Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

hoạt động chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và đề xuất giải pháp vượt rào cản chống bán phá giá ở nước nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.77 KB, 44 trang )

Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

MỤC LỤC
3.Đề xuất giải pháp để vượt rào cản chống bán phá ở nước nhập khẩu................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................................43

Page 1


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

1.Bán phá giá và chống bán phá giá trong thương mại quốc tế :
1.1 Hoạt động bán phá giá trong thương mại quốc tế:
1.1.1 Khái niệm:
Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, một sản phẩm được coi là bán
phá giá nếu giá xuất khẩu của nó thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản
phẩm tương tự trong nước theo các điều kiện mua bán thông thường. Theo khái
niệm như vậy thì có thể xem xét các hình thức chống bán phá giá đối với hàng xuất
khẩu của một nước đến một quốc gia nội địa nều xét thấy:
-

Giá xuất khẩu thấp hơn giá bán hàng hóa đó ở thị trường nội địa
Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất
Giá xuất khẩu sang nước tiến hành điều tra chống bán phá giá thấp hơn giá
xuất khẩu của hàng hóa đó sang thị trường nước khác.

Trong trường hợp hàng nhập khẩu từ một nước không có nền kinh tế thị trường,


nước nhập khẩu có thể lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh khi có xác định xem
có bán phá giá hay không.
Theo WTO, đây được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nức nhập khẩu. Và các
“Vụ kiện bán chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết
quả của các vụ kiện) là một hình thức hạn chế hành vi này.
1.1.2. Các hình thức bán phá giá :
Căn cứ theo thông lệ quốc tế
Theo thông lệ quốc tế, người ta chia hành động bán phá giá thành 2 loại: bán phá
giá hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa và bán phá giá hàng nhập khẩu.
Hai trường hợp này thường được tách riêng và được giải quyết theo hai bộ luật
riêng biệt.
-

Bán phá giá hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa là việc cá nhân
hoặc tổ chức sản xuất đặt giá tiêu thụ thấp hơn giá thành tại thị trường trong
nước. Mục tiêu của hành động bán phá giá này là nhằm loại bỏ khỏi thị trường,
hoặc ngăn cản sự thâm nhập thị trường, của một doanh nghiệp hay một sản
phẩm của doanh nghiệp.
- Bán phá giá hàng nhập khẩu là việc doanh nghiệp nước ngoài bán hàng hóa
dưới chi phí tại nước nhập khẩu.
Căn cứ theo Hiến chương Havana
Page 2


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Trong thời gian đàm phán dẫn tới Hiến chương Havana về quan hệ thương mại

quốc tế, những nước tham gia đã chia việc phá giá thành 4 loại:
- Phá giá về giá: Là hành vi được quy định trong điều VI của Hiệp định GATT
(“sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh trên thị trường của một
nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm”).
- Phá giá dịch vụ: Là hành vi tạo ra lợi thế về giá do có phá giá cung cấp dịch
vụ vận tải biển.
- Phá giá hối đoái: Là hành vi dựa trên cơ sở khống chế tỷ giá hối đoái để đạt
được lợi thế cạnh tranh.
- Phá giá xã hội: Là hành vi xuất phát từ việc nhập khẩu hàng hoá với giá thấp
do tù nhân hay lao động khổ sai sản xuất.
Hoặc căn cứ theo mục đích và biểu hiện cũng có thể phân thành 3 loại bán phá
giá:
-

Bán phá giá dai dẳng, thì hàng hóa liên tục được bán với một giá thấp hơn so
với giá cả trong nước nhập khẩu. Tình trạng này là tình trạng mà trong đó hàng
hóa đơn giản là hàng nhập khẩu khác được bán dưới những điều kiện tối đa hóa
lợi nhuận. Bất kỳ hàng rào thương mại nào cũng sẽ dẫn đến một giá cả cao hơn
đối với người tiêu dùng trong nước nhập khẩu và ảnh hưởng của phúc lợi của

-

chúng.
Bán phá giá thường xuyên: một xí nghiệp nước ngoài sẽ bán tại giá cả thấp cho
đến khi những nhà sản xuất trong nước bị loại ra khỏi thị trường; lúc đó giá cả
sẽ gia tăng bởi sự độc quyền xuất hiện. Những nhà sản xuất trong nước lúc đó
có thể được lôi kéo trở lại thị trường cho đến khi giá cả giảm xuống trở lại. Có
một tranh luận có giá trị cho việc bảo hộ với việc bán phá giá thường xuyên do
việc di chuyển nguồn lực lãng phí. Khi những nhân tố sản xuất di chuyển vào
và ra một ngành bởi ảnh hưởng của giá cả nhập khẩu thì chi phí và và sự lãng


-

phí đổ dồn cho xã hội.
Bán phá giá không thường xuyên sẽ xuất hiện khi nhà sản xuất nước ngoài
(hoặc chính phủ) với một thặng dư sản phẩm tạm thời xuất khẩu số này tại bất
cứ giá nào mà nó cần. Việc bán phá giá theo kiểu này có thể có những ảnh
hưởng xấu tạm thời đến việc cạnh tranh với những nhà cung cấp trong nước chủ
nhà bởi việc làm gia tăng rủi ro trong hoạt động của ngành. Những rủi ro này
Page 3


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

cũng như sự mất mát phúc lợi từ việc di chuyển nguồn lực tạm thời có thể được
tránh khỏi bởi việc đưa ra chính sách bảo hộ, mặc dù những ảnh hưởng phúc lợi
khác có thể được đưa vào trong phân tích khi xem xét những hạn chế thương
mại. Tuy nhiên, việc bán phá giá thường xuyên dường như không biện hộ được
việc bảo hộ trong ngắn hạn.
1.1.3. Nguyên nhân bán phá giá
‘Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, có khá nhiều lý do để doanh
nghiệp xuất khẩu hàng hoá của mình với mức giá thấp hơn giá ở thị trường trong nước
hoặc thậm chí là thấp hơn mức chi phí nhất định. Có một số nguyên nhân điển hình
như sau:
Thứ nhất, khi một doanh nghiệp đã có vị thế tốt trong thị trường nội địa muốn phát
triển một thị trường mới ở một nước khác bị phân cách bởi ranh giới địa lý, họ sẽ phải
chịu thêm các chi phí phụ trội như thuế nhập khẩu, chi phí chuyên chở, chi phí cho các
rào cản kỹ thuật. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn có thể muốn duy trì mức giá thấp cho

hàng hóa của mình để tạo thế cạnh tranh mà không có ý định xâm hại tới môi trường
cạnh tranh của thị trường mới.
Thứ hai, trong trường hợp mở rộng quy mô sản xuất để tối đa hoá lợi nhuận, doanh
nghiệp có thể sẽ có nhu càu bán hàng với mức giá thấp để khuếch trương hàng hóa
trong thị trường mới, đặc biệt khi doanh nghiệp đang theo đuổi chương trình khuyến
mãi dài kỳ ở thị trường mới để chiếm lĩnh thị phần.
Thứ ba, trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất tối đa công suất và giá của hàng
hóa ở thị trường trong nước đã bị khống chế bởi nhà nước hoặc bởi các tập đoàn mà
doanh nghiệp là thành viên, doanh nghiệp có thể sẽ chỉ có cách lựa chọn duy nhất là hạ
giá hàng hóa ở thị trường khác để cắt giảm lỗ.
Thứ tư, cũng có thể có trường hợp doanh nghiệp đã có thế đứng và tiềm lực rất tốt
trong nước và muốn chiếm lĩnh thị trường nước ngoài bằng cách loại bỏ các đối thủ
cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp có thể lợi
dụng sự vững chắc của thị phần trong nước để bán hàng hóa với mức giá rất thấp ở thị
trường nước ngoài trong một thời gian dài nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh ra khỏi
thị trường đó. Khi đó, mục đích cuối cùng mà doanh nghiệp hướng tới rất có thể là vị

