Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN NGỮ văn 9 PHẦN NGHỊ LUẬN xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.69 KB, 32 trang )

Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM ÔN THI VÀO LỚP 10 THPT
MÔN NGỮ VĂN 9 PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Lĩnh vực: Giáo dục và Đào tạo (Ngữ văn )

NĂM HỌC 2017-2018

A- ĐẶT VẤN ĐỀ
0/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội

I- Lí do chọn đề tài
1. Lí do về lý luận
Để đáp ứng được những yêu cầu đổi mới của sự phát triển giáo dục trong thời
kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nghị quyết Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI xác định: "Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh
giá kết quả giáo dục theo định hướng phát triển năng lực của người học". Đặc
biệt để giúp học sinh rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường và xã hội thì công
tác giáo dục trong nhà trường hiện nay cần phải có sự đổi mới theo hướng, gắn
lý thuyết sách vở với thực tiễn cuộc sống, hướng học sinh biết quan tâm đến xã
hội để các em có những đồng cảm, chia sẻ và bày tỏ cảm xúc của mình về những
vấn đề đang diễn ra của cuộc sống hôm nay. Do đó, giáo viên phải là người đóng
vai trò trung tâm trong việc cung cấp thông tin và định hướng thông tin khi đứng


trên bục giảng để học sinh nắm bắt, chuyển hóa những thông tin trong xã hội
thành nhận thức, tình cảm và hành động của mình.
Bởi vậy, kiểu bài làm văn nghị luận xã hội là một nội dung không thể thiếu
trong chương trình Ngữ văn bậc THCS và cả bậc THPT. Ngoài những bài nghị
luận văn học để học sinh cảm nhận và đi tìm vẻ đẹp văn chương thì kiểu bài
nghị luận xã hội giúp các em đến gần với cuộc sống thực tiễn hơn. Bài nghị luận
xã hội rèn luyện cho học sinh cách nhìn nhận, kiến giải, trình bày những ý kiến
riêng về một vấn đề tư tưởng đạo lý hoặc một vấn đề xã hội đáng quan tâm. Việc
rèn luyện kiểu bài này không chỉ cần cho học sinh khi làm các bài kiểm tra, bài
thi mà còn cần cho người học khi vào đời. Bởi vì trong cuộc sống, dù làm bất
cứ công việc gì, ở bất kỳ lĩnh vực nào, mỗi người cũng có lúc phải trình bày ý
kiến riêng của mình về vấn đề liên quan đến đời sống, xã hội.
2. Lí do về thực tiễn.
2.1. Về thực tiễn chương trình và tính cấp thiết của vấn đề :
Trong chương trình ngữ văn bậc THCS, phần tập làm văn nghị luận về tư
tưởng đạo lí và các hiện tượng xã hội khác cũng đóng một vai trò quan trọng
trong cấu trúc chương trình ngữ văn lớp 7 đến lớp 9:
Ví dụ : Một số đề bài trong sách giáo khoa:
Lớp 7
- Đề 1: Ít lâu nay, một số bạn trong lớp có phần lơ là học tập. Em hãy viết
một bài văn để thuyết phục bạn: Nếu còn trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn
lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích.
- Đề 2: Hãy chứng minh rằng rừng đã bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Lớp 8
1/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
- Đề 1: Câu nói của M.Go-rơ-ki: “ Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, là
con đường sống” gợi cho em những suy nghĩ gì?

- Đề 2: Hãy nói “ không” với các tệ nạn xã hội
Lớp 9
- Đề 1: Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi.
em hãy trình bày một số tấm gương đó và nêu suy nghĩ của mình.
- Đề 2: Suy nghĩ về đạo lí uống nước nhớ nguồn
Có lẽ do xác định được tầm quan trọng của kiểu bài này mà trong các kì thi
tuyển sinh vào lớp 10 THPT trong những năm trở lại đây phần viết đoạn văn
nghị luận xã hội là bắt buộc phải có trong cấu trúc đề thi.
Ví dụ : Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn của Sở Giáo dục Hà Nội
- Đề thi vào lớp 10 THPT năm học 2016- 2017: Câu 3 ( 2điểm) : Em hãy
trình bày suy nghĩ (khoảng 2/3 trang giấy thi) về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối
với việc giữ gìn bản sắc, văn hóa dân tộc trong thời kì hội nhập và phát triển
- Đề thi vào lớp 10 THPT năm học 2017-2018: Câu 3 ( 2điểm) : Hãy trình
bày suy nghĩ của em( khoảng 12 câu) về quan niệm: được sống trong tình yêu
thương là hạnh phúc của mỗi con người
Những đề thi vừa qua cho thấy, thực tiễn cuộc sống có vai trò vô cùng quan
trọng trong phát triển khả năng nhận thức và nhân cách học sinh. Biết được thực
tiễn cuộc sống, trước mắt các em sẽ làm tốt các bài thi, bài kiểm tra có nội dung
liên quan. Quan trọng hơn, bước đầu các em có sự quan tâm đến những vấn đề,
sự kiện diễn ra trong thực tiễn xã hội, giúp các em có vốn sống ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường. Đó là phương pháp giáo dục tốt để các em từng bước
hình thành và phát triển nhân cách bền vững sau này.
Bởi vậy, việc tổ chức ôn tập cho học sinh để có một kiến thức vững vàng để
làm tốt bài thi là một vấn đề khá cấp thiết khi mùa thi đang đến gần.
2.2. Về thực tiễn dạy học :
Trong chương trình ngữ văn lớp 9, kiểu bài nghị luận xã hội có dung lượng
khoảng 8-10 tiết kể cả 2 tiết viết bài. Vì vậy về phía giáo viên vẫn chưa thực sự
coi trọng kiểu bài này. Hoặc nếu có dạy thì chỉ gói gọn ở một số đề bài trong
sách giáo khoa mà không mở rộng ra các dạng đề bài khác.Về phía học sinh,
vốn kiến thức thực tế ít, không biết tìm và đưa ra những dẫn chứng thuyết phục

