp, sôi nổi, cuộn cuộn, tung phá, lúc lại thong thả, đằm thắm, mềm mại, hiền
hòa.


Nhìn chung các công trình, bài viết đã đánh giá các tác phẩm văn
chương của Ma Văn Kháng trên nhiều góc độ: đề tài, chủ đề, nội dung và
cách phản ánh hiện thực, cách xây dựng nhân vật, kết cấu. Các tác phẩm của
ông đã có ý nghĩa lớn lao đối với cuộc sống và con người…
Ngoài những bài viết đề cập đến từng tiểu thuyết riêng lẻ, chúng tôi
cũng đã khảo sát những bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu những vấn đề
nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết Ma Văn Kháng. Trong luận văn thạc sĩ
“Cảm hứng nghệ thuật gắn với nhân vật trong tiểu thuyết về đề tài dân tộcmiền núi của Ma Văn Kháng”, tác giả Dương Thị Thanh Hương phân tích

đánh giá những thành công của Ma Văn Kháng ở mảng đề tài miền núi. Lê
Văn Chính nghiên cứu sâu mảng tiểu thuyết đô thị với đề tài “Đặc điểm tiểu
thuyết viết về đề tài thành thị của Ma Văn Kháng”, hay tác giả Bùi Thanh
Hương với đề tài “Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng” và nghiên cứu vấn đề cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết viết về cuộc
sống ở thành thị trong thời hậu chiến…
Ở mỗi bài viết, ở mỗi tác giả đều có những cách đánh giá khác nhau.
Song trên thực tế các tác giả khi nghiên cứu về tác phẩm của Ma Văn Kháng
đều xuất phát từ cái nhìn biện chứng, từ bản chất văn học để làm nổi bật lên
ngòi bút của Ma Văn Kháng.
Như vậy các công trình nghiên cứu sáng tác của nhà văn Ma Văn
Kháng đều tập trung khai thác các phương diện từ nghệ thuật đến nội dung
của truyện ngắn Ma Văn Kháng . Riêng về lĩnh vực tiểu thuyết thì trọng tâm
khai thác ở một số khía cạnh nào đó như nghệ thuật xây dựng nhân vật, không
gian thời gian trong tiểu thuyết của ông… hay chỉ là đánh giá, khái quát
chung về tài năng nghệ thuật của Ma Văn Kháng.Trong phạm vi nhất định
luận văn chỉ đi sâu khai thác về Kết cấu tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ của
Ma Văn Kháng.


3. Mục đích nghiên cứu
Qua việc triển khai nghiên cứu đề tài Kết cấu tiểu thuyết Ngược dòng
nước lũ chúng tôi muốn tập trung làm rõ những phương diện cơ bản trong
nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ma Văn Kháng để từ đó thấy được sự đổi mới
của nhà văn cũng như đóng góp của ông vào tiến trình lịch sử văn học Việt
Nam sau năm 1975.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu thể hiện qua các phương diện tổ
chức cốt truyện và tổ chức nhân vật.

4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Ma Văn Kháng sáng tác ở cả hai lĩnh vực tiểu thuyết và truyện ngắn, ở
lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành công nhất định. Ông đã công bố
cuốn tiểu thuyết “Ngược dòng nước lũ” vào tháng 1 năm 1999 với số lượng
bản in là 1050 cuốn. Trong khuôn khổ của một luận văn Thạc sĩ chúng tôi chỉ
giới hạn phạm vi nghiên cứu trong tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ trên
phương diện kết cấu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản sau:
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp phân tích- tổng hợp.
Phương pháp hệ thống.
Tiếp cận thi pháp học
6. Đóng góp của luận văn
Khảo sát và phân tích các phương diện nghệ thuật kết cấu trong tiểu
thuyết “ Ngược dòng nước lũ” của Ma Văn Kháng, luận văn muốn đi sâu tìm
hiểu cách viết của ông, qua đó khẳng định tài năng và đóng góp của ông trong


nghệ thuật viết tiểu thuyết, đồng thời thấy được những cách tân đổi mới trên
phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết trong tiến trình phát triển của nền văn
học Việt Nam hiện đại. Đây cũng là cách tìm hiểu quy luật vận động văn xuôi
nước ta trong vài thập niên cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần: Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo luận văn được triển
khai qua ba chương.
Chương 1: Những vấn đề chung về kết cấu tiểu thuyết và vị trí của nhà văn
Ma Văn kháng.
Chương 2: Tổ chức nhân vật trong tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ.
Chương 3: Tổ chức cốt truyện trong tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ.