Page 4


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

thế thống lĩnh thị trường để từ đó chiếm thế độc quyền tiếp theo là nâng giá bán để tối
đa hoá lợi nhuận.
Thứ năm, khi một doanh nghiệp đang thử nghiệm một dòng hàng hóa mới ở thị
trường mới, doanh nghiệp có thể sẽ bán hàng hóa thử nghiệm với mức giá thậm chí
thấp hơn chi phí bỏ ra với mục đích dành được sự chú ý và chấp nhận của người tiêu
dùng đối với hàng hóa mới.

Thứ sáu, có một số trường hợp, sự thiếu thông tin về thị trường mới làm cho doanh
nghiệp phải ký hợp đồng và ấn định giá bán hàng hóa trước khi bắt đầu sản xuất hàng
hóa. Những biến động giá đàu vào cùng với sự thiếu tính toán trước có thể làm cho
mức giá ấn định trước thấp hơn so với chi phí sản xuất thực tế sau đó.
Thứ bảy, cuối cùng, đối với một số ngành sản xuất có mức độ tập trung tư bản cao
như công nghiệp luyện thép hoặc thu hoạch theo mùa như nông sản, luôn luôn có
những thời kỳ hàng hóa bị dôi ra so với nhu cầu của thị trường. Khi đó, doanh nghiệp
không có cách nào khác phải bán hàng hóa dôi ra ở mức thấp hơn chi phí để cắt lỗ.
Đặc biệt đối với hàng nông sản đã đến kỳ thu hoạch không thể để lâu như hoa quả hay
cá nuôi thương phẩm, việc bán với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất để bù đắp lỗ là
điều gần như không thể tránh khỏi.
Như vậy có thể thấy rằng trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế có rất
nhiều lý do dẫn tới việc doanh nghiệp quyết định bán hàng hóa của mình với mức giá
thấp hơn thị trường nội địa hoặc thậm chí là thấp hơn chi phí sản xuất, những trường
hợp mà từ góc độ kinh tế có thể bị coi là BPG. Tuy nhiên, do tính hợp lý về mặt kinh
tế của những trường hợp đó, khó có thể nói rằng tất cả các trường hợp BPG đó đều có
ý đồ xấu hay có hại đối với môi trường cạnh tranh hoặc nền kinh tế của nước nhập
khẩu. Những phân tích dưới đây sẽ phân loại những hoạt động BPG căn cứ trên động
cơ của doanh nghiệp BPG để thấy rõ khía cạnh chủ quan của những hoạt động BPG.

1.1.4. Tác động của bán phá giá:
Với khái niệm về BPG phân tích trên đây, có thể thấy tác động tới nền kinh tế của
cả nước nhập khẩu và nước xuất khẩu của các loại hĩnh BPG là tương đối rõ ràng trên
một số lĩnh vực.

Page 5


Đề Án Môn Học
-


GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Đối với nền kinh tế nước nhập khẩu:

Tác động ngay lập tức từ các hàng hoá được nhập khẩu với giá rẻ vào thị trường
nước nhập khẩu, những loại hàng hoá đó sẽ làm cho mặt bằng giá cả trên thị trường
nói chung có xu hướng giảm đi. Điều này trước tiên sẽ có lợi cho người tiêu dùng bởi
họ sẽ có được cơ hội mua được hàng hoá cùng loại với giá rẻ hơn mức giá trước đó.
Tổng nguồn cung hàng từ phía các nhà sản xuất nội địa sẽ có xu hướng giảm đi do một
phàn thị trường nhất định đã bị hàng hóa nhập khẩu chiếm lĩnh. Tuy nhiên, tổng nguồn
cung hàng trên thị trường thi chưa chắc đã giảm đi mà có thể nói có xu hương tăng lên
với nguồn cung bên ngoài.
Về khía cạnh phân phối thu nhập trong nền kinh tế thì việc xuất hiện của hàng
hóa nhập khẩu giá rẻ hơn ngay lập tức sẽ làm cho thị phần của các doanh nghiệp nội
địa bị co lại. Họ sẽ đàu tư ít hơn và có thể sẽ phải mất đi lợi nhuận do thị trường bị
chia sẻ. Việc làm tại các doanh nghiệp bị tái cấu trúc vi thế có thể sẽ bị cắt giảm. Tuy
nhiên, tổng tiết kiệm tiêu dùng trong xã hội sẽ có xu hướng tăng lên, đồng nghĩa với
nguồn tiền ừong xã hội hướng ra mục đích khác như mua sắm các loại hàng hoá khác
hay đầu tư kinh doanh sẽ có xu hướng tăng lên.
Đối với môi trường kinh doanh, sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài với
mức giá bán hàng hóa thấp thoạt tiên sẽ làm cho môi trường kinh doanh ở nước nhập
khẩu có tính cạnh tranh hơn. Các doanh nghiệp nội địa cũng như các doanh nghiệp
xuất khẩu khác sẽ có xu hướng giảm giá hàng hóa hoặc tăng cường chất lượng hay
quảng bá hàng hóa để thúc đẩy tính cạnh tranh của hàng hóa của mình. Nếu các doanh
nghiệp trong nước có đủ nội lực để duy tó thị trường thi các hoạt động BPG từ bên
ngoài, đặc biệt là ba loại hình BPG đầu tiên như phân tích trên đây, sẽ chỉ làm cho thị
trường nhập khẩu mang tính cạnh tranh hơn, hàng hoá sẽ càng rẻ hơn và chất lượng tốt
hơn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp nội địa không đủ tiềm lực để duy trì sự cạnh tranh,
đặc biệt khi doanh nghiệp nhập khẩu theo đuổi hành vi BPG thuộc loại thứ tư và thứ

năm thì lúc đó họ sẽ bị yếu thế dần và biến mất. Khi đó, môi trường cạnh tranh ở nước
nhập khẩu có thể nói là đã bị ảnh hưởng tiêu cực.
Như vậy, tác động kinh tế nói chung của hành vi BPG đối với nền kinh tế nhập
khẩu xét ở góc độ tổng thể sẽ khó có thể xác định được ngay lập tức là có lợi hay có
hại. Thông thường có thể thấy rằng những người chịu thiệt hại là các đối thủ cạnh

Page 6


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

tranh nội địa và cái hại đó có thể xảy ra ngay lập tức khi xuất hiện hàng hóa BPG. Nền
kinh tế nước nhập khẩu nói chung cũng có thể bị thiệt hại trong thời gian dài hạn.
Trong khi đó người tiêu dùng và có thể qua đó nền kinh tế nói chung lại là những
người được hưởng lợi từ giá rẻ. Thật khó có thể xác định được giữa những cái lợi - hại
này, cái nào lớn hơn cái nào.
-