trong bài viết của mình, còn bỡ ngỡ trước những vấn đề mở có liên quan đến
tính thời sự, xã hội. Vì những yêu cầu trên mà việc rèn luyện giúp cho học sinh
có kĩ năng làm tốt một bài văn nghị luận xã hội là một việc làm rất cần thiết.
2.3. Về năng lực nghiên cứu:
Xuất phát từ những vấn đề có tính lí luận, cơ sở thực tiễn trên cộng với
những trăn trở của bản thân và kinh nghiệm dạy học môn Ngữ văn 9 trong nhiều
2/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
năm, với sáng kiến kinh nghiệm: "Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn
Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội ", tôi mong muốn góp một phần nhỏ cùng
với các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy phần làm văn này để từng bước khắc
phục những tồn tại về nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học và đạt kết quả cao hơn trong kì thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn
II. Mục đích nghiên cứu.
- Giúp học sinh nắm vững kiến thức, biết vận dụng và phát huy những kiến
thức đã học để các em tự tin làm bài và đạt kết quả cao hơn trong các kì thi có
liên quan đến phần làm văn nghị luận xã hội.
- Giúp học sinh hiểu rõ hơn về mục đích của việc học kiểu bài nghị luận xã
hội, các em sẽ được bồi dưỡng nhân cách phẩm chất một cách tự nhiên, tránh áp
đặt, giáo điều; giúp các em có những đánh giá , thái độ ứng xử trước những vấn
đề đặt ra, rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường và xã hội.
- Cùng đồng nghiệp chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy môn Ngữ văn 9 và kinh
nghiệm ôn tập để công tác thi tuyển sinh lớp 10 môn Ngữ văn đạt hiệu quả.
III- Đối tượng nghiên cứu, khảo sát, thực nghiệm .
1- Đối tượng nghiên cứu:
- Các phương pháp dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực HS
- Các phương pháp dạy học ôn tập phần làm văn nghị luận xã hội
- Bộ môn Ngữ văn 9.

2- Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: học sinh lớp 9C
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã vận dụng và phối hợp nhiều
phương pháp trong đó có các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp đọc tài liệu, nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp nghiên cứu thực tế.
- Phương pháp vấn đáp trò chuyện
- Phương pháp thực nghiệm
V- Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
1- Phạm vi nghiên cứu:
- Khái quát những vấn đề có liên quan đến phần làm văn nghị luận xã hội.
- Đề tài nghiên cứu trọng tâm là phương pháp tổ chức và hướng dẫn học sinh
cách viết bài văn nghị luận xã hội với hai phần: nghị luận về một tư tưởng đạo lý
và nghị luận về hiện tượng xã hội để làm tốt bài thi vào lớp 10 môn Ngữ văn.
2- Kế hoạch nghiên
- Thời gian nghiên cứu: năm học 2017 - 2018
- Bắt đầu thực hiện : 15 / 8 / 2017
- Kết thúc quá trình thực hiện: 30 / 5 / 2018
3/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
B - QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
I- Thực trạng vấn đề
1- Tình trạng khi chưa thực hiện:
1.1. Về phía học sinh:
- Trong xu thế hiện nay, nhìn chung học sinh không thích học môn Ngữ văn
. Vì vậy dẫn đến việc các em thường ít đầu tư cho môn học này.
- Tư tưởng học sinh khi làm bài lại chỉ chăm chú đến phần nghị luận văn
học mà không nghĩ rằng đoạn văn nghị luận xã hội là phần dễ đạt điểm tối đa.

- Học sinh thiếu kiến thức thực tế, ít dẫn chứng vì các dẫn chứng của kiểu
bài nghị luận xã hội đòi hỏi người viết phải có những hiểu biết xã hội nhất định
mà phải thường xuyên quan sát xung quanh, phải cập nhật thong tin trên ti vi,
các phương tiện thông tin đại chúng khác mới có được.
- Mặt khác đối với bài nghị luận xã hội dung lượng quy định (chỉ khoảng
300 đến 400 từ hoặc 2/3 giấy thi) nhiều học sinh vẫn chưa viết được dung lượng
theo yêu cầu, viết dài, lan man mà không cô đọng, súc tích.
1.2. Về phía giáo viên:
- Vốn kiến thức ngoài SGK của GV còn chưa nhiều , thiếu sự mở rộng .
- GV chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biện
pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú, giúp HS nhớ lâu nội dung bài học.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin để cung cấp tư liệu cho học sinh còn
hạn chế do giáo viên còn ngại khó vì để tìm kiếm thông tin, dẫn chứng cho mỗi
vấn đề bài nghị luận xã hội đặt ra rất mất thời gian.
- Chưa thật sự chú trọng đến kiểu bài nghị luận xã hội mà chỉ chú trọng đến
kiểu bài nghị luận văn học vì đoạn văn nghị luận văn học có số điểm gấp đôi
đoạn văn nghị luận xã hội trong thang điểm bài thi môn Ngữ văn
2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài.
- Trong năm học 2017-2018 tôi được phân công dạy môn Ngữ văn lớp 9C.
Khi chưa thực hiện đề tài này giáo viên đã tiến hành cho học sinh làm bài khảo
sát chất lượng với cấu trúc đề ra giống như đề thi vào lớp 10 của Hà Nội .Chất
lượng bài khảo sát của lớp 9C như sau:
Điểm giỏi Điểm khá
Điểm trung Điểm yếu-kém
Lớp 9C
(9-10)
( 7-8,75)
bình (5-6.75)
(0,25-4,75)
30HS=100%

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Khi chưa thực
0
0
10
33% 19
63%
1
4%
hiện đề tài
Trên đây là kết quả khảo sát lớp 9C khi chưa áp dụng SKKN. Nhìn chung
kết quả học tập của học sinh chưa cao. Điểm giỏi không có, điểm khá còn ít, chủ
4/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
yếu đạt điểm trung bình thậm chí còn có học sinh yếu . Qua kết quả khảo sát tôi
thấy cần thiết phải đổi mới cách học, cách tiếp cận với những vấn đề đặt ra trong
môn Ngữ văn để học sinh có thể nắm chắc, nhớ lâu nội dung bài học tự tin để
làm bài thi vào lớp 10 đạt kết quả cao.
II- Các biện pháp thực hiện
Từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành một số công việc cần thiết trước khi lựa
chọn phương pháp hướng dẫn HS ôn tập:

* Đối với giáo viên:
- Thu thập thông tin, hình ảnh, clip dẫn chứng thực tế cho nội dung từng đề bài
- Giúp học sinh phân biệt và xác lập đúng đắn phương pháp làm bài văn nghị
luận theo mỗi dạng đề bài khác nhau. Biết vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ
năng vào giải quyết vấn đề đặt ra. Qua đó lĩnh hội các kiến thức và phát triển
năng lực, kĩ năng.
- Phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh. Phải buộc học sinh
chủ động tự đọc, tự học, tự lựa chọn phương pháp làm bài, tự làm việc độc lập
theo theo hướng dẫn của giáo viên.
- Xây dựng kế hoạch dạy học và lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp
với từng vấn đề , từng dạng bài . Kế hoạch dạy học ôn thi cho học sinh lớp 9
được thực hiện vào các buổi chiều chứ không phải trong giờ học chính khóa.
Vậy nên giáo viên phải lên một phân phối chương trình cụ thể, khoa học để vừa
đảm bảo củng cố kiến thức trên lớp, vừa mở rộng, nâng cao kết hợp với làm một
số bài tập liên quan để tích lũy kiến thức chuẩn bị cho kì thi vào lớp 10
* Đối với học sinh:
Giáo viên có thể định hướng học sinh huy động kiến thức từ các nguồn:
+ Kiến thức từ sách vở: Chủ yếu từ báo chí, sách tham khảo về các lĩnh vực
của cuộc sống, từ văn học, lịch sử, khoa học, tôn giáo, sách về gương người tốt
việc tốt …" Hạt giống tâm hồn",
+ Kiến thức từ đời sống và từ những trải nghiệm bản thân: yêu cầu học sinh có
thói quen quan sát cuộc sống, những hoạt động, sự việc, những vấn đề từ cuộc
sống xung quanh qua các chương trình trên ti vi như chương trình thời sự, hoạt
hình quà tặng cuộc sống, chương trình sinh ra từ làng, những người tử tế……
Sau khi thực hiện các công việc trên, trong quá trình dạy học tôi sử dụng các
biện pháp sau:
1-Biện pháp 1 : Hướng dẫn học sinh ôn lại kiến thức về kiểu bài làm văn
nghị luận xã hội
1.1. Khái niệm kiểu văn nghị luận xã hội
Trong SGV Ngữ văn 9 ( kì II) đã đánh giá: Nghị luận xã hội là một lĩnh vực

rất rộng lớn; từ bàn những sự việc, hiện tượng tong đời sống đến luận bàn các
5/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
vấn đề chính trị, chính sách, từ những vấn đề đạo đức, lối sống đến những vấn
đề có tầm chiến lược, những vấn đề tư tưởng, triết lí….
Theo từ điển từ và ngữ Hán Việt, nghị luận là dùng lí luận để phân tích ý
nghĩa phải trái, bàn bạc, mở rông vấn đề. Còn xã hội trước hết là một tập thể
người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác.
Cũng có thể hiểu xã hội là những gì thuộc về quan hệ giữa người và người về
các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn ngữ… Từ đó có thể
hiểu nghị luận xã hội là những bài văn bàn về các vấn đề xã hội- nhân sinh, một
tư tưởng đạo lí, một lối sống cao đẹp, một hình tượng tích cực hoặc tiêu cực của
đời sống, một vấn đề của tự nhiên, môi trường…. Mục đích cuối cùng của nó là
tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa con
người với con người trong xã hội.
Ở phần này, để củng cố lại kiến thức, giáo viên có thể chia nhóm cho học
sinh tìm và liệt kê những sự việc, hiện tượng xã hội và những vấn đề về tư tưởng
đạo lí để học sinh bước đầu nhớ lại đặc điểm kiểu bài
Ví dụ:
- Nhóm 1-2: Liệt kê những sự việc hiện tượng có thể dùng làm đề bài nghị luận
về một sự việc hiện tượng xã hội ( bệnh vô cảm, bệnh lề mệ, thói quen xả rác
bừa bãi, những việc làm tử tế, tác hại của trò chơi điện tử…)
- Nhóm 3-4: Liệt kê những vấn đề, tư tưởng có thể dung làm đề bài nghị luận về
tư tưởng đạo lí ( đạo lí uống nước nhớ nguồn, lòng dũng cảm, vị tha, giá trị của
thời gian….)
Sau khi các nhóm trao đổi, làm việc trong nhóm, giáo viên cử đại diện mỗi
nhóm lên thuyết trình, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Qua hoạt động này, HS
đã được củng cố về những vấn đề có liên quan đến đề bài để từ đó có ý thức thu

thập, tìm kiếm thông tin dẫn chứng phù hợp cho bài viết sau này của mình.
1.2. Hướng dẫn học sinh ôn lại cách làm bài văn nghị luận xã hội
Trong phần này giáo viên lưu ý học sinh một số nội dung sau:
1.2.1. Yêu cầu chung của một bài nghị luận xã hội
- Đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung (dù là một bài văn chỉ có độ dài
khoảng môt trang giấy hay là một đoạn văn khoảng nửa trang giấy)
- Tập trung hướng tới luận đề, triển khai thành những luận điểm chặt chẽ,
nhất quán, tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục.
1.2.2. Các kĩ năng cần có khi là bài
* Kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý và lập dàn
- Đọc kĩ đề, lưu ý những từ ngữ quan trọng gợi hướng làm bài.
- Xác định đúng kiểu bài nghị luận để tránh nhầm lẫn về phương pháp.
- Xác định nội dung nghị luận để tránh lạc đề.
6/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
- Xác định phạm vi tư liệu cho bài viết.
* Kĩ năng tìm dẫn chứng: Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các
phương tiện thông tin, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện,
những con số chính xác về một sự việc nào đó. Sau một thời gian tích lũy cần
chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất cho một số dẫn chứng tiêu biểu
để áp dụng phù hợp vào trong bài viết của mình.
Ví dụ: Giáo viên cho HS thực hành phân tích xác định phạm vi,yêu cầu một số
đề bài
Đề bài 1: Suy nghĩ của em về quan niệm: tình yêu thương là hạnh phúc
của mỗi con người
- Phương pháp lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận…..
- Vấn đề nghị luận: tình yêu thương của con người với con người, với tất cả
những gì mà con người gắn bó, đó là hạnh phúc