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾT CẤU TÁC PHẨM VĂN HỌC VÀ
TIỂU THUYẾT. VỊ TRÍ CỦA NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG.
1.1. Kết cấu tác phẩm văn học
1.1.1. Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những
chỉnh thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận...Tất cả những yếu tố, bộ
phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó
nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định, gọi là kết cấu. Hay nói
cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác
phẩm văn học. Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm, do đó bất cứ một
thể loại nào, một tác phấm nào cũng có một kết cấu riêng. Kết cấu ra đời cùng
một lúc với ý đồ nghệ thuật của tác phẩm, cụ thể hóa cùng với sự phát triển
của hình tượng. Kết cấu chính là một phương diện cơ bản của sáng tác nghệ
thuật nên tác phẩm được ví như một công trình kiến trúc mà nhà văn là người
nhào nặn vốn sống để xây dựng lên những bức tranh đời sống giàu tính khái
quát. Trên một mức độ lớn có thể nói, sáng tác tức là kết cấu. Kết cấu tác
phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm.
Kết cấu tác phẩm văn học luôn thể hiện quá trình vật lộn của nhà văn với tài
liệu sống để biểu hiện một chân lí khái quát. Nó cũng phản ánh quá trình tư
duy của nhà văn, quá trình vận động của tư duy ấy. Như vậy kết cấu có mối
quan hệ chặt chẽ với nội dung tư tưởng của tác phẩm, đồng thời thể hiện tài
năng phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Vậy kết cấu là gì? Kết cấu là cách tổ chức, sắp xếp liên kết các nhân
vật, sự kiện, các cảm xúc, các yếu tố trong tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ



thuật thống nhất theo ý đồ nghệ thuật và đặc trưng nghệ thuật nhằm làm cho
tác phẩm đạt giá trị nghệ thuật cao nhất.
Do vậy khi nói đến kết cấu chúng ta thấy có rất nhiều định nghĩa.
Theo IU.M. Lotman kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ thường được hiểu
là “ tổ chức ngữ đoạn của các yếu tố cốt truyện” [8].
Hà Minh Đức trong Lý luận văn học lại cho rằng “ Kết cấu là sự tạo
thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức sắp
xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời
sống khách quan và theo một chiều hướng nhất định.” [5]
Theo Từ điển văn học các nhà nghiên cứu lý luận cũng thống nhất kết
cấu là “ toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm” [ 6,156], “ ngoài
bố cục kết cấu còn bao gồm: tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và
không gian nghệ thuật của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể
của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt
truyện…sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật”
[6,157].
Còn Lại Nguyên Ân thì lại cho rằng “ kết cấu bao gồm việc phân bố
các nhân vật ( tức là hệ thống hình tượng), các sự kiện và hành động ( kết cấu
cốt truyện), các phương thức trần thuật, chi tiết hóa khung cảnh hành vi cảm
xúc ( kết cấu chi tiết), các thủ pháp văn phong ( kết cấu ngôn từ), các truyện
xen kẽ hoặc trữ tình ngoại đề” [2,92]
Kết cấu là một hiện tượng chức năng nên có thể nghiên cứu nó trong
mối tương quan với nội dung. Nhưng kết cấu tác phẩm trong phần sâu sắc
nhất của nó không phải là sự liên kết theo những công thức, biện pháp có sẵn
mà liên kết theo sự phát hiện đời sống và suy nghĩ của nhà văn tạo thành một
hệ thống liên kết tạo ra hiệu quả tư tưởng thẩm mĩ. Mọi phương diện tổ chức
tác phẩm, từ nhỏ nhất như câu, đoạn, ẩn dụ, cho đến tổ chức trần thuật, hệ