Đối với nền kinh tế nước xuất khẩu:

Nhìn chung, tác động của các hành vi BPG đối với nền kinh tế nước xuất khẩu
là tích cực. Cho dù giá bán ở thị trường nước ngoài có thấp nhưng nếu vẫn đủ để có lãi
thì hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn sẽ được duy trì
và mở rộng. Họ sẽ có nhiều cơ hội thu lãi nhiều hơn, đồng thời có khả năng tái đầu tư
hay đầu tư sang loại hĩnh hàng hóa mới một cách tốt hơn. Theo đó việc làm trong xã
hội và kéo theo đó là phúc lợi xã hội cũng sẽ được gia tăng. Tác hại có thể thấy được
duy nhất đó là trong trường hợp doanh nghiệp giữ mức giá bán dưới chi phí sản xuất
quá lâu dẫn tới vượt quá cả nội lực của minh. Tuy nhiên, điều này lại hoàn toàn phụ

thuộc vào bản thân doanh nghiệp và trên thực tế nó khó xảy ra nếu doanh nghiệp có
chiến lược và năng lực quản lý tốt.
Như vậy, có thể thấy các hành vi BPG nói chung, tức là bán giá thấp hơn giá
nội địa hoặc dưới mức chi phí sản xuất tại một thị trường xuất khẩu, không phải lúc
nào cũng chỉ có hại tới nền kinh tế của nước nhập khẩu hay nước xuất khẩu. Tuy
nhiên, cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu luôn nhin nhận vấn đề lợi - hại của
BPG tò lăng kính riêng của mình phù hợp với bản tính của một cơ quan nhà nước.
Lăng kính này luôn được chiếu từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất là lợi ích của các doanh
nghiệp nội địa sản xuất những hàng hóa đang bị hàng hóa BPG cạnh tranh. Từ góc độ
này, việc BPG luôn luôn có hại bởi vì hàng hóa nhập khẩu giá rẻ sẽ cạnh tranh trực
tiếp và chiếm thị trường của hàng hóa sản xuất trong nước. Góc độ thứ hai là lợi ích
của người tiêu dùng hay còn gọi là lợi ích của công chúng. Từ góc độ này việc BPG có
thể đem lại lợi ích hay thiệt hại, trước mắt hay lâu dài. Tuy nhiên, trong lăng kính của
cơ quan có thẩm quyền chống BPG của nước nhập khẩu, góc độ thứ nhất luôn được ưu
tiên hơn. Chính vì vậy mà các nước có hàng hóa nhập khẩu BPG luôn tìm cách áp
dụng các biện pháp đối phó với vấn đề này để bảo vệ cho ngành sản xuất trong nước

Page 7


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

trước hàng hóa BPG. Như vậy, có thể thấy song song tồn tại với khái niệm BPG sẽ là
khái niệm chống BPG, khái niệm đó sẽ được đề cập đến ngay trong phần dưới đây.
1.2.1

Hoạt động chống bán phá giá trong thương mại quốc tế


1.2.1. Khái niệm :
Do tác động của bán phá giá và đặc biệt là tác động tới ngành sản xuất nội địa
của nước nhập khẩu mà tại các nước này luôn có xu hướng làm hạn chế các tác động
được cho là tiêu đó. Có thể có nhiều biện pháp để hạn chế các tác động tiêu cực của
bán phá giá. Bản thân các doanh nghiệp của nước nhập khẩu bị tác động bởi bán phá
giá có thể tự mình tìm hiểu nguyên nhân làm cho doanh nghiệp của mình kém cạnh
tranh hơn so với sản phẩm nhập khẩu bán phá giá. Qua đó doanh nghiệp tự cải tiến
quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý để giảm chi phí, nâng cao chất lượng và
hiệu quả cạnh tranh của sản phẩm của mình. Tuy nhiên, biện pháp này có thể gây
nhiều khó khăn ban đầu về mặt tài chính đối với doanh nghiệp của nước nhập khẩu
đồng thời nó cũng đòi hỏi thời gian áp dụng lâu dài.
Biện pháp thứ hai có thể áp dụng để đối phó với hàng hóa bán phá giá là bản
thân chính phủ nước nhập khẩu ra tay trợ giúp ngành sản xuất nội địa của mình bằng
các khoản trợ cấp tài chính dưới hình thức tín dụng lãi suất thấp, thường khuyến khích
sản xuất .v.v. Tuy nhiên, biện pháp này cũng có nhược điểm là phải chi tiêu từ ngân
sách của nước nhập khẩu.
Biện pháp thứ ba có thế áp dụng là thực hiên chống bán phá giá như một hình
thức chế tài trực tiếp chống lại sản phẩm nhập khẩu có bán phá giá. Đây thường là
hình thức được chính phủ các nước nhập khẩu ưa chuộng nhất vì nó là một biện pháp
mang tính chất hành chính, không đòi hỏi nguồn lực tài chính trực tiếp từ các doanh
nghiệp nội địa của nước nhập khẩu, cũng không đòi hỏi trợ cấp từ ngân sách của nước
nhập khẩu. Thông qua chống bán phá giá, chính phủ nước nhập khẩu còn thu được
những khoản tài chính nhất định từ việc đánh thuế chống bán phá giá lên sản phẩm
nhập khẩu có bán phá giá để bù đắp chi phí cho hoạt động điều tra chống bán phá giá
và điều tiết ngược lại cho các doanh nghiệp sản xuất nội địa bị thiệt hại do sản phẩm
có bán phá giá. Từ đó, có thể rút ra khái niệm chống bán phá giá như sau:
Chống bán phá giá là việc cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu áp
dụng các biện pháp phù hợp tác động trực tiếp lên sản phẩm nhập khẩu bán phá giá

Page 8



Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

để loại bỏ những thiệt hại mà sản phẩm nhập khẩu bán phá giá đó gây ra cho ngành
sản xuất hàng hóa tương tự của nước mình.
1.2.2. Các biện pháp chống bán phá giá
Pháp luật hiện hành của WTO, Hoa Kỳ và EU quy định có 3 biện pháp chống BPG
có thể được áp dụng, bao gồm: (1) các biện pháp tạm thời; (2) cam kết về giá; và (3)
thuế chống BPG.
-

