Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tìm hiểu hiện trạng rừng và các nguyên nhân dẫn tới suy thoái tài nguyên rừng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.96 KB, 22 trang )

Bài tiểu luận
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................2
A. PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài...............................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................4
4. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................5
5. Giới hạn nghiên cứu..........................................................................................5
6. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................5
7. Cấu trúc bài tiểu luận.........................................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................6
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.............................................................................6
1. Khái niệm về rừng.............................................................................................6
2. Vai trò của rừng.................................................................................................6
2.1 Vai trò phát triển kinh tế - xã hội.....................................................................6
2.2 Vai trò phòng hộ và bảo vệ môi trường sống..................................................7
3. Giải pháp phát triển trồng rừng........................................................................9
CHƯƠNG II. HIỆN TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH LÀM.................10
SUY THOÁI RỪNG Ở VIỆT NAM...................................................................10
1. Hiện trạng rừng ở Việt Nam............................................................................10
2. Nguyên nhân chính làm suy thoái rừng Việt Nam..........................................13
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TRỒNG RỪNG..............................16
1. Mục tiêu phát triển..........................................................................................16
2. Các giải pháp cấp bách....................................................................................17
C. PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................22


Bài tiểu luận


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, với tình cảm chân thành và lòng biết ơn
sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn - Giảng
viên Trường Đại học Quảng Bình, người đã tận tâm chỉ bảo hướng dẫn em qua
các buổi học cũng như các buổi trao đổi về đề tài nghiên cứu, cô là người đã
cung cấp cho bản thân em và các bạn trong lớp những kiến thức cần thiết để có
thể hoàn thành bài tiểu luận này.
Do điều kiện thời gian cũng như năng lực tự nghiên cứu và tiếp thu kiến
thức của bản thân còn hạn chế, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Em rất mong nhận được sự thông cảm và góp ý quý báu của cô để bài tiểu
luận hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng em xin kính chúc cô và gia đình sức khỏe, hạnh phúc và thành
công.
Em xin chân thành cảm ơn!


Bài tiểu luận
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vốn được mệnh danh là "lá phổi " của trái đất, rừng có vai trò rất quan
trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh
chúng ta. Bởi vậy, bảo vệ rừng và nguồn tài nguyên rừng luôn trở thành một nội
dung, một yêu cầu không thể trì hoãn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới
trong cuộc chiến đầy gian khó hiện nay nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị
huỷ hoại ở mức báo động mà nguyên nhân chủ yếu là do chính hoạt động của
con người gây ra.
Trên phạm vi toàn thế giới, chỉ tính riêng trong vòng 4 thập niên trở lại đây,
50% diện tích rừng đã bị biến mất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo tính
toán của các chuyên gia của Tổ chức nông - lương thế giới (FAO) thì hàng năm
có tới 11,5 triệu hecta rừng bị chặt phá và bị hoả hoạn thiêu trụi trên toàn cầu,

trong khi diện tích rừng trồng mới chỉ vẻn vẹn 1,5 triệu hecta. Rừng nguyên
sinh bị tàn phá, đất đai bị xói mòn dẫn tới tình trạng sa mạc hoá ngày càng gia
tăng. Nhiều loài động - thực vật, lâm sản quý bị biến mất trong danh mục các
loài quý hiếm, số còn lại đang phải đối mặt với nguy cơ dần dần bị tuyệt chủng.
Nghiêm trọng hơn, diện tích rừng thu hẹp trên quy mô lớn đã làm tổn thương "lá
phổi" của tự nhiên, khiến bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng, mất cân bằng, ảnh
hưởng xấu đến sức khoẻ con người và đời sống động, thực vật.v.v...
Là một quốc gia đất hẹp người đông, Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng
vào loại thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha rừng, trong khi mức bình
quân của thế giới là 0,97 ha/ người. Các số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2000
nước ta có khoảng gần 11 triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng
9,4 triệu hecta và khoảng 1,6 triệu hecta rừng trồng; độ che phủ của rừng chỉ đạt
33% so với 45% của thời kì giữa những năm 40 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, nhờ
có những nỗ lực trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước
về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, "phủ xanh đất trống đồi núi trọc" nên
nhiều năm gần đây diện tích rừng ở nước ta đã tăng 1,6 triệu hecta so với năm
1995, trong đó rừng tự nhiên tăng 1,2 triệu hecta, rừng trồng tăng 0,4 triệu hecta.


Bài tiểu luận
Công tác quản lí, quy hoạch tài nguyên rừng cũng có những chuyển động
tích cực. Trên phạm vi cả nước đã và đang hình thành các vùng trồng rừng tập
trung nhằm cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Chẳng hạn, vùng Đông bắc và
Trung du Bắc bộ đã trồng 300 nghìn hecta rừng nguyên liệu công nghiệp, Bắc
Trung bộ có 70 nghìn hecta rừng thông. Ngoài ra, hơn 6 triệu hecta rừng phòng
hộ và 2 triệu hecta rừng đặc dụng được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm bảo
vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học; có tới 15 vườn quốc gia và hơn 50
khu bảo tồn thiên nhiên được xây dựng, quy hoạch và quản lí... Trong 10 năm
qua, hàng năm giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt xấp xỉ 6 nghìn tỷ đồng, chiếm 57% giá trị sản lượng nông, lâm thuỷ sản.
Mặc dù có những kết quả tích cực trong quy hoạch, sản xuất cũng như

trong bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng, song nhìn chung chất lượng
rừng ở nước ta hiện nay vẫn còn rất thấp, rừng nước ta đã ít mà trong đó có tới
hơn 6 triệu hecta rừng nghèo kiệt, năng suất rừng trồng còn thấp. Đặc biệt,
nguồn tài nguyên rừng nước ta vẫn tiếp tục đứng trước những nguy cơ nghiêm
trọng như bị huỷ hoại, suy thoái, giảm sút và mất dần tính đa dạng sinh học của
rừng đã thực sự là những lời cảnh báo nghiêm khắc đối với chúng ta trong "sứ
mệnh" bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng nói riêng và bảo vệ môi trường
sống- chiếc nôi dung dưỡng sự sống của con người - nói chung. Vì vậy công tác
trồng rừng trở thành tính cấp thiết và cấp bách ở nước ta hiện nay. Đó là lí do em
chọn đề tài: Hiện trạng rừng Việt Nam và giải pháp phát triển trồng rừng.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu hiện trạng rừng và các nguyên nhân dẫn tới suy thoái tài nguyên
rừng ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời đề xuất giải pháp phát triển trồng rừng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
- Phân tích thực trạng rừng ở Việt Nam hiện nay
- Nguyên nhân suy thoái rừng Việt Nam
- Giải pháp phát triển trồng rừng
4. Đối tượng nghiên cứu