thống hình tượng, cốt truyện, thể loại… đều thuộc phạm vi kết cấu. Chúng kết

hợp với nhau để tạo ra tính hình tượng và chiều sâu nội dung của tác phẩm.
Qua đó ta có thể nhận thấy rằng mặc dù có rất nhiều cách lí giải khác
nhau nhưng tất cả các tác giả đều đạt được sự thống nhất trong việc xem kết
cấu là toàn bộ tổ chức sinh động của tác phẩm, là phương tiện khái quát hiện
thực, ra đời cùng với ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Hiểu một cách khái quát
nhất bản chất của kết cấu chính là mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố hình
tượng và trần thuật sinh ra từ sự tổ chức.
Như vậy khi ta đánh giá kết cấu của một tác phẩm, việc đầu tiên không
phải là so sánh với kết cấu tác phẩm khác, cũng không phải là đánh giá nó
theo những tiêu chuẩn chung chung mà chúng ta phải xét nó trong yêu cầu thể
hiện nội dung của tác phẩm, xét đến hiệu quả thẩm mĩ mà tác phẩm để lại
trong lòng người đọc. Và tài năng nghệ thuật của nhà văn thực sự được khẳng
định thông qua việc tổ chức kết cấu đó. Kết cấu chính là phạm trù hình thức
của tác phẩm văn học. Nó bao gồm tất cả các yếu tố hình thức và sắp đặt,
phân bố, tổ chức các yếu tố đó thành một chỉnh thể thống nhất. Kết cấu tác
phẩm văn chương là sự kết hợp bên ngoài liên tục của câu chữ và một loạt
thành tố bên trong câu chữ như: cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian,
điểm nhìn trần thuật, ngôn từ, giọng điệu, quan niệm nghệ thuật của nhà văn
về cuộc đời và con người… Kết cấu của một tác phẩm văn học tồn tại ở hai
cấp độ cơ bản.
Cấp độ hình tượng.
Là cấp độ gắn liền với toàn bộ tổ chức của thế giới nghệ thuật bao gồm
hệ thống các nhân vật, hệ thống các sự kiện, tình tiết và trình tự xuất hiện của
chúng, tương quan các chi tiết tạo hình, biểu hiện tạo nên bức tranh sinh động
về cuộc sống, các tương quan về không gian và thời gian. Đây chính là cấp độ
kết cấu bề sâu, gắn liền với các ý đồ nghệ thuật và các tính cách được phản


ánh. Người nghệ sĩ tái hiện lại đời sống không phải là sự sao chép nguyên si
mà là có chọn lọc, sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của mình nhằm đạt

được mục đích để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc và tài năng, phong
cách của nhà văn thể hiện ở chỗ sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật điển
hình.
Cấp độ trần thuật.
Trần thuật là quá trình trình bày liên tục bằng lời văn về các chi tiết,
tình tiết, sự kiện, trần thuật nhằm truyền đạt thông tin tới người nghe thực
trạng và diễn biến của hình tượng. Trần thuật gắn liền với bố cục: Sắp xếp tổ
chức sự tượng quan trắc giữa các yếu tố khác nhau của hình tượng với các
thành phần khác nhau của văn bản. Các thành phần trần thuật lại ứng với các
thành phần cốt truyện. Các thành phần cốt truyện có tính năng động, phát
triển, các thành phần trần thuật ngoài tính chất động ra còn có tính chất tĩnh.
Trong kết cấu trần thuật cần chú ý nhịp điệu trần thuật sao cho linh hoạt và
mềm dẻo. Kết cấu trần thuật còn phải tạo ra những điểm nhìn trần thuật và
nhà văn có thể trần thuật theo quan điểm của mình hay theo quan điểm của
một trong số các nhân vật. Việc phối hợp đa dạng các loại điểm nhìn làm cho
sự kiện được soi sáng từ nhiều phía, từ nhiều góc độ khiến cho sự đánh giá
thập định về đối tượng được khách quan và đa dạng hơn.
Nghệ thuật kết cấu thường không phải là những kiểu cách tổ chức nghệ
thuật có sẵn có ý thức bất biến. Thực tiễn kết cấu phong phú, đa dạng hơn
nhiều so với những khái quát lí luận ở đây. Tài năng và phong cách của mỗi
nghệ sĩ sẽ góp phần làm giàu thêm cho kinh nghiệm sáng tác nghệ thuật ở
bình diện kết cấu tác phẩm.
Có thể thấy rằng kết cấu tác phẩm rất đa dạng. Vì thế khi nghiên cứu
phân tích phải kết hợp với đặc điểm kết cấu thể loại và phong cách nhà văn,
nhất là phải xem xét cho chức năng biểu hiện nội dung của tác phẩm. Chỉ có


như vậy mới phát hiện được nội dung sâu sắc của tác phẩm và nắm bắt được
những kết cấu có giá trị.
1.1.2. Quan hệ kết cấu với các yếu tố nội dung của tác phẩm văn học