- Phạm vi nghị luận: trong thực tế đời sống, trong sách, báo..
1.2.3- Các dạng đề văn nghị luận xã hội
* Dạng đề có mệnh lệnh: thường có các từ nêu suy nghĩ, bàn, trình bày ý kiến,
phân tích, bình luận, chứng minh…
Ví dụ:
- Đề bài 1: Bàn về tranh giành và nhường nhịn
- Đề bài 2: Suy nghĩ của em về câu tục ngữ “ uống nước nhớ nguồn”:
* Dạng đề mở, không có mệnh lệnh: thường chỉ cung cấp một câu tục ngữ,,
một khái niệm mang tư tưởng…đòi hỏi người làm bài phải suy nghĩ để làm sáng
tỏ. khi làm bài học sinh phải vận dụng giải thích, chứng minh hoặc bình luận về
vấn đề nghị luận để bày tỏ những suy nghĩ, đánh giá của mình về vấn đề ấy.
Ví dụ:
- Đề bài 1: Lòng dũng cảm trong cuộc sống
- Đề bài 2: Bệnh vô cảm
* Dạng đề gián tiếp dưới dạng một ý kiến, câu danh ngôn, ngạn ngữ, một câu
chuyện hoặc một mẩu tin…..: đối với dạng đề này, giáo viên yêu cầu học sinh
đọc kĩ đề bài để tìm ra vấn đề cần nghị luận. đây là khâu rất quan trọng bởi nếu
học sinh xác định sai vấn đề nghị luận thì cả bài viết sẽ bị sai, lạc đề.
Ví dụ:
- Đề bài 1: Bàn về vai trò và tác dụng to lớn của sách trong đời sống tinh
thần của con người, văn hào Nga M.Go-rơ-ki viết: “Sách mở rộng trước mắt tôi
những chân trời mới”. Từ ý kiến trên, em hãy viết một bài nghị luận ngắn bàn về
vai trò của sách và việc đọc sách trong cuộc sống hôm nay.
- Đề bài 2: Trong bài trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật bàn về Thế hệ gấu bông, có
đề cập hai hiện tượng:
7/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
1. Một bé mười lăm tuổi, được mẹ chở đi đánh cầu lông. Xe hai mẹ con bị va

quệt, đồ đạc trên xe văng tung tóe. Người mẹ vội vàng gom nhặt, vài người đi
đường cũng dừng lại phụ giúp, còn cô bé thờ ơ đứng nhìn. Đợi mẹ nhặt xong
mọi thứ, cô bé leo lên xe và thản nhiên dặn: “Lát nữa mẹ nhớ mua cho con li
chè!”.
2. Một cậu học sinh khi được hỏi về một ca sĩ nổi tiếng mà cậu hâm mộ, cậu đã
trả lời rất rành mạch về cách ăn mặc, sở thích của ca sĩ đó. Nhưng khi được
hỏi về nghề nghiệp, sở thích của cha mẹ cậu, cậu ta ấp úng, không trả lời được.
Là người con trong gia đình, em hãy trình bày suy nghĩ về hai hiện tượng trên
qua một bài văn ngắn (khoảng 1 trang giấy thi).
1.2.4- Dàn bài chung của một bài văn nghị luận
Giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại dàn bài chung của bài nghị luận xã hội
* Phần nêu vấn đề ( mở bài): Nêu vấn đề cần bàn luận ( có thể trực tiếp hoặc
gián tiếp)
* Phần giải quyết vấn đề ( thân bài):
+ giải thích, nêu khái niệm về vấn đề , nghĩa đen, nghĩa hàm ẩn( nếu có)
+ Nêu, phân tích những biểu hiện của vấn đề
+ Đánh giá, bàn luận, mở rộng về vấn để
+ Bài học liên hệ thực tiễn, nhận thức và hành động
* Phần kết thúc vấn đề: khẳng định lại vấn đề và ý nghĩa của vấn đề đối với bản
thân, cộng đồng, xã hội….
* Ví dụ:
Đề bài: Suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa học và hành.
Giáo viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý.
* Đặt vấn đề: Bàn về mối quan hệ giữa học và hành, Bác Hồ từng dạy: “học
phải đi đôi với hành”.
* Giải quyết vấn đề:
- Giải thích:
+ “ Học”: là quá trình tiếp nhận, lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm từ thực tiễn
vào bên trong đầu óc của con người. Học còn có thể hiểu là nắm bắt lý
thuyết, biến lý thuyết thành kĩ năng của mình.

+ “Hành”: là quá trình vận dụng tri thức, kinh nghiệm ấy vào trong cuộc
sống nhằm hoàn thành một công việc cụ thể. Hành còn có thể hiểu là quá trình
biến lý thuyết thành hành động cụ thể nhằm hoàn thiện một kĩ năng hoặc hoàn
thành một công việc.
+ Đánh giá: “học” và “hành” có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ.
- Phân tích, đánh giá, chứng minh:
+ Nếu “học” mà không “hành” thì nắm vững lý thuyết mà thiếu kĩ năng,
8/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
thiếu kinh nghiệm thực tế, làm việc dễ thất bại, trở thành người vô dụng. (Dẫn
chứng).
+ Nếu “hành” mà không “học” thì có kĩ năng, kinh nghiệm thực tế nhưng
thiếu hiểu biết, không có sự chỉ đạo của lý thuyết, dễ mắc sai lầm trong công
việc, trở thành kể phá hoại. (Dẫn chứng)
+ Nếu vừa “học” vừa “hành” thì vừa nắm vững lý thuyết vừa có kĩ năng
vững vàng, hình thành kinh nghiệm thực tế, ít sai sót, dễ hoàn thành công việc
và thành công trong cuộc sống. (Dẫn chứng).
+ Dẫn chứng và phân tích một tấm gương tiêu biểu: Hành trình tìm đường
cứu nước của Bác Hồ.
+ Khẳng định: “học” và “hành” là một quá trình biện chứng và liên tục
không thể tách rời. Muốn thành công trong cuộc sống cần kết hợp chặt chẽ giữa
“học” và “hành”.
- Bàn luận mở rộng:
+ về vai trò của học đi đôi với hành trong việc áp dụng lý thuyết vào trong
thực tiễn đời sống
+ Phê phán lối học chay, học vẹt, học không đi đôi với hành
* Kết thúc vấn đề: khẳng định tầm quan trọng của học đi đôi với hành. Rút ra
bài học liên hệ bản thân

2- Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh phân biệt kiểu bài nghị luận về một sự
việc, hiện tượng xã hội và kiểu bài nghị luận về tư tưởng đạo lí
Trong phần này, giáo viên cho học sinh tìm ra một số điểm giống và khác nhau
giữa hai kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống với nghị luận về
một tư tưởng đạo lí:
2.1. Giống nhau:
- Đều là dạng bài nghị luận xã hội.
- Đều rút ra những tư tưởng, đạo lí, lối sống cho con người.
- Mang đặc điểm chung của văn nghị luận: Có bố cục 3 phần luận điểm đúng
đắn rõ ràng, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục lời văn chính xác, sinh động
2.2. Khác nhau:
Gv có thể hướng dẫn học sinh kẻ bảng về sự khác nhau giữa hai kiểu bài
Nghị luận về mọt sự việc, hiện tượng
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
Đời sống
Yêu cầu:
- Các vấn đề nghị luận phải tạo được sự - Làm sáng tỏ các vấn đề về tư
chú ý và tác động đến đời sống xã hội tưởng đạo lí bằng cách giải thích,
như môi trường, dân số, giao thông, chứng minh, so sánh đối chiếu, phân
chạy đua vũ trang, giữ gìn bản sắc văn tích…để chỉ ra chỗ đúng( sai) của
9/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
hóa…..
- Phải nêu được rõ các sự việc, hiện
tượng có vấn đề, phân tích mặt lợi, hại,
đúng, sai của nó, chỉ ra được những
nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến
đánh giá của người viết

Xuất phát điểm:
Xuất phát từ thực tế đời sống bằng
những biểu hiện, sự việc, hiện tượng
trong thực tiễn để phân tích,đánh giá rồi
nêu ra tư tưởng, bày tỏ thái độ và khái
quát thành một vấn đề tư tưởng, đạo lí.

một tư tưởng nào đó nhằm khẳng
định tư tưởng của người viết.

-Xuất phát từ một tư tưởng, đạo lí,
sau khi dùng phép lập luận giải
thích, phân tích… để thuyết phục
người đọc nhận thức đúng tư tưởng,
đạo lí đó. Sau đó người viết mới vận
dụng các sự thật đời sống để chứng
minh nhằm trở lại khẳng định (hay
phủ định) một tư tưởng nào đó.

Cách lập luận:
Thường lấy chứng cứ thực tế để lập - Dùng khái niệm, lí lẽ nhiều hơn
luận.
Sử dụng phương pháp giải thích, phân - Sử dụng phép lập luận giải thích,
tích bình luận….
chứng minh, phân tích, so sánh đối
chiếu,bình luận, tổng hợp…
2.3. Hướng dẫn học sinh ôn lại cách lập dàn bài của kiểu bài nghị luận về tư
tưởng đạo lí
2.3.1. Cách làm bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí
Để triển khai bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí giáo viên

cần hướng dẫn học sinh xác định đúng nội dung tư tưởng, đạo lí đặt ra trong đề
bài; căn cứ vào nội dung đó mà giải thích, phân tích, bình luận để làm sáng tỏ
vấn đề và rút ra bài học.
* Bài nghị luận về tư tưởng đạo lí cần có các bước triển khai như sau:
a- Giới thiệu, giải thích khái niệm,tư tưởng, đạo lí
b- Phân tích những biểu hiện, những khía cạnh khác nhau của tư tưởng, đạo lí
c- Đánh giá các mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
vấn đề bàn luận.
d- Đánh giá tư tưởng đạo lí đó trong bối cảnh của cuộc sống hiện tại của cá
nhân, cộng đồng, xã hội xem có còn phù hợp và có tác dụng hay không
e- Nêu ý nghĩa, rút ra bài học về tư tưởng, đạo lí và hành động.
Trong khi viết bài, cần phối hợp các thao tác nghị luận: phân tích, so sánh,

10/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
bác bỏ, bình luận…Cần diễn đạt giản dị, ngắn gọn, sáng sủa, nhất là cần nêu bật
suy nghĩ riêng của bản thân.
* Dàn bài:
a. Nêu vấn đề
- Giới thiệu tư tưởng, đạo lí cần bàn luận, trích dẫn (nếu đề bài đưa ra ý kiến,
nhận định).
b. Giải quyết vấn đề:
b.1. Giải thích khái niệm
Tùy theo từng yêu cầu cụ thể mà mức độ, cách giải thích có thể khác nhau.
*Ví dụ : Giải thích câu tục ngữ “ Uống nước nhớ nguồn”
- “ Uống nước”: là thành quả, là kết quả của người khác, chỉ việc hưởng thụ
mà không làm gi hết
- “ nguồn”: là nơi bắt nguồn của dòng nước, chúng ta có thể hiểu đây là từ