Bài tiểu luận
-Hiện trạng rừng Việt Nam hiện nay
- Giải pháp phát triển trồng rừng.
5. Giới hạn nghiên cứu
Nghiên cứu giải pháp phát triển trồng rừng nhằm nâng cao chất lượng rừng
ở Việt Nam hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu, tổng hợp tài liệu
- Phương pháp điều tra

- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
7. Cấu trúc bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung bao gồm:
Chương I: Cơ sở lí luận
1. Khái niệm về rừng
2. Vai trò của rừng
3. Giải pháp phát triển trồng rừng
Chương II: Hiện trạng và nguyên nhân chính làm suy thoái rừng ở Việt
Nam
1.Hiện trạng rừng ở Việt Nam
2.Nguyên nhân suy thoái rừng ở Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển trồng rừng
1. Mục tiêu phát triển
2. Các giải pháp cấp bách


Bài tiểu luận
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm về rừng
Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về
rừng. Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng
phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học
thuyết về rừng.
Năm 1817, H.Cotta (người Đức) đã xuất bản tác phẩm Những chỉ dẫn về
lâm học, đã trình bày tổng hợp những khái niệm về rừng. Ông có công xây dựng
học thuyết về rừng có ảnh hưởng đến nước Đức và châu Âu trong thế kỷ 19.
Năm 1912, G.F.Morodop công bố tác phẩm Học thuyết về rừng. Sự phát
triển hoàn thiện của học thuyết này về rừng gắn liền với những thành tựu về sinh
thái học.

Năm 1930, Morozov đưa ra khái niệm: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có
mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và
trong khí quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của
cảnh quan địa lý.
Năm 1952, M.E. Tcachenco phát biểu: Rừng là một bộ phận của cảnh quan
địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi
sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và
ảnh hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài.
Năm 1974, I.S. Mê-lê-khôp cho rằng: Rừng là sự hình thành phức tạp của
tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu.
2. Vai trò của rừng
2.1. Vai trò phát triển kinh tế - xã hội
Trong các sản phẩm do tài nguyên rừng mang lại phải kể đến gỗ. Sản phẩm
gỗ cung cấp cho nghành công nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp xây dựng cơ
bản, giao thông vận tải và trong mỗi gia đình. Ngày nay, hầu như không có một
nghành nào không dùng tới gỗ, vì nó là nguyên liệu phổ biến, dễ gia công, chế
biến và nhiều tính năng ưu việt khác nên được nhiều người sử dụng. Trong quá


Bài tiểu luận
trình phát triển của xã hội, dưới tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ,
người ta đã sản xuất ra nhiều sản phẩm thay thế gỗ. Tuy nhiên, nhu cầu về gỗ và
các sản phẩm về gỗ không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngoài sản phẩm gỗ, rừng còn cung cấp các sản phẩm ngoài gỗ như: tre,
nứa, song mây, các loại đặc sản rừng, động vật, thực vật rừng có giá trị cho tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Các động vật từ rừng là các sản phẩm quý hiếm
và có giá trị kinh tế cao. Đối với thực vật rừng, có rất nhiều loại được dùng làm
thực phẩm như nấm, mộc nhĩ, măng, các loại rau rừng… Rừng còn là nguồn
cung cấp các dược liệu quý hiếm phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và nâng cao
sức khỏe cho con người.

Mặt khác, rừng còn cung cấp gỗ và các đặc sản cho tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu cho nên đã tạo ra nguồn thu nhập về tài chính cho ngân sách Trung
ương và địa phương, góp phần vào quá trình tích lũy cho nền kinh tế quốc dân.
Rừng cũng là nguồn thu nhập chính của cư dân sống gần rừng. Lâm nghiệp thực
hiện chính sách giao đất, giao rừng đến hộ gia đình và cộng đồng địa phương, đã
thu hút cư dân địa phương tham gia vào các hoạt động trồng, nuôi dưỡng, chăm
sóc, bảo vệ rừng, khai thác và chế biến lâm sản, góp phần vào việc tạo công ăn
việc làm cho người lao động, giải quyết một vấn đề bức xúc hiện nay vùng trung
du và miền núi.
2.2. Vai trò phòng hộ và bảo vệ môi trường sống
* Về tác dụng phòng hộ:
Rừng có khả năng cải tạo khí hậu, ngăn cản gió nóng, gió lạnh, hạn chế tác
hại của gió bão, bảo vệ mùa màng nông ngiệp và nâng cao năng suất hoa màu.
Trên những vùng đất bị úng nước, chua phèn, rừng tràm có tác dụng cải tạo đất
từ hoang hóa thành vùng sản xuất thuận lợi. Ở những vùng núi cao, rừng có tác
dụng phòng hộ đầu nguồn, nuôi dưỡng nguồi nước, điều tiết nước và cung cấp
nước cho các dòng sông, chống lại mọi sự biến động nguy hại khác cho dòng
chảy như làm giảm các chất lắng đọng trong các dòng sông, góp phần ngăn chặn
hiện tượng bồi đắp của các hồ chứa nước, các hệ thống tưới tiêu của sông, các
công trình thủy điện. Ở những vùng ven biển, rừng cây ngập mặn không chỉ