Biện pháp tạm thời (provisional measures)
Về nguyên tắc, các biện pháp tạm thời luôn được áp dụng sau khi các cơ quan có

thẩm quyền đã có kết luận sơ bộ khẳng định có BPG và có thiệt hại xảy ra. Pháp luật
của WTO, Hoa Kỳ và EU đều cho phép điều này.
Theo quy định của WTO, các biện pháp tạm thời được coi là những biện pháp không
phải để nhằm trừng phạt hành vi BPG mà chỉ nhắm vào việc khắc phục kịp thời các
thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa do hàng hóa BPG gây ra. Thông thường, biện
pháp tạm thời được áp dụng khi chưa có kết luận điều ứa cuối cùng vi thế chưa khẳng
định chắc chắn được mức độ BPG của hàng hóa hay mức độ thiệt hại. Chính vi vậy,
WTO quy định chỉ được áp dụng biện pháp tạm thời khi các điều kiện sau đây đã được
thỏa mãn (Điều 7.1, 7.3, 7.4, ADA 1994):
Thứ nhất, các cơ quan có thẩm quyền đã bắt đầu tiến hành điều tra vụ việc BPG
theo đúng quy định của pháp luật và đã có thông báo công khai về việc này. Các bên
có quan tâm cũng đã được tạo đủ cơ hội để nộp thông tin và bình luận của mình. Mục
đích của điều kiện này là để ngăn các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm

thời một cách tùy tiện. WTO cũng quy định các biện pháp tạm thời không thể được áp
dụng trong thời gian 60 ngày kể tò ngày bắt đầu điều tra, để có đủ thời gian xem xét kỹ
lưỡng vụ việc và tạo điều kiện cho các bên liên quan cung cấp thông tin và ý kiến rồi
mới được ra quyết định.
Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định sơ bộ khẳng định có BPG và
thiệt hại đã xảy ra. Các biện pháp tạm thời, tuy chưa có giá trị chính thức như thuế
chống BPG song cũng đã đem lại trách nhiệm vật chất nhất định mà các nhà nhập
khẩu phải gánh vác, nên cũng phải có lý do chính đáng cho việc áp dụng.
Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền xét thấy việc áp dụng biện pháp tạm thời là càn
thiết để ngăn ngừa thiệt hại xảy ra trong khi quá trình điều tra đang tiếp tục. Thực tế

Page 9


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

ngay khi đã xác định được có thiệt hại xảy ra thì các cơ quan có thẩm quyền thường có
xu hướng kết luận rằng việc áp dụng biện pháp tạm thời là càn thiết. Song để tránh sự
tùy tiện WTO quy định biện pháp tạm thời không được vượt quá 4 tháng kể từ khi
được ban hành, ngoại lệ có thể kéo dài nhưng không được quá 6 tháng. Trong trường
hợp đặc biệt thời hạn đó có thể kéo dài thêm nhưng không quá 9 tháng.
Theo quy định của WTO, biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới một
trong các hĩnh thức như mức thuế tạm thời (provisional duty) hoặc một biện pháp bảo
đảm tài chính nào đó. Trong đó, biện pháp bảo đảm tài chính được WTO khuyến khích
áp dụng hơn vì khi chưa có quyết định chính thức về vụ việc BPG thì việc đưa ra một
mức thuế BPG, cho dù là tạm thời, cũng không phải là họp lý. Hơn nữa biện pháp bảo
đảm tài chính cũng phù hợp hơn với bản chất của biện pháp tạm thời là ngăn ngừa
thiệt hại xảy ra trong quá trình điều tra BPG.

WTO quy định có hai hĩnh thức bảo đảm tài chính có thể được áp dụng là ký
quỹ tiền mặt (cash deposit) hoặc trái phiếu (bond). Mức ký quỹ hoặc trái phiếu có thể
tương đương với mức thuế chống BPG ước tính sơ bộ, nhưng không được nhiều hơn
biên độ phá giá dự tính tạm thời (Điều 7.4, ADA 1994).
Một biện pháp tạm thời nữa cũng được WTO quy định là tạm đình chỉ định giá
tính thuế {withholding of appraisement) với điều kiện mức thuế thông thường và mức
thuế BPG tạm tính được chỉ rõ ra. Trên thực tế, bản chất của biện pháp này không
hoàn toàn giống một biện pháp ngăn chặn thiệt hại mà là một biện pháp nhằm giữ chỗ
để áp dụng hồi tố thuế chống BPG sau này (Điều 7.4, ADA 1994) [114, 85, tr.189].
Có thể thấy, quy định của WTO về các biện pháp tạm thời đã có những nội dung khá
cụ thể. về cơ bản các nội dung này đều được cụ thể hóa và thực thi trực tiếp vào pháp
luật của Hoa Kỳ và EU. Những điểm khác biệt, nếu có, thường là ở những khía cạnh
kỹ thuật, phù hợp với đặc thù của từng quốc gia hay khu vực.

-

Cam kết về giá (price undertaking)
Cam kết về giá được hiểu là sự cam kết của bất kỳ doanh nghiệp xuất khẩu sản

phẩm đang bị điều tra BPG nào đối với nước nhập khẩu đại diện bởi cơ quan có thẩm
quyền về việc sẽ điều chỉnh giá của sản phẩm xuất khẩu theo một cách thức nào đó để

Page 10


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

loại trừ thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa. Khác với hai biện pháp chống BPG

còn lại, cam kết về giá là biện pháp chống BPG được hình thành dựa trên cơ sở tự
nguyện và tự điều chỉnh của các doanh nghiệp xuất khẩu bị kiện. Trong tuyệt đại đa số
trường hợp, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ đưa ra đề xuất cam kết để cơ quan có thẩm
quyền xem xét. Nếu cơ quan này thấy rằng đề xuất đó có thể loại trừ thiệt hại thi đề
xuất sẽ được chấp nhận và coi như cam kết về giá có hiệu lực. Luật lệ của WTO cũng
cho phép cơ quan có thẩm quyền là người chủ động đưa ra đề xuất để doanh nghiệp
xuất khẩu cân nhắc (Điều 8.5, ADA 1994). Trong trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu
là người đưa ra đề xuất cam kết về giá thì cơ quan có thẩm quyền không bắt buộc phải
chấp nhận đề xuất đó với bất kỳ lý do gì, có thể là cam kết về giá đó là không thực tế,
không đủ để loại trừ thiệt hại hoặc thậm chí là nội dung đề xuất không phù họp với
chính sách của nước nhập khẩu. Trong trường hợp từ chối đề xuất cam kết về giá vi
bất cứ lý do gì, cơ quan có thẩm quyền cũng phải thông báo cho nhà nhập khẩu biết
nguyên nhân và để nhà nhập khẩu có cơ hội có ý kiến phản hồi (Điều 8.3, ADA 1994).
Nếu cam kết về giá được chấp nhận thì quá trình điều tra BPG có thể sẽ chấm
dứt ngay lập tức nếu bên xuất khẩu mong muốn như vậy hoặc cơ quan có thẩm quyền
quyết định như vậy. Ngược lại, quá trình điều tra cũng vẫn có thể được tiếp tục theo
quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp tiếp tục điều tra BPG và đi
đến kết luận phủ định việc BPG thì cam kết về giá chấm dứt hiệu lực ngay lập tức. Tuy
nhiên, nếu kết luận phủ định BPG lại xuất phát tò lý do chính là có cam kết về giá nói
trên thì cơ quan có thẩm quyền vẫn có thể yêu cầu tiếp tục duy trì cam kết về giá và
doanh nghiệp xuất khẩu vẫn phải tiếp tục thực hiện cam kết đó. Nếu kết luận là khẳng
định về việc BPG thi đương nhiên cam kết về giá vẫn tiếp tục được thực hiện (Điều
8.3, ADA 1994).
Theo pháp luật của WTO, cam kết về giá có thể được thực hiện dưới một trong
hai hinh thức: (1) cam kết sửa đổi giá hoặc (2) cam kết ngừng xuất khẩu phá giá hàng
hóa (Điều 8.1, ADA 1994). Để có tác dụng loại trừ thiệt hại thì hai loại cam kết này
thường đồng nghĩa với việc doanh nghiệp xuất khẩu phải nâng GXK sản phẩm của
mình. Mức nâng phù hợp là mức vừa đủ để loại trừ yếu tố biên độ phá giá. Ở đây cần
lưu ý là “loại trừ yếu tố biên độ phá giá” chứ không phải loại trừ biên độ phá giá. Cụ
thể biên độ tối thiểu để có thể bị điều tra và áp dụng thuế chống BPG là từ 2% trở lên,