dùng để thể hiện cho sự bắt nguồn của thành quả mà mình hưởng dược.
-> Câu tục ngữ như nhắc nhở chúng ta biết ơn những thành quả của thế hệ đi
trước hay những người khác để lại
b.2. Phân tích, lí giải
Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để
làm sáng tỏ bản chất vấn đề cùng với các khía cạnh, các mối quan hệ của nó.
Phần này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? Vì sao?
Để làm được việc này, chúng ta cần tách vấn đề thành các khía cạnh nhỏ để
xem xét, nghiên cứu. Cách đơn giản nhất là đặt ra các câu hỏi để khảo sát tìm
hiểu. Muốn đặt ra các câu hỏi thật sự cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của
đề, cần làm thật tốt khâu giải thích để xác định chính xác vấn đề mà đề bài đặt ra
cùng với các khía cành và phương diện của nó. Chỉ khi ấy mới có thể xác định
được những gì cần lí giải cho vấn đề trở nên sáng tỏ, rõ ràng.
Ví dụ : Đánh giá nội dung câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”
* Khẳng định hoàn toàn đúng
* Xác lập luận điểm:
- Tại sao phải có lòng biết ơn?
+ Vì đó là đạo lí làm người
+ Truyền thống tốt đẹp cuả người Việt ta
+ Cơ sở để xây dựng và phát triển xã hội
+ Nguyên tắc đối nhân xử thế
- Phê phán: Kẻ vong ân bội nghĩa, ”Ăn cháo đá bát”
b.3. Bình luận đánh giá
Đây là phần việc học sinh bộc lộ nhận thức về vấn đề ở mức độ cao nhất,
cũng là phần việc khó khăn nhất. Vì vậy, trước hết cần phải đánh giá vấn đề ở
11/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
các bình diện, khía cạnh khác nhau: ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa thực tế, mức độ

đúng-sai, đóng góp- hạn chế…Từ sự đánh giá trên các bình diện, hướng dẫn học
sinh nhìn nhận giá trị của vấn đề như một bài học kinh nghiệm trong cuộc sống
cũng như trong học tập, trong nhận nhận thức cũng như trong tình cảm, tư tưởng
để tự mình bồi đắp, nâng cao kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử trong cuộc
sống…Ở những đề bài như thế, việc liên hệ, mở rộng cũng chứng tỏ mức độ
hiểu và khả năng cảm nhận vấn đề của học sinh.
* Ví dụ: Với đề bài: Suy nghĩ về quan niệm của Tố Hữu “Ôi! Sống đẹp là thế
nào hỡi bạn” thì ở phần này cần nêu những nội dung sau:
- Khẳng định sống đẹp là quan niệm sống đúng đắn, cao đẹp
- Phê phán những quan niệm chưa đúng về lối sống của thanh niên: thiếu lý
tưởng, không hoài bão, ham vui chơi lạc thú, nghiện ngập. Không ít học sinh
quên học tập, tu thân, sống thu mình, ngại gian khổ, hèn nhát và bi quan…
- Liên hệ nhận thức và hành động: hiểu đúng về lối sống đẹp, thực hiện
nhiệm vụ và quyết tâm học tập và rèn luyện trở thành người sống có ích.
c. Kết thúc vấn đề
- Khẳng định lại vấn đề
2.3.2.Những lưu ý về cách làm bài :
Giáo viên cần lưu ý học sinh khi triển khai dàn bài và viết bài có thể linh
hoạt đề xuất ra nhiều ý và bố cục khác, miễn là làm sáng tỏ được vấn đề và có
sức thuyết phục cao
Xu hướng hiện đề nghị luận xã hội thường ở dạng mở nên vấn đề tư tưởng,
đạo lí có thể được ẩn trong một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu
chuyện hoặc một văn bản ngắn. Xuất xứ của một câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu
chuyện, văn bản ngắn này cũng rất đa dạng: Trong sách giáo khoa, trên báo chí,
trên internét, đặc biệt trong cuốn “Quà tặng cuộc sống”, “ Hạt giống tâm hồn”.
Vì thế để rút ra được vấn đề tư tưởng đạo lí, học sinh cần chú ý :
+ Giải thích từ ngữ (nghĩa đen, nghĩa bóng) từ đó rút ra nội dung câu nói
(nếu đề bài có dẫn chứng câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ...)
+ Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản (nếu đề bài có dẫn chứng câu
chuyện, văn bản ngắn).

Một điều nữa cần lưu ý là không được sa vào phân tích câu danh ngôn, ngạn
ngữ, câu chuyện, văn bản...như một bài nghị luận văn học.
2.3.4. Đề vận dụng
Đề bài 1: Bàn về vai trò và tác dụng to lớn của sách trong đời sống tinh
thần của con người, văn hào Nga M.Go-rơ-ki viết:
Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới
12/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
Từ ý kiến trên, em hãy viết một bài nghị luận ngắn bàn về vai trò của
sách và việc đọc sách trong cuộc sống hôm nay.
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách lập dàn bài để đảm bảo những nội dung sau:
a. Đặt vấn đề: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
b. Giải quyết vấn đề:
b.1. Giải thích:
- Trong quá trình sống và lao động, con người đã tạo ra những sản phẩm vật
chất và tinh thần. Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người.
- Sách phản ánh và lưu giữ những tri thức, những kinh nghiệm sống, những
tư tưởng, những bài học đạo lí của con người trong suốt trường kì lịch sử.
- Những chân trời mới: Cách nói ẩn dụ chỉ những hiểu biết mới, những kiến
thức mới.
=> Sách đem đến cho con người những hiểu biết, cung cấp cho con người
những kiến thức trong mọi lĩnh vực.
b.2. Vai trò của sách trong cuộc sống của con người:
- Sách cung cấp, nâng cao cho con người những hiểu biết về tự nhiên, xã hội
- Sách giúp con người khám phá bản thân mình, tác động đến tình cảm, tâm
lí, hành vi làm phong phú đời sống tâm hồn con người, giúp con người tự hoàn
thiện bản thân (dẫn chứng)
- Sách còn có tác dụng giải trí làm cho con người quên đi những mệt nhọc