Bài tiểu luận
chống gió bão mà còn ngăn chặn sự di động của các cồn cát phủ ven biển, cố
định phù sa tạo điều kiện cho đất bồi tụ, chắn sóng và bảo vệ đê ven biển. Đặc
biệt, rừng chống cát bay ở vùng ven biển Miền Trung đã ngăn cản cát vùi lấp
xóm làng, nhà cửa, đường xá… và biến vùng đất cát trắng thành vùng đất canh
tác... Chính vì tác dụng phòng hộ nói trên, người ta đã ví “rừng là người vệ sĩ
của nhà nông”.
* Về tác dụng cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường sống:

Khoa học ngày nay đã đủ dẫn liệu chứng minh rằng rừng là lớp thảm thực
vật có tác dụng lớn nhất trong việc chống ô nhiễm môi trường. Rừng là “lá phổi
xanh” của trái đất thải ra 02 và hấp thụ C02 của khí quyển trong quá trình đồng
hóa của cây xanh đối với môi trường. Rừng tạo ra sự trong sạch bầu khí quyển,
giữ cân bằng lượng 02 và C02 trong khí quyển, duy trì sự sống trên hành tinh
của chúng ta. Rừng là tấm màn xanh coi giữ và làm sạch các nguồn nước, tục
ngữ Ấn Độ có câu “rừng là nguồn nước, nước là sự sống”. Vì vậy, số phận của
rừng là số phận của hành tinh chúng ta “nếu rừng nhiệt đới không còn sẽ có
khoảng 1 tỷ người không có nguồn sống”. Theo tính toán khoa học, mỗi quốc
gia cần có ít nhất 1/3 diện tích rừng che phủ phải phân bố đều trên diện tích cả
nước và phân bố trọng điểm là vùng đầu nguồn. Xã hội càng phát triển, vai trò
của rừng càng trở nên cực kỳ quan trọng. Hiệu quả cân bằng sinh thái của rừng
không chỉ tính bằng những giá trị kinh tế thông thường. Có thể nói chắc chắn
thảm thực bì rừng không còn thì sự sống trên hành tinh chúng ta cũng sẽ bị mất
theo.
Ngoài hai tác dụng cung cấp và tác dụng phòng hộ, duy trì cân bằng sinh
thái, bảo vệ môi trường sống, rừng còn có tác dụng quốc phòng, hình ảnh rừng
là căn cứ địa cách mạng “rừng che bộ đội rừng vây quân thù” rất gần gũi với
truyền thống lịch sử chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Rừng còn có giá trị
xã hội, cảnh quan du lịch, làm tăng vẻ đẹp cho non sông đất nước. Rừng là nơi
tham quan, du lịch, nghỉ mát, rừng và cảnh quan rừng có thể làm tăng sức khỏe
cho con người, làm mạnh thêm quan niệm về đạo đức.


Bài tiểu luận
3. Giải pháp phát triển trồng rừng
Trồng rừng là việc hết sức quan trọng của ngành lâm nghiệp để tạo ra rừng,
làm cho vốn rừng được duy trì và phát triển nhằm bảo vệ môi trường; đáp ứng
nhu cầu gỗ, củi và các lâm đặc sản khác cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu;
tạo việc làm,tăng thu nhập cho người lao động nhất là nông dân nông thôn miền

núi. Trong những thập niên qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm
đến công tác trồng cây gây rừng, từ việc ban hành hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật,quy trình quy phạm kỹ thuật, đến việc tạo cơchế chính sách khuyến
khích các nguồn lực và tăng cường các giải pháp, biện pháp chỉ đạo trồng rừng.
Năm 1959 Hồ chủ tịch phát động “tết trồng cây” đã cổvũ mạnh mẽ phong trào
trồng cây gây rừng trong nhân dân từ miền ngược đến miền xuôi, từ thành thị
đến nông thôn, “tết trồng cây” đã trở thành một phong tục tốt đẹp của nhân dân
ta mỗi khi mùa xuân đến. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính
sách, các văn bản hướng dẫn, các giải pháp tổng hợp triển khai thực hiện đã và
đang phát huy có hiệu quả. Tuy nhiên, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội ở các địa phương nên việc vận dụng các văn bản trên vào công
tác trồng rừng không hoàn toàn giống nhau. Điều này đòi hỏi phải quảng bá đến
các tổchức, cộng đồng thôn bản, hộ gia đình và cá nhân về những quy định của
pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến các hoạt động trồng rừng và các biện
pháp kỹ thuật liên quan đến công tác trồng rừng. Để phần nào giúp các tổchức,
cộng đồng thôn bản, hộ gia đình và cá nhân hiểu rõ hơn về công tác trồng rừng,
trong “Cẩm nang ngành Lâm nghiệp” đã trình bày chương Trồng rừng nhằm
giới thiệu khái quát về lịch sử và đánh giá công tác trồng rừng, ảnh hưởng của
việc trồng rừng đến môi trường sinh thái và kinh tế- xã hội, khung pháp lý và thể
chế chính sách cho các hoạt động trồng rừng; khái quát về quản lý và quy hoạch
trồng rừng; các bước lập kế hoạch, thiết kế dựtoán và biện pháp kỹ thuật trồng
rừng ở Việt Nam trong thời gian qua.


Bài tiểu luận
CHƯƠNG II. HIỆN TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH LÀM
SUY THOÁI RỪNG Ở VIỆT NAM
1. Hiện trạng rừng ở Việt Nam
Rừng Việt Nam biến động qua các năm:
Năm