Page 11


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

như vậy “loại trừ yếu tố biên độ phá giá” có nghĩa là chỉ càn GXK của sản phẩm tăng
vừa đủ để biên độ phá giá không quá 2% là đã có thể được chấp nhận. Bản thân WTO
cũng khuyến nghị rằng mức tăng giá nên ít hơn biên độ phá giá nếu như vậy cũng đủ
để loại trừ thiệt hại (Điều 8.1, ADA 1994).
Về thời điểm, cam kết về giá bao giờ cũng được tiến hành sau khi cơ quan có
thẩm quyền đã có kết luận sơ bộ khẳng định việc BPG và thiệt hại liên quan.
Để đảm bảo thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận trong cam kết về giá các
doanh nghiệp xuất khẩu phải tuân thủ một chế độ báo cáo nghiêm ngặt với cơ quan có
thẳm quyền, việc không thực hiện báo cáo này có thể được coi là một hình thức vi
phạm cam kết. Trong trường hợp có vi phạm cam kết về giá thì cơ quan có thẩm quyền
có quyền tiến hành thủ tục điều tra rút gọn và ngay lập tức áp dụng biện pháp tạm thời
dựa trên thông tin đã thu thập được. Trong trường họp đó mức thuế chống bán giá sau
khi được công bố được phép có hiệu lực hồi tố tong thời hạn 90 ngày trước ngày áp
dụng biện pháp tạm thời (Điều 8.6, ADA 1994).
-

Thuế chổng bán phá giá (definitive duty)
Thuế chống BPG, hay còn gọi là thuế chống BPG chính thức, là mức thuế đánh

trên hàng hóa BPG sau khi các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được một cách rõ
ràng hàng hóa có BPG ở mức độ đáng kể (trên 2%) và gây thiệt hại cho ngành sản xuất
nội địa. Trong một vụ kiện BPG thông thường, sau khi biện pháp tạm thời được áp

dụng, giai đoạn điều tra thứ hai được bắt đầu và trong giai đoạn này các cơ quan có
thẩm quyền sẽ tiến hành thu thập chứng cứ để xác minh và khẳng định việc BPG và
thiệt hại do sản phẩm BPG gây ra. Trên cơ sở kết luận của giai đoạn hai này cơ quan
có thẩm quyền sẽ xác định mức thuế chống BPG.
Sau khi quyết định áp thuế chống BPG được ban hành, thông thường nó sẽ có
hiệu lực ngay lập tức, có nghĩa rằng thuế chống BPG bắt đầu được tính cho hàng hóa
bị kiện. Đây là điểm khác biệt giữa thuế chống BPG và biện pháp tạm thời. Biện pháp
tạm thời chỉ xác định mức thuế tạm. Khoản tiền doanh nghiệp nộp ở giai đoạn này
không phải tiền đóng thuế mà chỉ là khoản tiền bảo đảm để hàng hóa được thông quan
và lưu thông trên thị trường như bình thường. Nếu sau này sản phẩm bị đánh thuế
chống BPG thì khoản tiền thuế phải nộp có thể sẽ được khấu trừ vào khoản tiền đặt
cọc.

Page 12


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Theo quy định của WTO, về nguyên tắc mức thuế chống BPG cụ thể do các cơ
quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu hoàn toàn quyết định, song phải tuân thủ hai
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mức thuế chống BPG không được vượt quá biên độ phá giá đã được
cơ quan điều tra công bố trong các giai đoạn điều tra trước đó. Đây là điều kiện bắt
buộc đối với việc xác định thuế chống BPG. Mọi mức thuế cao hơn biên độ phá giá sẽ
là không càn thiết và vượt quá ranh giới chính đáng của thuế này (Điều 9.3, ADA
1994).
Bên cạnh điều kiện bắt buộc trên đây, WTO cũng khuyến nghị rằng mức thuế
chống BPG chính thức chỉ nên dừng lại ở một mức vừa đủ để loại trừ được thiệt hại đã

gây ra.
Thứ hai, tất cả các lô hàng hóa bị phát hiện có BPG đều phải chịu thuế chống
BPG, dù được xuất khẩu bởi doanh nghiệp nào, trừ trường họp đã đạt được cam kết về
giá. Mức thuế chống BPG phải được tính đối với từng nhà xuất khẩu cụ thể. Khi công
bố mức thuế chống BPG, cơ quan có thẩm quyền phải liệt kê đầy đủ tất cả các doanh
nghiệp xuất khẩu có BPG. Nếu như có quá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu mà không
thể liệt kê hết được thi cơ quan có thẩm quyền phải liệt kê các nước xuất khẩu tương
ứng. Đây được gọi là nguyên tắc không phân biệt khi áp thuế chống BPG (Điều 9.2,
ADA 1994).
Cách tính thuế chống BPG được WTO quy định thực hiện theo 2 phương pháp:
Phương pháp thứ nhất: xác định thời điểm tính thuế chống BPG sau khi sản
phẩm đã được nhập khẩu (restrospective basis). Theo phương pháp này, thuế chống
BPG được ấn định với một mức thuế suất ước tính ngay sau khi quá trình điều tra
chính thức đã kết thúc. Căn cứ vào mức thuế suất này, các doanh nghiệp nhập khẩu
phải đặt cọc tiền để được nhập khẩu hàng. Mức thuế chính thức sẽ được quyết định
vào khoảng 12 đến 18 tháng sau đó và lúc này mức thuế chính thức sẽ dựa trên thông
số thực tế về lượng hàng và GXK của các sản phẩm được nhập khẩu trong thời hạn nói
ừên. Nếu mức thuế thực nộp thấp hơn mức tiền đặt cọc thi nước nhập khẩu phải hoàn
lại khoản chênh lệch trong vòng 90 ngày kể từ ngày xác định được mức thuế chính
thức (Điều 9.3.1, ADA 1994).

Page 13


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Phương pháp thứ hai: xác định thời điểm tính thuế chống BPG trước khi sản
phẩm được nhập khẩu (prospective basis). Theo phương pháp này, thuế suất thuế

chống BPG được ấn định chính thức ngay sau khi quá trình điều tra kết thúc. Mức thuế
này được tính đối với mọi lô hàng nhập khẩu kể từ thời điểm đó. Tuy nhiên, sau khi bị
thu thuế, các doanh nghiệp nhập khẩu có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quyết
toán thuế trên cơ sở các thông số của sản phẩm thực nhập. Nếu mức thuế suất đã ấn
định cao hơn biên độ phá giá thực tế của sản phẩm khi nhập khẩu thi khoản chênh lệch
đó phải được hoàn lại trong vòng từ 12 đến 18 tháng kể từ ngày có yêu cầu hoàn lại
(Điều 9.3.2, ADA 1994).
Trường hợp doanh nghiệp không được lựa chọn điều tra do số lượng doanh nghiệp bị
kiện quá nhiều thi mức thuế chống BPG khi đó đối với các doanh nghiệp này không
được vượt quá biên độ phá giá binh quân gia quyền của các doanh nghiệp đã được đưa
vào diện điều tra.
Một trường hợp đặc biệt nữa cũng có thể xảy ra là các doanh nghiệp xuất khẩu đã rơi
vào diện điều tra, song trong thời gian điều tra không có hàng hóa vào thị trường nước
nhập khẩu, những doanh nghiệp này thường được gọi với thuật ngữ “nhà xuất khẩu
mới” {new shippers). WTO quy định cơ quan có thẩm quyền vẫn phải tiến hành xác
định biên độ phá giá và mức thuế BPG riêng cho những doanh nghiệp này nếu họ
chứng minh được rằng họ không có liên quan gì tới những doanh nghiệp đã bị áp thuế
chống BPG. Quy trình điều tra ừong trường hợp này tương tự như quy tr ình điều tra
thông thường nhưng với tiến độ nhanh hơn rất nhiều. Trong quá trình điều tra, cơ quan
có thẩm quyền không được áp bất cứ mức thuế chống BPG nào đối với họ (Điều 9.5,
ADA 1994).
1.3.