trong cuộc sống ( dẫn chứng)
b.3. Đọc sách và cách đọc sách:
- Đọc sách là một công việc cần thiết và bắt buộc đối với mỗi con người trong
suốt cuộc đời. Phải tạo cho mình thói quen đọc sách, tạo cho mình thái độ trân trọng
sách.
- Để việc đọc sách có kết quả cần phải biết lựa chọn sách đọc, xác định mục
đích đọc, có phương pháp đọc và ghi chép khoa học đê có hiệu quả cao.
c. Kết thúc vấn đề: khẳng định lại vấn đề
* Đề bài 2: Từ văn bản “ chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của Phó thủ
tướng Vũ khoan, em hãy viết bài nghị luận xã hội về một “thói quen tốt đẹp”
của người Việt Nam:
- Giải thích: “thói quen tốt”
+ “Thói quen” là những nếp sống, những hành động được lặp đi lặp lại nhiều
lần trong cuộc sống hàng ngày.
+ “Thói quen tốt” sẽ mang lại cho chúng ta nhiều ý nghĩa tích cực, đem lại
một hình ảnh đẹp về một cá nhân, thậm chí là một cộng động, một quốc gia.
- Bàn luận về một “thói quen tốt” của con người Việt Nam: văn hoá xếp hàng;
lòng tốt, giúp đỡ, quan tâm đến những người có số phận không may; ý chí, nghị
13/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
lực vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống; lễ phép với người lớn
tuổi…
- Ý nghĩa tích cực của “thói quen tốt” đó đối với cá nhân và với xã hội.
- Phê phán một bộ phận thế hệ trẻ có những nhận thức và hành động sai lệch,
làm xấu đi những thói quen tốt đó. Điều đó làm ảnh hưởng đến điều gì?
- Bài học nhận thức và hành động:
+ Không ai sinh ra đã có ngay các thói quen tốt, mà phải trải qua một quá trình
nhận thức – giáo dục – rèn luyện.

+ Là học sinh, những thế hệ tương lai của đất nước, chúng ta cần cố gắng phấn
đấu hình thành những thói quen tốt có lợi cho việc rèn luyện tri thức và tu dưỡng
đạo đức để trở thành người có ích cho xã hội sau này.
2.4. Hướng dẫn học sinh ôn lại cách lập dàn bài của kiểu bài nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống
2.4.1. Các dạng đề nghị luận về một sự viêc, hiện tượng đời sống
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng liên quan đến môi trường sống tự
nhiên của con người.
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng có liên quan đến đời sống xã hội.
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng tích cực đáng biểu dương hoặc tiêu
cực đáng phê phán.
2.4.2. Cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
Để triển khai bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống, cần xác định
đúng nội dung về hiện tượng đời sống đặt ra trong đề bài; căn cứ vào nội dung
đó mà triển khai theo các bước. Cần phối hợp các thao tác lập luận trong bài
viết: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận… Cần diễn đạt bài viết có bố cục,
luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, phép lập luận phù hợp; lời văn chính xác,
sống động.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập dàn bài bằng cách trả lời câu hỏi ở
mỗi phần như sau:
a- Đặt vấn đề:
- Hiện tượng bàn luận là gì?
- Hiện tượng đặt ra vấn đề gì cần giải quyết?
b- Giải quyết vấn đề:
- Thực trạng của hiện tượng đang diễn ra như thế nào?
- Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng và thực trạng đó?
- Những hậu quả (tốt, xấu) từ hiện tượng là gì?
- Cần có thái độ, hành động như thế nào đối với hiện tượng?
c- Kết thúc vấn đề:
- Cần tóm tắt, chốt lại vấn đề như thế nào?

14/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
-Bài học chung rút ra từ hiện tượng là gì?
-Bản thân có cảm xúc suy nghĩ gì và cần phải làm thế nào trước hiện tượng?
2.4.3. Những lưu ý về cách làm bài
Trong kiểu bài nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống, giáo viên cần chú ý
hướng dẫn học sinh một số lưu ý khi viết về hiện tượng tốt cần biểu dương và
hiện tượng xấu đáng bị lên án. Có thể so sánh qua bảng sau:
* HIỆN TƯỢNG XẤU

Đặt vấn đề:
nêu vấn đề cần bàn luận
Giải quyết vấn đề
1. Giải thích hiện tượng
2. Bàn luận
a. Phân tích tác hại
b. Chỉ ra nguyên nhân
c. Biện pháp khắc phục
3. Bài học cho bản thân
Kết thúc vấn đề:
Đánh giá chung về hiện tượng.

* HIỆN TƯỢNG TỐT

nêu vấn đề cần bàn luận
1. Giải thích hiện tượng
2. Bàn luận
a. Tác dụng ý nghĩa của hiện tượng.

b. Biện pháp nhân rộng hiện tượng.
c. Phê phán hiện tượng trái ngược.
3. Bài học cho bản thân
Đánh giá chung về hiện tượng.

2.4.4. Đề vận dụng
Đề bài 1: - Nghị luận xã hội về lối sống ảo của giới trẻ hiện nay
* Nêu vấn đề
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển , mạng xã hội trở thành nơi giao lưu
của nhiều bạn trẻ. Bên cạnh đó do quá lạm dụng các ứng dụng tiện lợi đó mà các
bạn trẻ hiện nay đang có lối sống không lành mạnh, đó là sống ảo.
* Giải quyết vấn đề:
- Giải thích: Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận “Sống ảo” là gì? Và nó có điều
gì mà rất nhiều bạn ham mê nó đến vậy? Sống ảo là sống trong hoang tưởng
không đúng với thực tại của cuộc sống. Các bạn không cần giao lưu hay tham
gia những chương trình ngoại khóa cũng có thể kết bạn và nói chuyện với mọi
người khắp nơi. Đó là mạng xã hội facebook, instagram, twitter, Yahoo!….. và
có rất nhiều mạng xã hội hữu ích khác. Vì chúng quá là hiện đại nên các bạn đã
ham mê quá mức.
- Biểu hiện: nhiều bạn trẻ đăng hình lên các trang mạng xã hội với mục đích tự
đánh bóng tên tuổi của mình, khoe sắc đẹp, khoe thân thể với những tấm hình đã
qua chỉnh sửa, trong khi thực tế lại khác hẳn. Các bạn có thể ngồi hàng giờ để
nhắn tin với những người mới quen mà quên đi các bạn trong thế giới thực của
mình. Đã gọi là thế giới ảo thì cuộc sống trong đó vô cùng đẹp và hấp dẫn. Mỗi
15/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
người có thể xây dựng một ngôi nhà tuyệt đẹp trên đó và có rất nhiều người gọi
là bạn.