1.1.2.1. Quan hệ kết cấu với chủ đề tư tưởng
Khi nói đến quan hệ kết cấu với chủ đề tư tưởng thì ta thấy chủ đề, tư
tưởng bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo và chi phối kết cấu. Chủ đề là vấn đề
cơ bản của tác phẩm và thể hiện bản sắc tư duy, chiều sâu tư tưởng, khả năng
thâm nhập vào bản chất của đời sống nhà văn. Chủ đề còn đóng vai trò quan
trọng trong việc làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng.
Thông qua ý thức của nhà văn, chủ đề sẽ quy định hình thức kết cấu của tác
phẩm. Song trên thực tế kết cấu cũng có tính độc lập tương đối, nếu kết cấu
thay đổi thì chủ đề - tư tưởng cũng chịu ảnh hưởng nhất định. Nhiệm vụ quan
trọng nhất của kết cấu chính là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập
trung, tư tưởng thống nhất làm cho chủ đề, tư tưởng thấm sâu vào từng bộ
phận của tác phẩm kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Đối với các nhà văn việc
sáng tác ra những tác phẩm vượt ra khỏi ý định ban đầu nhưng không mâu
thuẫn với sự đột phá về cấu trúc thể hiện được tài năng phong cách của nhà
văn và đó cũng là điều độc giả mong đợi. Trong một tác phẩm văn học, không
phải chủ đề tư tưởng có sẵn rồi nhà văn mới tạo ra kết cấu mà là kết cấu xuất
hiện cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Mối quan tâm lớn nhất
của nhà văn là làm sao sắp xếp tài liệu để cho chủ đề nổi bật lên, gây được ấn
tượng mạnh. Kết cấu tác phẩm thể hiện quá trình vật lộn của nhà văn với tài
liệu sống để biểu hiện một chân lý khái quát. Nó cũng phản ánh quá trình tư
duy của nhà văn, quá trình vận động của tư duy ấy. Tư tưởng sống động của
nhà văn bao giờ cũng biểu hiện trong kết cấu và qua kết cấu. Do vậy có thể
thấy giữa chủ đề tư tưởng và kết cấu có mối quan hệ biện chứng qua lại và bổ
sung cho nhau để tạo nên một tác phẩm có giá trị.


1.1.2.2. Quan hệ kết cấu với cốt truyện
Khi nói đến mối quan hệ giữa kết cấu với cốt truyện chúng ta nhận thấy
đây là mối quan hệ rất quan trọng bởi vì cốt truyện là một hệ thống cụ thể
những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể

hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất
định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của các tác phẩm. Như vậy trong quan hệ
với cốt truyện, nhiệm vụ chủ yếu của kết cấu là tổ chức bố cục cốt truyện
thành các phần, chương, đoạn, … một cách hợp lí, triển khai, trình bày hấp
dẫn cốt truyện. Đồng thời kết cấu còn bố trí, sắp xếp các chi tiết, các sự kiện
thành những bộ phận hữu cơ của một quá trình phát triển biện chứng và cái
đích của quá trình đó vẫn là bộc lộ đặc điểm tính cách và khẳng định chủ đề
tư tưởng của tác phẩm. Ngoài ra, kết cấu còn bố trí, sắp xếp sự xuất hiện một
cách hợp lí các yếu tố ngoài cốt truyện như: những đoạn phụ đề, những đoạn
trữ tình ngoại đề, lời nói đầu và lời nói cuối của tác giả… Trong mối quan hệ
này thì cốt truyện được xem như là cốt lõi của tác phẩm còn kết cấu là phần
vỏ bọc bao quát toàn bộ tác phẩm trong đó có cốt truyện.
1.1.2.3. Quan hệ kết cấu với hệ thống nhân vật
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người
luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức
tranh thiên nhiên… đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác
phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây
dựng nhân vật. Vì vậy, bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng đều có hệ
thống nhân vật. Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết
thảy trong sáng tác. Nhân vật khi là con người cụ thể nhưng cũng có khi được
xuất hiện như một ẩn dụ không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một
hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức nhân