1943
1967

Rừng tự nhiên Rừng trồng
14000
0
11077
92

Diện tích
14000
11169

tỷ lệ che phủ(%)
43,0%
33,8%

1980
1985
1990
1995

10486
9308
8430
8252

10608
9892
9175

9320

32,1%
30,2%
27,8%
28,2%

422
584
745
1050

Năm 1943, diện tích rừng Việt Nam ước tính có khoảng 14 triệu ha, với tỷ lệ
che phủ là 43%. Năm 1976 giảm xuống còn 11 triệu ha với tỉ lệ che phủ là 34%.
Năm 1995 còn 8 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 28%. Diện tích rừng bình quân cho
1 người là 0,13 ha ( 1995), thấp hơn mức trung bình ở vùng Đông Nam Á ( 0,42
ha/ người).
Trong thời kỳ 1945- 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân
100.000 ha/năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975- 1990:
mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000 ha/năm. Trong một thời gian dài, diện tích
rừng Việt Nam giảm đi liên tục (năm 1943 là 14, 3 triệu ha và năm 1993 chỉ còn
9, 3 triệu ha). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, diện tích rừng có xu hướng
tăng lên rõ rệt. Đến cuối năm 1999, tổng diện tích có rừng cả nước là 10, 9 triệu
ha (chiếm 33, 2% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc), trong đó rừng tự nhiên là
9,4 triệu ha và rừng trồng là 1,5 triệu ha.
Hiện nay diện tích đất rừng ở Việt Nam được quy hoạch là 19 triệu ha,
trong đó 9,3 triệu ha là có rừng che phủ, còn lại là cây bụi, rừng thưa và bãi cỏ,
đất trống chưa sử dụng.
-Tính đến 2010, tổng diện tích tự nhiên các đơn vị được giao theo quyết
định và quy hoạch cho các dự án trồng rừng là: 176.117 ha, bao gồm



Bài tiểu luận
Đất rừng sản xuất; 129.948ha - Rừng tự nhiên: 30.786 ha - Rừng trồng:
42.643 ha - Đất trống: 56.519 ha
Đất rừng phòng hộ: 30.861 ha - Rừng tự nhiên: 13.573 ha - Rừng trồng:
7.123 ha - Đất trống: 10.165 ha.
Đất rừng đặc dụng: 631.8 ha.
Đất khác: 14.677 ha.
Đất dự kiến trả về địa phương: 35.853 ha
Về cơ bản công tác rò soát đất đai của tổng công ty lam nghiệp việt Nam đã
thực hiện song, các đơn vị trực thuộc đang thực hiện quy hoạch sử dụng đất đai
và đang khẩn trương hoàn thành thủ tục với các ban ngành của tunhr để được
thuê đất, cấp giấy chứng nhận để sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Các số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2000 nước ta có khoảng gần 11
triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 9,4 triệu hecta và khoảng
1,6 triệu hecta rừng trồng; độ che phủ của rừng chỉ đạt 33% so với 45% của thời
kì giữa những năm 40 của thế kỉ XX
Trên phạm vi toàn thế giới, chỉ tính riêng trong vòng 4 thập niên trở lại đây,
50% diện tích rừng đã bị biến mất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo tính
toán của các chuyên gia của Tổ chức nông - lương thế giới (FAO) thì hàng năm
có tới 11,5 triệu hecta rừng bị chặt phá và bị hoả hoạn thiêu trụi trên toàn cầu,
trong khi diện tích rừng trồng mới chỉ vỏn vẹn 1,5 triệu hecta. Rừng nguyên sinh
bị tàn phá, đất đai bị xói mòn dẫn tới tình trạng sa mạc hoá ngày càng gia tăng.
Nhiều loài động - thực vật, lâm sản quý bị biến mất trong danh mục các loài quý
hiếm, số còn lại đang phải đối mặt với nguy cơ dần dần bị tuyệt chủng. Nghiêm
trọng hơn, diện tích rừng thu hẹp trên quy mô lớn đã làm tổn thương "lá phổi"
của tự nhiên, khiến bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng, mất cân bằng, ảnh hưởng
xấu đến sức khoẻ con người và đời sống động, thực vật.v.v...
Diện tích rừng phân bố không đều trong các vùng. Nhóm vùng có trên 2

triệu ha rừng gồm vùng Tây Nguyên, vùng Đông Bắc và vùng Bắc Trung Bộ.
Nhóm vùng có từ 1 - 1, 5 triệu ha rừng gồm vùng Đông Nam Bộ và vùng duyên
hải Nam Trung Bộ. Nhóm vùng có dưới 1 triệu ha rừng gồm vùng Tây Bắc,


Bài tiểu luận
vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Vùng có nhiều rừng
trồng nhất là vùng Đông Bắc (478 nghìn ha), kế đến là vùng Bắc Trung Bộ.
Nhóm vùng có diện tích rừng trồng từ 160 - 200 nghìn ha gồm vùng đồng bằng
sông Cửu Long, vùng duyên hải Nam Trung bộ và vùng Đông Nam bộ. Nhóm
vùng có diện tích rừng trồng nhỏ hơn 80 nghìn ha gồm vùng Tây Bắc, vùng
đồng bằng sông Hồng và vùng Tây Nguyên. (Biểu 1A).
Với vốn rừng như trên, chỉ tiêu về diện tích rừng bình quân đầu người của
nước ta được xếp vào loại thấp, chỉ đạt khoảng 0, 14 ha/người so với chỉ tiêu
tương ứng của thế giới là 0, 97 ha/người.
Tổng trữ lượng gỗ cả nước là 751, 5 triệu m3 và 8, 4 tỷ cây tre nứa, trong
đó trữ lượng gỗ rừng trồng là 30, 6 triệu m3 (chiếm 4, 1% tổng trữ lượng gỗ) và
96 triệu cây tre nứa (chiếm 1, 1 % tổng trữ lượng tre nứa cả nước). Như vậy, chỉ
tiêu trữ lượng gỗ bình quân đầu người của nước ta là 9, 8 m3 gỗ/người so với
chỉ tiêu tương ứng của thế giới là 75 m3 gỗ/người.
Tuy diện tích rừng có tăng nhưng chất lượng rừng ngày càng giảm sút. Đối
với rừng tự nhiên, diện tích rừng gỗ giàu và rừng gỗ trung bình hiện nay chỉ còn
khoảng 1, 4 triệu ha (chiếm 13% so với tổng diện tích có rừng) trong khi diện
tích rừng gỗ nghèo kiệt, rừng gỗ non có trữ lượng và không có trữ lượng khoảng
6 triệu ha (chiếm 55% so với tổng diện tích có rừng). Đối với rừng trồng, tỷ lệ
thành rừng thấp (chỉ đạt 60 - 75%), năng suất không cao (bình quân từ 8 - 10
m3/ha/năm) và chất lượng rừng cũng kém. Hiện tại, rừng trồng mới chỉ cung cấp
gỗ có kích thước nhỏ, còn gỗ có kích thước lớn vẫn rất hạn chế. Về cây trồng,
những loài cây bản địa vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ và chưa được trồng
thành rừng trên diện rộng mà chủ yếu vẫn là những loài cây nhập nội, mọc

nhanh như Bạch đàn, Keo và Thông các loại (chiếm 54% so với tổng diện tích
rừng trồng).Diện tích đất trống đồi núi trọc còn khá lớn, khoảng 8, 3 triệu ha
(chiếm 25, 1% diện tích toàn quốc), trong đó tập trung nhiều nhất ở các vùng núi
phía Bắc (khoảng 4, 3 triệu ha, chiếm 41, 6% diện tích tự nhiên toàn vùng) kế
đến là vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ (khoảng 2, 8 triệu ha,
chiếm 29, 4% diện tích tự nhiên 2 vùng này).


