Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

CÁC TRƯỜNG hợp làm ẢNH HƯỞNG đến HIỆU lực QUY PHẠM XUNG đột

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.62 KB, 4 trang )

CÁC TRƯỜNG HỢP LÀM ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HIỆU LỰC QUY PHẠM
XUNG ĐỘT

Trong Tư pháp quốc tế, để giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài, việc xác định luật của quốc gia được áp dụng là rất quan trọng. Việc lựa
chọn pháp luật của nước nào để áp dụng phải dựa trên quy định của các quy phạm
xung đột. Tuy nhiên, không phải trong bất kì trường hợp nào pháp luật của nước được
áp dụng và quy phạm xung đột dẫn chiếu cũng có hiệu lực áp dụng vì các lý do khác
nhau. Để hiểu hơn vấn đề này, nhóm đã chọn đề tài: “Bình luận về các
trường hợp làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung
đột” để thực hiện bài tập nhóm.
I. Một số vấn đề chung
1. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Theo Điều 758 BLDS 2005 thì QHDS có yếu tố nước ngoài là QHDS có ít nhất
một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài hoặc các QHDS giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt
Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Từ quy định, có thể thấy, QHDS có yếu tố nước ngoài là một QHDS, do đó, nó
mang những đặc điểm thể hiện bản chất một QHDS: Chủ thể là người nước ngoài,
pháp nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc căn xứ xác lập
thực hiện, thay đổi, chấm dứt ở nước ngoài, hoặc tài sản là đối tượng của quan hệ hiện
diện ở nước ngoài.


2. Xung đột pháp luật
XĐPL là hiện tượng hai hay nhiều HTPL cùng có thể được áp dụng để điều
chỉnh một QHDS theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
XĐPL thường phát sinh do các nguyên nhân sau: Thứ nhất, do pháp luật các
nước quy định khác nhau trong giải quyết một quan hệ TPQT cụ thể. Thứ hai, do


đặc điểm về quan hệ xã hội thuộc TPQT đều điều chỉnh. Quan hệ do TPQT điều chỉnh
luôn có yếu tố nước ngoài tham gia và luôn liên quan đế ít nhất là hai HTPL. Ngoài
ra, XĐPL còn phát sinh từ các nguyên nhân khác như do cách áp dụng và giải thích
pháp luật của các nước có sự khác nhau.
3. Quy phạm xung đột
QPXĐ là các quy định ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải
quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế. Từ
khái niệm này, có thể thấy:
- QPXĐ không trực tiếp điều chỉnh các QHDS có yếu tố nước ngoài đang phát
sinh mà các quy phạm này chỉ quy định việc chọn pháp luật nước này hay nước khác
để điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngoài. Việc chọn luật không phải là tự do
tùy tiện lựa chọn HTPL nào để áp dụng mà phải dựa trên những nguyên tắc nhất định.
- QPXĐ luôn mang tính “dẫn chiếu” . Khi QPXĐ dẫn chiếu đến HTPL áp cụ thể
và các quy phạm thực chất trong HTPL đó để giải quyết QHDS phát sinh, đó chính là
tính chất “song hành”giữa quy phạm thực chất và QPXĐ trong điều chỉnh pháp luật.
II. Các trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung đột trong Tư
pháp quốc tế
1. Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng
Khái niệm về “trật tự công” là một thuật ngữ trừu tượng trong pháp luật hầu
hết các quốc gia, dưới góc độ TPQT được hiểu là trật tự pháp lý hình thành trên cơ sở
những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia. Qua đó có
thể hiểu bảo lưu trật tự công cộng là bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội
và pháp luật của một quốc gia.
Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở Khoản 4 Điều
759 BLDS 2005 “…nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng
không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam”. Như vậy, trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận là
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong Hiến pháp và ở một
số VBPL khác. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng chỉ áp
dụng đối với những quy định liên quan trái với trật tự công mà không phải là phủ

nhận toàn bộ HTPL nước ngoài.
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong TPQT đó là
việc sử dụng QPXĐ và nội dung pháp luật các nước có quy định khác nhau về cùng
một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công ở mỗi quốc gia là khác nhau.
TPQT điều chỉnh những QHDS có yếu tố nước ngoài, dẫn đến việc có thể sử dụng


pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc. Các QPXĐ chỉ đưa ra những nguyên tắc
chung để chọn luật áp dụng giữa những HTPL liên quan mà không trực tiếp quy định
cách giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan, mang tính chất dẫn
chiếu và điều chỉnh gián tiếp, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn chiễu
áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường trước
được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài có quy định trái với
trật tự công của quốc gia mình thì khi đó phải “bảo lưu trật tự công cộng”.
Khi bảo lưu trật tự công cộng, luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không được áp dụng.
Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. QPXĐ dẫn chiếu
tới HTPL nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không được áp dụng bởi nó trái với trật
tự công thì việc dẫn chiếu đó là vô nghĩa, hay chính là việc chọn một HTPL không áp
dụng được trên thực tế. Điều đó làm QPXĐ mất hiệu lực.
Ví dụ: Khi đăng ký kết hôn giữa một nữ công dân Việt Nam (A) và nam công
dân Iran (B). Iran là quốc gia hồi giáo, pháp luật nước này công nhận chế độ hôn nhân
đa thê. Theo Khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ 2014, thì các quy định của pháp luật về
HNGĐ của Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài,
trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy
định của ĐƯQT đó.
Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nước B kể cả việc
công nhận anh B có quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này nếu áp dụng quy định
tại khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan có thẩm quyền sẽ áp
dụng HTPL nước ngoài có nội dung vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật

Việt Nam”, vì pháp luật HNGĐ Việt Nam chỉ công nhận chế độ hôn nhân tiến bộ, một
vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật HNGĐ), do vậy, trong trường hợp này cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam có thể từ chối không áp dụng pháp luật nước ngoài đó để
bảo vệ trật tự công của Việt Nam, do tại khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ có quy
định: “… dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp
luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với
các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật này”.
Hệ quả tích cực của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng
pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của QPXĐ mà áp
dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong trường
hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc
gia để giải quyết mà không cần thông qua QPXĐ. Ví dụ: cơ quan có thẩm quyền sẽ
không áp dụng pháp luật nước ngoài quy định công nhận hôn nhân đa thê.
Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực ở đây là trường hợp pháp luật nước ngoài có thể
áp dụng nhưng hậu quả của việc áp dụng đó ảnh hưởng đến trật tự công quốc gia. Ví
dụ việc tòa án phải công nhận hiệu lực của một bản án hay quyết định do tòa án hoặc
trọng tài nước ngoài giải quyết hoàn toàn theo pháp luật nước ngoài.


Như vậy, các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở nước ta
phải rất cẩn trọng trọng viêc vận dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng, song thực
tiễn tư pháp cho thấy là rất hiếm các trường hợp phải vận dụng và trong trường hợp
phải bắt buộc vận dụng bao giờ cũng dựa trên những cơ sở pháp lý đứng đắn và khách
quan, bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc pháp chế XHCN.
2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba
Dẫn chiếu ngược có nghĩa là theo QPXĐ mà cơ qua




×