vật trong các quan hệ cụ thể của chúng trong tác phẩm, gắn với tất cả chiều
sâu chiều rộng của tác phẩm. Do vậy quan hệ giữa kết cấu và nhân vật là quan
hệ nội dung và hình thức và cũng liên quan đến chủ đề tư tưởng. Kết cấu đóng
vai trò quan trọng trong việc thực hiện thống nhất chặt chẽ giữa chủ đề tư
tưởng với hệ thống tính cách của nhân vật. Kết cấu chính là nền tảng tổ chức
cho sự phát triển tính cách của nhân vật một cách nhất quán dưới ánh sáng

của chủ đề tư tưởng. Như vậy khi nghiên cứu một tác phẩm văn học cần chú ý
đến mối quan hệ giữa kết cấu và nhân vật và kết hợp chúng trong một chỉnh
thể nghệ thuật để thấy hết được nội dung tư tưởng thẩm mỹ của tác phẩm.
1.2. Tiểu thuyết và kết cấu tiểu thuyết
1.2.1. Khái niệm
Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật,
hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề
của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện
bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định. Khi nói đến khái niệm
tiểu thuyết thì có rất nhiều tranh cãi phức tạp không dễ tìm được sự thống
nhất trong cách hiểu. Đi tìm một định nghĩa đầy đủ về tiểu thuyết có thể ứng
cho mọi trường hợp trong thực thế văn học là điều khó có thể làm được. Nói
như M.Bakhtin: “ Tiểu thuyết là loại văn chương duy nhất đang biến chuyển
và còn chưa định hình. Những lực cấu thành thể loại đang còn hoạt động
trước mặt chúng ta, thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng
thanh thiên bạch nhật của lịch sự. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề
rắn lại và chúng ta chưa hề dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển
của nó” [18].
Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại quan niệm rằng: “Tiểu
thuyết là gì? Thật khó mà trả lời ngay trong một định nghĩa ngắn gọn chính


xác so với các thể loại khác như sử thi cổ đại, bi kịch…thì tiểu thuyết là một
thể loại hãy còn non trẻ và đang phát triển.” [4]
Các định nghĩa về tiểu thuyết trong lý luận văn học, 150 thuật ngữ văn
học… cũng có cách hiểu tương tự. Điểm gặp gỡ nhau giữa các khái niệm đó
là: Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự có dung lượng tương đối dài, dựa trên một
câu chuyện có thực. Tiểu thuyết có khả năng phản ánh hiện thực lớn, có thể
bao quát nhiều số phận, nhiều tính cách trong những không gian và thời gian
không hạn chế, có thể miêu tả những bức tranh xã hội, phong tục tập quán…

Tiểu thuyết theo quan niệm truyền thống thường có một hoặc nhiều nhân vật,
có kết cấu, tình tiết phù hợp với nội dung câu truyện…Do vậy, tiểu thuyết
chính là cái nhìn cuộc sống dưới góc độ đời tư, tiểu thuyết còn có chất văn
xuôi và nó mô tả cuộc sống như một thực tại cùng thời đang sinh thành, hấp
thụ vào nó mọi yếu tố ngổn ngang bộn bề của cuộc đời, bao gồm cái cao cả
lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ.
Cho nên nhân vật trong tiểu thuyết thường là con người nếm trải. Tiểu thuyết
còn xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật. Cũng vì
thế, mà tiểu thuyết nhìn sự vật từ nhiều chiều, sử dụng nhiều giọng nói và tạo
nên sự đối thoại giữa các giọng khác nhau. Bởi vậy, tiểu thuyết chính là thể
loại có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các loại
hình văn học khác.
Như vậy tiểu thuyết là loại hình tiêu biểu, căn bản của văn xuôi ở mỗi
thời kì văn học. So với các thể loại khác, truyện ngắn chỉ thỏa mãn con người
bởi những câu chuyện được hạn định bằng vấn đề và số lượng nhân vật. Kịch
đem lại cho con người thưởng thức những thời khắc đầy xung đột căng thẳng
còn tiểu thuyết đem đến một bức tranh tổng thể về cuộc sống có khả năng lôi
cuốn và dẫn độc giả đi từ khởi đầu đến kết thúc, chứa đựng mọi băn khoăn, tò