Bài tiểu luận
Ngoài tài nguyên gỗ, rừng Việt Nam cũng rất giàu có về các loài tre nứa
( khoảng 40 loài có ý nghĩa thương mại, và khoảng 4 tỷ cây tre nứa ); Song mây
có khoảng 400 loài được sử dụng làm bàn ghế, dụng cụ gia đình; hằng năm khai
thác khoảng 50.000 tấn.Theo điều tra của cục Kiểm lâm, hệ thực vật Việt Nam
rất phong phú với 12.000 loài thực vật có mạch (đã định tên được khoảng 7.000
loài), 620 loài nấm, 820 loài rêu. Hơn 2.300 loài thực vật đã được sử dụng làm
lương thực, thực phẩm, thuốc chưa bệnh, thức ăn gia súc, lấy gỗ, tinh dầu, vật
liệu xây dựng. Hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao, tập trung ở 4 vùng
chính là Hoàng Liên Sơn. Trong đó có một số loài quý hiếm như: gõ đỏ, gụ mật,
hoàng liên chân gà, pơ mu…Nhiều loài cây có chất thơm, tanin, tinh dầu và dầu
béo. Ngoài ra rừng con cung cấp nhiều laọi sản phẩm quý khác như cánh kiến,
nấm, mật ong, hoa lan, thịt thú rừng...Nhiều loài cây đặc hữu như lim, săng lẻ, tô
hạp là những cây thường xanh. Dây leo và cây nửa phụ sinh có khoảng 750 loài,
thường trong họ Na, họ Gắm. Cây phụ sinh có hơn 600 loài thuộc các họ phong
lan, họ Mã tiền. Cây kí sinh có khoảng 50 loài thuộc họ tầm gửi, họ đàn hương.
Hiện nay, có rất nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần
được bảo vệ như: cẩm lai, trầm hương ở Bạch Mã, sam bông, thông tre ở Tam
Đảo...
Hệ động vật cũng rất phong phú với khoảng 280 loài thú, 828 loài chim,
180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 471 loài cá nước ngọt, khoảng 2.500 loài cá
biển và 5.500 loài côn trùng. mức độ đặc hữu rất cao: 78 loài và loài phụ thú,

hơn 100 loài và loài phụ chim, 7 loài linh trưởng là những loài đặc hữu đẹp của
Việt Nam. Trong thế kỷ XX, 10 loài thú mới đã được phát hiện trên thế giới thì
tại nước ta 4 loài: sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, mang Pù Hoạt. Các loài
động vật quý hiếm như: báo gấm, voọc quần đùi trắng ở Cúc Phương, gà lôi
hồng tía, trĩ sao ở Bạch Mã...
2.Nguyên nhân chính làm suy thoái rừng Việt Nam
Việt Nam đã và đang cố gắng trong việc bảo vệ rừng và đa dạng sinh học
nhưng việc suy thoái rừng và đa dạng sinh học vẫn đang diễn ra một cách mạnh


Bài tiểu luận
mẽ ở nhiều nơi. Nguyên nhân có nhiều và có thể chia ra làm hai loại: Nguyên
nhân trực tiếp và nguyên nhân sâu xa.
Nguyên nhân trực tiếp:
- Sự mở rộng đất nông nghiệp: Mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng
cách lấn sâu vào đất rừng là một nguyên nhân quan trong nhất làm suy thoái đa
dạng sinh học. Trong tổng diện tích rừng mất hằng năm thì khoảng 40- 50% là
do đốt nương làm rẫy. Việc phát triển trồng cây công nghiệp một cách thiếu kế
hoạch như cà phê, tiêu ở các tỉnh thuộc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ đang phá
huỷ nhiều khu rừng nguyên thuỷ ở đây.
- Khai thác gỗ: Trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1991, các lâm trường
quốc doanh đã khai thác trung bình 3,5 triệu mét khối gỗ mỗi năm và nếu quy ra
diện tích đất thì bằng 80.000 ha rừng, đó là chưa nói đến hậu quả của nạn khai
thác trộm gỗ xảy ra khắp mọi nơi, thậm chí cả trong các khu bảo tồn. Kết quả là
rừng đã bị suy giảm nhanh chóng cả về diện tích lẫn chất lượng.
- Khai thác củi: Trong phạm vi toàn quốc, 90% năng lượng dùng cho gia
đình, là các sản phẩm từ thực vật. Hàng năm, một lượng củi khoảng 21 triệu tấn
được khai thác từ rừng để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình. Lượng
củi này nhiều gấp lần lượng gỗ xuất khẩu hàng năm.
- Khai thác các sản phẩm ngoài gỗ: Khoảng 2.300 loài thực vật đã cho các

sản phẩm ngoài gỗ như song, mây, tre, nứa, lá các loại, cây thuốc, dầu, nhựa...
được sử dụng trong gia đình, bán và xuất khẩu. Nhiều loại động vật hoang dã
cũng đang bị khai thác mạnh mẽ cho mục đích xuất khẩu.
- Cháy rừng: Trong khoảng 9 triệu hecta rừng hiện nay, thì 56% có khả
năng bị cháy trong mùa khô. Trunh bình hàng năm có khoảng 20.000-100.000
ha rừng bị cháy, nhất là ở các vùng cao nguyên và miền Trung.
- Buôn bán các loài quý hiếm: Tình trạng khai thác, buôn bán trái phép,
xuất khẩu các loại gỗ quý hiếm, các loại động vật hoang dã, vi phạm pháp lệnh
bảo vệ rừng trong những năm vừa qua xảy ra ở mức độ khá nghiêm trọng.
Nguyên nhân sâu xa:
- Tăng dân số: Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính


Bài tiểu luận
là suy thoái đa dạng sinh học ở miền núi. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu
cầu sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất
nông nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái
nghiêm trọng về các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên.
- Sự di dân: Từ những năm 1960, Chính phủ đã động viên khoảng 1 triệu
người từ vùng đồng bằng lên khai hoang và sinh sống ở các miền núi. Cuộc vận
động này đã làm thay đổi cơ cấu dân số và tập quán canh tác ở miền núi. Từ
những năm 1990, đã có nhiều đợt di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung
Bộ vào các tỉnh phía Nam. Gần đây người di cư tự do từ các tỉnh vùng núi phía
Bắc di cư vào cao nguyên miền Trung và miền Đông Nam Bộ đã phá nhiều rừng
để trồng lúa, trồng cà phê và các cây công nghiệp khác. Nhiều người vẫn tưởng
dân cư miền núi thưa thớt, nhưng hiện nay mật độ trung bình là 75 người/km2,
trong khi diện tích đất có khả năng canh tác nông nghiệp ở đây vốn dĩ đã rất hạn
hẹp và ngày càng bị suy thoái.
- Sự nghèo đói: Với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam là
một nước nông nghiệp phụ thuộc và tài nguyên thiên nhiên. Đất nông nghiệp ở

nhiều nơi thiếu nghiêm trọng và nhiều người phải sống dựa vào rừng, đời sống
rất thấp, khoảng 50% gia đình thuộc vào diện đói nghèo. Vì thiếu ruộng, thiếu
vốn đầu tư, những người nghèo đói thường phải đến sinh sống tại những nơi
không thuận lợi, phải bóc lột đất và tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc sống
làm cho các loại tài nguyên này bị suy thoái nhanh chóng.
- Tập quán du canh du cư: Du canh là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu
đời của nhiều dân tộc ít người của Việt Nam. Có khoảng 9 triệu người thuộc 50
dân tộc ít người ở Việt Nam có tập quán du canh. Do tăng dân số mà tập quán du
canh đã trở thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và
kết quả là đã tạo nên cả một vùng đất trống, đồi núi trọc rộng lớn như hiện nay...


Bài tiểu luận
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TRỒNG RỪNG
Mặc dù hàng năm diện tích rừng trồng mới không phải nhỏ, song tốc độ tàn
phá rừng lại lớn hơn nhiều, làm nhiều khu rừng hoang hoá trơ trọi, trở thành đất
trống. Rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ đầu nguồn cũng bị tàn phá. Vì vậy, đã
kéo theo bao hậu quả khôn lường như một số loài lâm sản cùng một số loài thú
quý hiếm có nguy cơ diệt chủng.
Rừng bị tàn phá như vậy đã ảnh hưởng xấu đến hệ môi trường sinh thái và
gây ra lũ lụt nghiêm trọng trong những năm vừa qua, ảnh hưởng đến sản xuất và
đời sống nhân dân...
Sở dĩ có tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân, song có một số nguyên
nhân cơ bản. Thứ nhất, hầu hết rừng và đất rừng chưa có chủ cụ thể, nông dân
chưa có động lực kinh tế để tham gia bảo vệ và phát triển rừng.
Tốc độ trồng rừng chậm, năng suất, chất lượng thấp. Hai là, tình trạng
nghèo đói của đồng bào miền núi, cùng việc du canh du cư và di dân tự do của
đồng bào các tỉnh miền xuôi lên miền núi phía Bắc vào phía Nam và Tây
Nguyên.
Ba là, về phía các đơn vị thuộc Nhà nước đã thực hiện việc khai thác lạm

dụng vốn rừng. Ngoài ra, còn do cháy rừng, chiến tranh, xây dựng hồ đập, cùng
với nạn buôn lậu gỗ cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho diện tích rừng bị
suy giảm.
1. Mục tiêu phát triển
Để phát triển mạnh trồng rừng, phủ xanh đất trồng đồi núi trọc hướng tới
đóng cửa rừng tự nhiên phải thực hiện tốt một số mục tiêu.
Một là, nâng cao năng lực phòng hộ rừng quốc gia bằng cách bảo vệ 9,3
triệu ha rừng hiện có, khoanh nuôi tái sinh 1 triệu ha, trồng mới 5 triệu ha, đưa
tỷ lệ che phủ của rừng lên 45% kết hợp với khoanh nuôi và trồng cây công
nghiệp lâu năm để đưa độ che phủ lên hơn 60%.
Hai là, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống
của hơn 20 triệu nông dân sinh sống trong khu vực có rừng. Phấn đấu đến năm


Bài tiểu luận
2010 bình quân 1 người dân miền núi đạt 70-100 USD/năm và mỗi hộ khoảng
350-500 USD/năm thu nhập từ rừng.
Ba là, cung cấp gỗ, củi đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước ước tính ở
mức tối thiểu cho các giai đoạn như sau: Gỗ xây dựng cơ bản năm 2005 là 1
triệu mét khối và năm 2010 là 1,5 triệu mét khối; nguyên liệu giấy theo thời
điểm tương ứng hơn là 4 triệu mét khối và 6 triệu mét khối và 2,5 triệu mét khối;
nguyên liệu ván nhân tạo 2 triệu mét khối và 3 triệu mét khối, gỗ gia dụng 2
triệu mét khối và 2,5 triệu mét khối; nhu cầu tiêu dùng khác 0,35 triệu mét khối
và 0,5 triệu mét khối; tổng cộng về gỗ 9,35 triệu mét khối và 13,5 triệu mét
khối, về củi 14,4 triệu mét khối và 10 triệu mét khối.
Bốn là, xây dựng vốn rừng để đáp ứng nhu cầu cao hơn trong tương lai xa
và tiến tới xuất khẩu sản phẩm gỗ.
Năm là, tiếp tục đóng cửa rừng vĩnh viễn đối với rừng đặc dụng và đóng
cửa rừng 30 năm đối với rừng phòng hộ rất xung yếu. Trong tổng số 35 tỉnh có
rừng tự nhiên, thực hiện đóng cửa rừng ở 18 tỉnh, chỉ mở cho khai thác hạn chế