Hiệp định chống bán phá giá của WTO

Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định rất chi tiết nguyên tắc xác định
phá giá, cách tính biên độ phát giá và thủ tục điều tra phá giá như sau:
1.3.1. Xác định việc bán phá giá
● Định nghĩa phá giá
Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi:

-

Giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện

thương mại thông thường ("giá trị thông thường")

Page 14


Đề Án Môn Học
-

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Của sản phẩm tương tự khi tiêu thụở thị trường nước xuất khẩu

WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá khi sản phẩm tương tự trong thị
trường nội địa của một nước.
Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần giống với
sản phẩm là đối tượng điều tra.
Điều kiện thương mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá bán tại thị
trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thể coi như là không
nằm trong điều kiện thương mại thông thường.
● Nguyên tắc xác định phá giá:
Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất khẩu (GXK)
BĐPG > 0 -> có bán phá giá
BĐPG có thể tính bằng giá trị tuyệt đối hoặc theo phần trăm công thức:
BĐPG = (GTTT-GXK)/GXK
● Tính biên độ phá giá
-


Cách tính GTTT:

Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
- Sản phẩm không được bán tại nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông
thường; hoặc
- Có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc
- Số lượng bán ra không đáng kể (<5% số lượng SPTT bán ở nước nhập khẩu)
thì:
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý chung...) +
lợi nhuận
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị trường (giá bán
hàng và giá nguyên liệu đầu vào và do chính phủ ấn định) thì các quy tắc trên không
được áp dụng để xác định GTTT.
-

Cách tính GXK:

GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu tiên.
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do:
- giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty; hoặc

Page 15


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ


- theo một thoả thuận đền bù nào đó thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người mua độc
lập ở nước nhập khẩu.
-

So sánh GTTT và GXK:

Để so sánh một cách công bằng GTTT và GXK, Hiệp định quy định nguyên tắc so
sánh như sau:
So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất xưởng/ bán
buôn/ bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng;
Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt.
Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức tạp, vì không
phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT và GXK mà chỉ có mức giá
bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị trường nước xuất khẩu (GTTT+) và giá tính thuế
hải quan, giá hợp đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập khẩu (GXK+)
nên thường phải có một số điều chỉnh để có thể so sánh GTTT và GXK một cách công
bằng.
Điều chỉnh các chênh lệch trong:
-

điều kiện bán hàng

-

các loại thuế

-

số lượng sản phẩm


-

đặc tính vật lý của sản phẩm

-

và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá.

Ví dụ: khi lấy giá bán SPTT cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu làm GXK
+ thì GXK sẽđược xác định bằng cách điều chỉnh như sau:
GXK = (GXK+) - (lợi nhuận) - (các loại thuế + chi phí phát sinh từ khâu nhập
khẩu đến khâu bán hàng)
Cách so sánh:
Trung bình GTTT so với trung bình GXK; hoặc
GTTT (từng giao dịch) so với GXK (từng giao dịch); hoặc
Trung bình GTTT so với GXK (từng giao dịch)
(cách này chỉ được áp dụng khi GXK+ chênh lệnh đáng kể giữa những người mua,
các vùng hoặc giữa các khoảng thời gian khác nhau)

Page 16


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Trường hợp SPTT được xuất khẩu sang nước nhập khẩu qua một nước trung gian
(nước xuất khẩu):
Giá SPTT ở nước xuất khẩu (nước trung gian) so với giá bán SPTT từ nước

xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Nếu SPTT chỉ đơn thuần được chở từ nước sản xuất qua nước xuất khẩu:
Giá ở nước xuất xứ so với giá bán SPTT từ nước xuất khẩu sang nước nhập
khẩu.
1.3.2. Xác định thiệt hại
● Định nghĩa thiệt hại:
- Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại hiện
tại); hoặc
- Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt
hại tương lai); hoặc
- Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước (không có quy định
cụ thể)
Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau:
-

Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá: có tăng một cách đáng kể không?
Tác động của hàng nhập khẩu đó lên giá SPTT: Giá của hàng nhập khẩu đó:

+ Có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không?
+ Có làm sút giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước nhập khẩu không?
Khi sản phẩm thuộc diện điều tra được nhập khẩu từ nhiều nước: đánh giá gộp tác
động nếu BĐPG >= 2% GXK và khối lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước >= 3% khối
lượng nhập khẩu SPTT.
Việc khảo sát tác động của hàng nhập khẩu bị bán phá giá đối với một ngành sản
xuất trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến ngành sản
xuất đó, gồm những yếu tố sau:


Năng suất




Thị phần



Biên độ phá giá



Giá nội địa ở nước nhập khẩu



Suy giảm thực tế và nguy cơ giảm doanh số bán hàng



Số lượng hàng tồn kho
Page 17


Đề Án Môn Học


Sản lượng



Tình trạng thất nghiệp




Lương



Tác động tiêu cực đến luồng tiền



Huy động năng lực



Lợi nhuận



Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư



Đầu tư



Khả năng huy động vốn




Tốc độ tăng trưởng

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại cho một
ngành sản xuất trong nước: cần tính đến những yếu tố khác (ngoài việc bán phá giá),
nếu các yếu tố này gây thiệt hại cho ngành sản xuất đó thì không được quy thiệt hại
của ngành sản xuất đó do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra.
● Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần xem xét:
❖ Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai;
❖ Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả năng
tăng nhập khẩu;
❖ Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu;
❖ Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu
1.3.3. Ngành sản xuất trong nước
Ngành sản xuất trong nước là toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất ra
SPTT hoặc một số nhà sản xuất có sản lượng chiếm tối đa số tổng sản lượng trong
nước.
Có thể xuất hiện một số trường hợp đặc thù dẫn tới việc xác định cụ thể ngành sản
xuất trong nước như sau:
-