mò.Do đó tiểu thuyết có vị trí đặc biệt trong loại hình văn xuôi tự sự và là thể
loại làm nên thành công trong sự nghiệp văn chương của nhiều nhà văn.
1.2.2. Kết cấu tiểu thuyết
Ngay từ khi vừa ra đời, tiểu thuyết đã thể hiện phẩm chất tiên phong
trong tiến trình phát triển của toàn bộ văn học thời đại mới với tư cách là thể
loại văn chương “duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình”. Tất cả
những điều đó đòi hỏi tiểu thuyết phải có một hình thức – Kết cấu năng động,
vượt ra mọi gò bó về giới hạn và khuôn mẫu. Không có một kiểu kết cấu
chuẩn hay cố định nào cho mọi tiểu thuyết bởi mỗi kiểu kết cấu chỉ có ý nghĩa
khi phục vụ cho việc biểu hiện một nội dung nhất định, từ đó thể hiện năng

lực sáng tạo của nhà văn.
Kết cấu tiểu thuyết cơ bản là sự tổ chức chặt chẽ các thành phần trần
thuật ứng với thành phần cốt truyện bao hàm các sự kiện, biến cố, những lời
bình phẩm, những đoạn trữ tình ngoại đề, những triết lí nhân sinh sao cho
tương ứng với hành động của nhân vật, biến cố của truyện và vẫn vang lên
tiếng nói của chủ đề tư tưởng.
Ở phương diện kết cấu, hệ thống hình tượng nhân vật bao gồm một
phạm vi rất lớn, gắn với tất cả chiều sâu, chiều rộng của nội dung tác phẩm.
Nhân vật là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Tiểu
thuyết ngoài khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội còn có
khả năng đi sâu khám phá số phận con người. Trong tiểu thuyết truyền thống
nói đến kết cấu hình tượng là nói đến sự tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể
của tác phẩm. Hệ thống nhân vật là sự tổ hợp nhân vật làm sao cho chúng
phản ánh nhau, tác động nhau, soi sáng nhau để cùng phản ánh đời sống. Kết
cấu đã gắn kết, sắp xếp các mối quan hệ của nhân vật để làm nổi bật chủ đề,
tư tưởng của tác phẩm. Trong tiểu thuyết hiện đại khi cá nhân không còn giữ
được sức mạnh tuyệt đỉnh thì tiểu thuyết không dung nạp loại nhân vật có tính


cách hoặc như người ta gọi là “phản nhân vật”. Trong tác phẩm của họ thay vì
nhân vật là “đồ vật” hoặc chỉ còn là duy nhất dòng chảy của ngôn từ “ nhân
vật chỉ còn là đại từ mơ hồ”, thì trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại con
người với tất cả các mối quan hệ, ứng xử, thân phận và cuộc đời của nó là đối
tượng và cũng là đặc trưng cơ bản của thể loại.
Khi nói đến kết cấu tiểu thuyết một điều đặc biệt nữa mà ta không thể
không nói tới đó là ngôn ngữ, cốt truyện và không gian, thời gian… Đây là
những phương diện kết cấu cơ bản để tạo nên thành công của một tác phẩm
nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng
của văn học, ngôn ngữ tiểu thuyết mang tính đặc trưng của thể loại : tính văn

xuôi, tính tổng hợp, tính đa thanh. So với ngôn ngữ thi ca ngôn ngữ tiểu
thuyết có phạm vi tự do và linh hoạt hơn, ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết
có thể dung nạp các dạng thức lời nói khác nhau của nhiều tầng lớp người
trong xã hội. Rõ ràng kết cấu ngôn từ của tiểu thuyết đã có những bước
chuyển mạnh mẽ, nó bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà gần gũi
với đời thường… Miêu tả cuộc đời và con người như nó vốn có, ngôn ngữ
tiểu thuyết không chỉ được soi sáng bởi ngôn ngữ tác giả mà còn được soi
sáng bởi ngôn ngữ nhân vật. Bên cạnh tính đối thoại nội tại, độc thoại nội tâm
cũng đóng vai trò chủ yếu trong phương thức trần thuật của tiểu thuyết, cùng
với đó tiểu thuyết đã vận dụng thủ pháp dòng ý thức như một phương tiện đi
vào thế giới tâm linh một cách có hiệu quả.
Cốt truyện của tiểu thuyết là sợi dây liên kết các mối quan hệ của nhân
vật, tổ chức, sắp xếp các sự kiện, diễn ra trong đó bộc lộ chủ đề, tư tưởng của
tác phẩm. Hình thức tổ chức sự kiện cơ bản nhất của văn học là liên kết các sự
kiện lại thành truyện. Kết cấu cốt truyện của tiểu thuyết hiện đại đã có những


×