ở 18 tỉnh với sản lượng lấy ra là 300.000 mét khối gỗ/năm.
Sáu là, trồng và kinh doanh nuôi tái sinh rừng phòng hộ, rừng đặc dụng bảo
đảm trồng mới 2 triệu ha rừng loại này, gồm 1.805.000 ha rừng đầu nguồn gắn
với công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, chống lũ quét; 60.000 ha rừng phòng hộ chắn
sóng biển và vùng ngập mặn; 70.000 ha rừng phòng hộ môi trường các thành
phố, khu công nghiệp.
Bảy là, trồng rừng sản xuất và trồng cây phân tán để đáp ứng yêu cầu tiêu
dùng gỗ, củi trong nước khoảng 3 triệu ha rừng tập trung với: 1 triệu ha nguyên
liệu giấy; 0,5 triệu ha ván nhân tạo; 0,08 triệu ha gỗ trụ mỏ; 0,45 triệu ha gỗ xây
dựng cơ bản; 0,30 triệu ha rừng đặc sản và 0,30 triệu ha rừng tre, luồng, trúc.
Tám là, trồng cây phân tán, phấn đấu đạt 350-400 triệu cây/năm, cung cấp
2 triệu mét khối gỗ và 5 triệu mét khối củi.
2. Các giải pháp cấp bách
Cũng theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, để thực hiện mục tiêu
trên có hiệu quả cần thực hiện đồng bộ một số biện pháp:


Bài tiểu luận
- Cần phải đóng cửa rừng tự nhiên, muốn vậy phải giảm số lâm trường
đang khai thác từ 241 xuống còn 105 chỉ khai thác chọn ở một số tiểu khu còn
nhiều rừng và trung bình; chuyển 136 lâm trường không khai thác rừng tự nhiên
sang hoạt động công ích làm nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng, trồng rừng, dịch vụ
khuyến nông, khuyến lâm; giảm số tiểu khu đã hoạch định cho khai thác từ 1252
xuống còn 501; giảm diện tích khai thác chọn hàng năm từ 25.000 ha xuống còn
12.000 ha/năm; giảm lượng khai thác từ 620.000 mét khối xuống còn 300.000
mét khối gỗ/năm vào năm 2000 để đảm bảo nhu cầu thiết yếu trong nước.
- Phát triển việc chế biến lâm sản để tạo ra thị trường tiêu thụ hết gỗ rừng
bao gồm: xây dựng mới và nâng cấp các nhà máy giấy có công suất 50.000
tấn/năm trở lên ở khu bốn cũ, Duyên Hải Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ
và Tây Nam Bộ; các nhà máy ván nhân tạo có công suất 35.000-54.000 mét khối

sản phẩm/năm tại Hoà Bình, Gia Lai, Thái Nguyên, Long An, Đồng Nai, Thanh
Hoá, Bình Thuận; phát triển các nhà máy ván dăm quy mô nhỏ với công suất
5.000-15.000 mét sản phẩm/năm trên địa bàn huyện. Đầu tư nâng cao chất lượng
chế biến song, mây, tre, trúc ở Cao Bằng, Khánh Hoà, Kon Tum, - Đồng Nai và
Hà Nội; đầu tư nâng cao chất lượng chế biến nhựa thông tại Quảng Ninh, Nghệ
An, Lâm Đồng...với công suất 2000-4000 tấn/ năm.
- Đẩy mạnh thực hiện định canh định cư và xoá đói giảm nghèo, từng bước
hạn chế đi tới chấm dứt tình trạng di dân tự do để hạn chế tình trạng suy giảm
vốn rừng.
- Thực hiện tốt 5 chính sách. Trước hết, về chính sách giao đất giao rừng,
cần phải làm rõ người chủ cụ thể và đích thực của từng khu rừng theo hướng các
ban quản lý rừng (chủ là nhà nước) được giao quản lý, bảo vệ và xây dựng các
khu rừng đặc dụng, phòng hộ rất xung yếu và xung yếu; các lâm trường quốc
doanh và các tổ chức Nhà nước khác được giao quản lý bảo vệ và sử dụng các
khu rừng sản xuất, rừng phòng hộ không thuộc loại rất xung yếu có quy mô tập
trung, ở vùng thưa dân, cơ sở hạ tầng kém phát triển; mọi tổ chức, hộ gia đình cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được giao quản lý, bảo vệ và quản lý rừng
sản xuất, rừng phòng hộ cục bộ, không thuộc loại rừng rất xung yếu, phân bố rải


Bài tiểu luận
rác ở giữa các khu dân cư; các tổ chức Nhà nước được giao đất, giao rừng tiếp
tục khoán ổn định lâu dài cho các hộ gia đình và cá nhân trên địa bàn theo Nghị
định số 01/CP.
Đồng thời làm rõ quyền lợi và trách nhiệm đối với từng loại chủ rừng,
trong đó bảo đảm cho người nhận bảo vệ, khoanh nuôi và trồng rừng có được lợi
ích thoả đáng phù hợp với công sức bỏ ra; đặc biệt là đối với hộ nông dân được
giao hoặc khoán rừng tự nhiên để bảo vệ, khoanh nuôi và làm giàu rừng, ngoài
các khoản tiền công và khoán hoặc hỗ trợ của Nhà nước khi rừng được phép
khai thác, chủ rừng được hưởng một phần sản phẩm khai thác và nộp thuế tài