Nhà sản xuất và nhà nhập khẩu/nhập khẩu có liên quan với nhau: ngành sản

xuất trong nước là các nhà sản xuất còn lại.
-

Lãnh thổ nước nhập khẩu bị chia thành nhiều thị trường riêng: các nhà sản xuất


ở mỗi thị trường có thể coi là một ngành sản xuất riêng nếu:
Page 18


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

+ bán toàn bộ hoặc phần lớn sản phẩm liên quan ra thị trường đó; và
+ nhu cầu của thị trường đó đối với SPTT nhập khẩu từ nước khác là không
đáng kể.
1.3.4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành chống phá giá
Việc điều tra nhằm xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của một số sản
phẩm bị bán phá giá sẽ được tiến hành khi:
●Có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành
sản xuất trong nước đề nghị điều tra phá giá; hoặc
●Không có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho
ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước nhưng cơ
quan điều tra có đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá, thiệt hại và mối liên hệ giữa
hai yếu tố này.
➢ Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau:
● Tên người nộp đơn, số lượng và giá trị của sản phẩm tương tự do người
nộp đơn sản xuất trong nước. Nếu đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất trong
nước thì đơn phải nêu danh sách tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong
nước và số lượng, giá trị của các sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị
của các sản phẩm tương tự do các nhà sản xuất này sản xuất;
● Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, xuất xứ hàng hoá, tên nhà
xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài;
● Giá sản phẩm liên quan khi tiêu thụ ở thị trường trong nước sản xuất hoặc

nước xuất khẩu, hoặc giá mà sản phẩm liên quan được bán cho người mua độc lập
đầu tiên ở nước nhập khẩu;
● Số lượng nhập khẩu của sản phẩm đang bị nghi ngờ phá giá, ảnh hưởng của
việc nhập khẩu này lên giá sản phẩm tương tự ở thị trường nước nhập khẩu và ảnh
hưởng đối với ngành sản xuất trong nước.
Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng nêu
trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do hợp lệ để tiến hành điều tra chưa. Cơ quan
điều tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định được rằng đơn xin điều tra
được nộp bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước
của sản phẩm tương tự, nghĩa là:sản lượng sản xuất sản phẩm tương tự của các nhà sản

Page 19


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất
trong nước phản đối đơn; và sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc
nộp đơn phải chiếm ít nhất 25% tổng sản phẩm tương tự của ngành sản xuất trong
nước.
Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra xác định
được rằng: biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu; hoặc số lượng nhập khẩu hàng
bị nghi ngờ bán phá giá từ một nước nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở
nước nhập khẩu, trừ trường hợp từng nước xuất khẩu có lượng hàng nhập khẩu dưới
3%, nhưng lượng hàng nhập khẩu của tất cả các nước xuất khẩu chiếm trên 7% tổng
sản phẩm nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu.
Thủ tục hải quan vẫn được tiến hành trong khi điều tra phá giá. Trừ trường hợp
đặc biệt, một cuộc điều tra phá giá sẽ được tiến hành trong vòng 1 năm, và trong bất

kỳ trường hợp nào cũng không được quá 18 tháng.
1.3.5. Thu thập thông tin
Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho tất cả các bên có quan tâm đến cuộc điều
tra phá giá đề nghị cung cấp bằng văn bản mọi bằng chứng liên quan đến cuộc điều
tra. Thời hạn trả lời câu hỏi điều tra là 30 ngày và có thể được gia hạn thêm 30 ngày
hoặc lâu hơn nếu cần thiết.
Ngay khi bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra sẽ gửi nguyên văn đơn đề nghị
điều tra cho các nhà xuất khẩu và cơ quan liên quan ở nước xuất khẩu
và các bên quan tâm khi có yêu cầu.
Trong suốt quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tạo đầy đủ điều kiện cho các
bên quan tâm bảo vệ quyền lợi của mình, gặp các bên có quyền lợi đối nghịch để trao
đổi quan điểm và đưa ra thoả thuận. Các bên quan tâm có quyền trình bày các thông
tin khác bằng miệng, nhưng sẽ chỉ được cơ quan điều tra lưu ý tới khi được soạn lại
băng văn bản và gửi cho các bên quan tâm khác.
Bất kỳ thông tin nào có tính bí mật (chẳng hạn, bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng
hoặc gây tác hại cho người cung cấp thông tin) hoặc được các bên cung cấp một cách
bí mật sẽ không được tiết lộ nếu không được bên cung cấp cho phép.
Cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra ở nước ngoài nếu cần thiết để thẩm
định các thông tin cung cấp hoặc để tìm hiểu thêm chi tiết với điều kiện được sự đồng

Page 20


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

ý của các công ty liên quan và thông báo cho đại diện chính phủ nước này và các nước
không phản đối.
Cơ quan điều tra sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu hoặc nhà

sản xuất sản phẩm đang bịđiều tra. Trường hợp không tính được biên độ phá giá riêng
do số nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm liên quan quá
lớn thì cơ quan điều tra có thể giới hạn diện điều tra tới một số nhà sản xuất, xuất
khẩu hay nhập khẩu hoặc giới hạn ở một số loại sản phẩm nhất định bằng cách sử
dụng mẫu thống kê, hoặc giới hạn ở tỷ lệ phần trăm lớn nhất của khối lượng hàng xuất
khẩu từ nước liên quan.
Việc chọn các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm
để điều tra giới hạn sẽ được tiến hành trên cơ sở tham khảo ý kiến và có sự đồng ý của
các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có liên quan.
Trong trường hợp cơ quan điều tra giới hạn diện điều tra như nêu trên, họ vẫn
có thể tính biên độ phá giá riêng cho các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất mà ban đầu
không được đưa vào diện điều tra nhưng đã cung cấp thông tin đúng thời hạn.
Cơ quan điều tra tạo điều kiện cho người tiêu dùng sản phẩm đang điều tra
hoặc tổ chức đại diện người tiêu dùng cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra
nếu sản phẩm được bán lẻ rộng rãi.
1.3.6. Áp dụng biện pháp tạm thời
Biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới các hình thức:
▪ Thuế; hoặc
▪ Đặt cọc khoản tiền tương đương với khoản thuế chống bán phá giá dự kiến;
hoặc
▪ Cho thông qua nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập
khẩu thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến sẽ áp dụng.
Trên thực tế, biện pháp tạm thời hay được áp dụng nhất là đặt cọc.
➢ Điều kiện áp dụng biện pháp tạm thời:
cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo đúng thủ tục, gửi thông báo và
tạo điều kiện cho các bên quan tâm cung cấp thông tin và trình bày ý kiến;
có kết luận sơ bộ về việc xảy ra bán phá giá và dẫn đến thiệt hại cho ngành
sản xuất trong nước; và

Page 21



Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

cơ quan điều tra kết luận rằng biện pháp tạm thời là cần thiết để ngăn chặn
thiệt hại trong quá trình điều tra.
Biện pháp tạm thời chỉđược áp dụng sớm nhất là 60 ngày sau khi bắt đầu điều
tra và sẽ duy trì càng ngắn càng tốt, không được quá 4 tháng hoặc trong trường hợp
cần thiết thì cũng không được quá 6 tháng. Trường hợp cơ quan điều tra xác định được
điều khoản thuế thấp hơn biên độ phá giá đã đủ để khắc phục thiệt hại thì thời hạn áp
dụng biện pháp tạm thời có thể là 6 tháng hoặc 9 tháng.
1.3.7. Cam kết giá
Việc điều tra có thể ngừng hoặc kết thúc mà không cần áp dụng biện pháp tạm
thời hoặc thuế chống bán phá giá nếu một nhà xuất khẩu tự nguyện cam kết tăng giá
lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá vào khu vực thị trường đang điều tra và được cơ
quan điều tra nhất trí rằng biện pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại. Mức giá tăng
không nhất thiết phải lớn hơn mà thường là nhỏ hơn biên độ phá giá nếu nhưđã đủđể
khắc phục thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
Cơ quan điều tra sẽ không chấp nhận cho các nhà xuất khẩu cam kết giá nếu
thấy việc cam kết không khả thi, chẳng hạn như khi số lượng nhà xuất khẩu thực tế
quá lớn. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ giải thích rõ lý do không chấp nhận
cam kết giá với các nhà xuất khẩu.
Nếu cơ quan điều tra chấp nhận việc cam kết giá thì cuộc điều tra phá giá và
thiệt hại vẫn có thể được hoàn tất nếu nhà xuất khẩu muốn như vậy và cơ quan điều tra
đồng ý. Trong trường hợp này, nếu điều tra đi đến kết luận là không có phá giá hoặc
không gây thiệt hại thì việc cam kết giá sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ khi kết luận trên
được rút ra trong bối cảnh đã cam kết giá rồi. Trường hợp này cam kết giá sẽ duy trì
trong thời hạn hợp lý.

Cơ quan điều tra có thểđề nghị nhà xuất khẩu cam kết giá nhưng nhà xuất khẩu
không bắt buộc phải cam kết.
Các cơ quan hữu quan của nước nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ nhà xuất khẩu
nào đã chấp nhận cam kết giá cung cấp thông tin định kỳ về thực hiện cam kết giá.
Trường hợp nhà xuất khẩu vi phạm cam kết giá, cơ quan điều tra có thể lập tức áp
dụng biện pháp tạm thời trên cơ sở các thông tin mà họ có (best information).

Page 22


Đề Án Môn Học
1.3.8.

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá

Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế tương
đương hay nhỏ hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan điều tra của nước nhập khẩu quyết
định.
Đối với một sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác định biên độ
phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu/sản xuất. Thuế chống bán phá giá sẽđược áp
dụng cho từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ
tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại, trừ trường hợp đã cam kết giá.
Trị giá thuế chống bán phá giá áp dụng sẽkhông được vượt quá biên độ phá giá.
Có hai hình thức thu thuế chống bán phá giá:
+ Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Mỹ): việc tính mức thuế được căn cứ vào số
liệu của thời điểm trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ quan chức
năng bắt đầu áp dụng một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một
thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất khẩu tăng lên)

thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp trong vòng 12
tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau đó mức thuế mới sẽ
được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày sau khi xác định
lại mức thuế cuối cùng phải nộp.
+ Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU): cơ quan điều tra lấy số liệu của thời
điểm trước khi điều tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá trình
áp dụng thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập
khẩu đề nghị hoàn thuế với phần giá trị cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu
tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng,
chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế phần giá trị cao hơn
biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét
việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề
nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong
vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định hoàn thuế.
Thu thuế với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra:
Trường hợp số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm bán phá giá quá lớn, không tính
riêng biên độ phá giá thì được cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở một số

Page 23


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

nhà xuất khẩu/sản xuất nhất định trên cơ sở trao đổi với các nhà xuất khẩu/sản xuất
liên quan.
Mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra không
được vượt quá bình quân gia quyền BĐPĐ của các nhà xuất khẩu có điều tra.
Sau mỗi đợt rà soát, hàng nhập khẩu thuộc diện không điều tra sẽ được hoàn lại

khoản thuế bằng:
Bình quân gia quyền BĐPG (cũ) - bình quân gia quyền BĐPG (mới)
Khi có yêu cầu từ các nhà xuất khẩu không điều tra, cơ quan chức năng sẽ tính
lại mức thuế bằng:
Bình quân gia quyền GTTT (nhà XK có điều tra)

- giá xuất khẩu (nhà XK

không điều tra)
Phải loại trừ các biên độ bằng không và biên độ tối thiểu (2%) khi tính bình quân
gia quyền BĐPG.
Hàng nhập khẩu mới, nghĩa là: chưa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong
giai đoạn điều tra nhập khẩu từ nguồn không liên quan đến các nhà xuất khẩu đang bị
đánh thuế chống bán phá giá trong thời gian tiến hành rà soát.
Tuy nhiên, hàng nhập khẩu này có thể bị truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu rà soát
nếu có quan chức năng xác định được là có bán phá giá.
1.3.9. Truy thu thuế
Các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá chỉđược áp dụng với sản
phẩm được đưa ra bán sau thời điểm quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (60 ngày
sau khi điều tra) hoặc quyết định đánh thuế chống bán phá giá (1 năm - 18 tháng sau
khi điều tra) có hiệu lực.
Có thể truy thu thuế trong các trường hợp sau:
a. quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào thiệt hại vật chất;
hoặc
b. quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào nguy cơ gây thiệt
hại và thiệt hại thực tế đã có thể xảy ra nếu không áp dụng biện pháp tạm thời.
c. Có thể truy thu thuế đến tận 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời
nếu cơ quan chức năng xác định được: có cả một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại
hoặc nhà nhập khẩu đã hoặc lẽ ra phải nhận thức được rằng nhà xuất khẩu đang bán


Page 24


Đề Án Môn Học

GVHD: ThS Ngô Quang Mỹ

phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại; và thiệt hại bị gây ra bởi khối
lượng rất lớn hàng nhập khẩu trong thời gian ngắn trước khi áp dụng biện pháp tạm
thời (trường hợp này nhà nhập khẩu được phép trình bày ý kiến).
Tuy nhiên không được truy thu thuế với sản phẩm được nhập khẩu trước ngày
bắt đầu điều tra.
Phải hoàn thuế trong những trường hợp sau:
- Nếu mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã thu
thì phải hoàn lại khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không được thu
thêm.
- Nếu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc bán phá giá sẽ có thể dẫn
đến thiệt hại hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế
chống bán phá giá chỉ được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải hoàn
lại số tiền đặt cọc đã thu khi áp dụng biện pháp tạm thời.
- Nếu kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống phá giá thì khoản tiền
đặt cọc khi áp dụng biện pháp tạm thời séc được hoàn trả.
1.3.10. Rà soát
Sau khi áp dụng thuế chống bán phá giá một thời gian, cơ quan chức năng sẽ tự
tiến hành rà soát việc tiếp tục đánh thuế hoặc theo đề nghị của bất kỳ bên liên quan
nào về vấn đề:
+ Có cần tiếp tục đánh thuế không; hoặc
+ Nếu ngừng đánh thuế hoặc
+ Thay đổi mức thuế thì có dẫn đến thiệt hại không.
Cơ quan chức năng sẽ quyết định ngừng đánh thuế nếu, sau khi rà soát, xác

định được rằng không cần tiếp tục đánh thuế nữa.
Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng tối đa trong 5 năm.
Trước khi hết thời hạn trên, cơ quan chức năng sẽ tiến hành tự rà soát hoặc theo đề
nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước. Nếu như sau khi rà soát (thường trong
vòng 12 tháng), cơ quan chức năng xác định được là việc ngừng đánh thuế có thể dẫn
đến thiệt hại thì có thể tiếp tục đánh thuế.

Page 25


×