nguyên bình đẳng như đối với các chủ rừng thuộc Nhà nước.
Có chính sách hợp lý về vốn cho phát triển rừng theo hướng thực hiện quan
điểm khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước có nguồn lực
đầu tư vào lĩnh vực trồng rừng, bảo về, chăm sóc rừng; ngân sách Nhà nước chỉ
đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng nghiên cứu khoa học kỹ thuật,
khuyến lâm, xây dựng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ rất xung yếu và đầu tư hỗ
trợ các đối tượng chính sách, các tổ chức Nhà nước trồng và bảo vệ, chăm sóc
rừng sản xuất, rừng phòng hộ không thuộc loại rất xung yếu.
- Đẩy mạnh việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trồng và phát triển rừng,
đặc biệt chú trọng xác định các nội dung ưu tiên để Nhà nước đầu tư nghiên cứu
như: tuyển chọn, nhập khẩu, lai tạo các loại giống cây rừng có năng suất sinh
học cao, phẩm chất tốt, nhiều tác dụng để trồng rừng; các biện pháp kỹ thuật để
khoanh nuôi làm giàu rừng, trồng rừng thâm canh đi đôi với bảo vệ và cải tạo
đất; các loại vật liệu thay thế gỗ rừng tự nhiên và nhiên liệu thay thế củi.
- Có chính sách thay thế gỗ, củi: đối với gỗ có chính sách áp dụng công
nghệ mới để tiết kiệm gỗ và thay thế gỗ rừng trồng cho gỗ lấy ra từ rừng tự
nhiên để sản xuất các loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu;
đối với củi có chính sách khuyến khích nhân dân trồng cây mọc nhanh để tạo
nguồn củi, phát triển việc sử dụng các loại chất đốt từ than, khí đốt, bi-ô-ga...để
hạn chế dùng củi làm chất đốt từ rừng tự nhiên.
- Có chính sách thuế hợp lý để khuyến khích trồng rừng và phát triển các


Bài tiểu luận
loại cơ sở chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng làm nguyên liệu thay thế cho gỗ
lấy ra từ rừng tự nhiên. Đề nghị Nhà nước miễn thuế sử dụng đất để trồng rừng
trên đất lâm nghiệp và miễn thuế tài nguyên cho chủ rừng khai thác lâm sản phụ
từ rừng tự nhiên được giao.
Đồng thời, miễn thuế nhập khẩu thiết bị, công nghệ chế biến gỗ rừng trồng,
giảm thuế doanh thu ngành sản xuất ván nhân tạo bằng thuế suất của ngành sản

xuất giấy. Mặt khác miễn thuế lợi tức trong thời hạn 8 năm cho các tổ chức và cá
nhân kinh doanh rừng trồng và giảm 50% cho 4 năm tiếp theo.
- Có chính sách thị trường hợp lý, linh hoạt, bảo đảm việc khai thác, vận
chuyển, mua bán gỗ rừng tự nhiên được kiểm soát chặt chẽ; gỗ rừng trồng được
tự do lưu thông và mua bán theo giá cả thị trường, xoá bỏ các thủ tục phiền hà
trong khai thác, vận chuyển, buôn bán gỗ rừng trồng; khuyến khích nhập khẩu
gỗ nguyên liệu để sử dụng trong nước và sản phẩm xuất khẩu; đồng thời khuyến
khích xuất khẩu sản phẩm chế biến từ gỗ rừng trồng và từ gỗ nhập khẩu.
Nhà nước có chính sách thoả đáng đối với các thành phần kinh tế, trong đó
chú trọng đổi mới tổ chức, sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh, đặc biệt các
lâm trường nằm trên rừng phòng hộ rất xung yếu hoặc rừng đặc dụng cần
chuyển thành các ban quản lý rừng hoạt động theo cơ chế của đơn vị sự nghiệp.
Các lâm trường được phép tiếp tục khai thác rừng tự nhiên và trồng rừng
nguyên liệu công nghiệp hoạt động theo cơ chế kinh doanh. Các lâm trường
được giao nhiêm vụ quản lý, bảo vệ rừng tự nhiên nhưng không được phép khai
thác trong thời gian tới...chuyển sang hoạt động theo cơ chế công ích...Việc phát
triển mạnh rừng, phủ xanh đất trồng, đồi núi trọc, hướng tới đóng cửa rừng tự
nhiên là chương trình có ý nghĩa to lớn, toàn diện đối với nước ta cả trước mắt
và lâu dài.
Bởi vậy phải xác định đó là sự nghiệp của toàn dân nên cần được thực hiện
theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm..." Hy vọng các cơ quan
chức năng sớm hoàn chỉnh đề án trình Chính phủ phê duyệt để triển khai thực
hiện góp phần thiết thực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội nông thôn trong
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và bảo về môi trường sinh
thái.


Bài tiểu luận
C. PHẦN KẾT LUẬN
Rừng là một trong những bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên sinh

quyển. Ngay từ buổi đầu tiên trong lịch sử phát triển nhân loại, rừng đã có
những đóng góp cực kì quan trọng đối với đời sống của con người. Sự phát triển
ngày càng cao của kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn hiện đại dựa trên
nền tảng sự tiến bọ của khoa học kĩ thuật đã làm đa dạng hơn quá trình sử dụng
tài nguyên thiên nhiên và làm thay đổi sự phụ thuộc của con người vào rừng.
Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác đang đứng trước
những vấn đề cấp bách về môi trường. Tài nguyên rừng, đất, nước, khoáng sản
đang được huy động mạnh mẽ cho quá trình phát triển kinh tế và bị suy giảm
nhanh chóng. Nhiều loài động thực vật quý hiếm đang có nguy cơ bị tuyệt
chủng, môi trường đang bị đe doạ bởi sự ô nhiễm. Bảo vệ và phát triển tài
nguyên rừng sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm giữ ổn định sự cân bằng sinh
thái trong sinh quyển. Chính vì vậy, bảo vệ và tăng diện tích trồng rừng đã được
xác định là một trong những mục tiêu lớn trong chiến lược hành động cho sự
phát triển bền vững ở nước ta nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.


Bài tiểu luận
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài nguyên và môi trường, 2005-Tuyển tập các báo cáo khoa học hữu
nghị môi trường toàn quốc 2005.
2. Bộ khoa học công nghệ và môi trường 1996-sách đỏ Việt Nam, nhà xuất
bản khao học kỷ thuật, Hà Nội



×