- Nguyên nhân: Bệnh ảo tưởng đối với một bộ phận người trẻ là có nguyên
nhân. Trước tiên là nguyên nhân tâm lý: Nhiều bạn trẻ thích thể hiện bản
thân , hành vi của họ là để bù đắp cho sự thiếu tự tin ngoài thực tế. Nói cách
khác, họ muốn được yêu thương, ngưỡng mộ, chấp nhận thông qua việc đăng
những ảnh mà họ cho rằng sẽ khiến họ trở nên hấp dẫn hơn, và theo kịp thời đại.
Suy cho cùng, sống “ảo” là hệ quả của việc sống thiếu bản lĩnh, thói quen mong
hưởng thụ nhiều hơn cố gắng.
- Hậu quả: Sống ảo mang đến nhiều hệ luỵ cho con người. Có nhiều bạn xem
phải những thông tin, hình ảnh không đúng mà có lối sống sai lệch, tinh thần
không ổn định. Có hiện tượng phổ biến là nhiều bạn yêu trên mạng. Đây không
phải là điều sai nhưng liệu bạn đã đủ chín chắn và thông minh để biết đây là tình
yêu thật sự hay là sự thật đây chỉ là để lừa đảo? Nhiều bạn đã nhẹ dạ cả tin mà
tin vào những lời đường mật của một người chưa hề gặp rồi khi biết rằng chàng
trai bạn hằng yêu thương chỉ mang tên lừa đảo. Thật sự có rất nhiều mối nguy
hiểm mà bạn không lường trước được. Bạn có thể ngồi hàng giờ để lên mạng,
chìm đắm trong thế giới ảo và xa lánh thế giới thật
- Đánh giá- liên hệ: Quả thực mạng xã hội rất hữu ích. Giúp chúng ta làm quen
với nhiều bạn hơn. Không tốn nhiều thời gian để nhắn tin và có thể đăng ảnh,
chia sẻ cảm xúc của mình với mọi người. Nhưng các bạn cần dùng chúng đúng
lúc và hợp lí. Có thể học xong các bạn lên để cập nhật tin tức hay để giải toả
căng thẳng. Cần tạo ra nhiều môi trường cho các các bạn trẻ vui chơi sau giờ học
để không dẫn đến tình trạng ngồi lên mạng suốt ngày.
* Kết thúc vấn đề:
Sống ảo có thể coi là một căn bệnh khó chữa. Nó gây ảnh hưởng không nhỏ
tới sức khỏe và tinh thần của giới trẻ. Vậy mỗi người cần có lối sống lành mạnh
không bị quá thu hút bởi mạng xã hội. Nói cách khác mạng xã hội như con dao
hai lưỡi. Nếu bạn biết các sử dụng thì nó vô cùng có ích. Nhưng nếu bạn quá
ham mê nó có thể là con dao giết chết tâm hồn bạn.
Giáo viên có thể ra một số đề bài khác để học sinh về nhà làm như:
Đề bài 2: Nghị luận xã hội về nạn bạo lực gia đình và ý kiến của em

Đề bài 3: Bệnh vô cảm
Đề bài 4: Suy nghĩ của em về những con người không chịu thua số phận
3- Biện Pháp 3: Hướng dẫn học sinh ôn tập, thảo luận theo nhóm
Đối với hoạt động này, trong quá trình thực hiện, giáo viên thường thực hiện
các bước sau
3.1. Ra đề bài cho học sinh thảo luận để lập dàn bài chung cho mỗi đề bài
16/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
Trong một buổi học ( thường là buổi ôn chiều, giáo viên có thể ra từ 2-4 đề
bài để học sinh trao đổi, phân tích xác định các yêu cầu đề bài và lập được một
dàn bài chung cho mỗi đề.
3.2. Chia nhóm và yêu cầu hoạt động nhóm
Thông thường một lớp có 4 tổ giáo viên cha mỗi nhóm 1 tổ hoặc 2 bàn
quay vào nhau thành một nhóm. Tiến trình thảo luận nhóm như sau:
- Nêu yêu cầu thảo luận, thời gian thảo luận
- Phân công học sinh điều hành nội dung thảo luận
- Đại diện các nhóm lên thuyết trình kết quả thảo luận của nhóm mình
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, phản biện
- Giáo viên đánh giá toàn bộ quá trình thảo luận
Trong phần thảo luận, giáo viên chỉ yêu cầu các nhóm xác định được phạm
vi, yêu cầu đề bài, vấn đề cần nghị luận và dàn ý chung của đề bài đó. Còn phần
viết bài là cảm xúc riêng của mỗi học sinh nên không thể làm việc nhóm mà
phải là các hoạt động cá nhân. Mục đích của hoạt động nhóm này là giúp học
sinh xác định đúng vấn đề nghị luận và các bước làm bài để tránh lạc đề.
Ví dụ:
*Nhóm 1-2: Phân tích đề và lập dàn bài cho đề bài sau:
Đề bài: Được sống trong tình yêu thương là hạnh phúc của mỗi con người
Trong qua trình thảo luận, HS phải rút ra được những nội dung sau

* Phân tích đề
- Phương pháp lập luận: giải thích, trình bày suy nghĩ, chứng minh, bình luận
- Vấn đề nghị luận: tình yêu thương của con người với con người, với tất cả
những gì mà con người gắn bó, đó là hạnh phúc
- Phạm vi nghị luận: trong thực tế đời sống, trong sách, báo..
* Dàn bài
Đặt vấn đề
- Hạnh phúc là một khái niệm tinh thần trừu tượng. Tùy theo vai trò, vị trí
của từng cá nhân, từ giai cấp trong xã hội mà có những quan niệm khác nhau về
hạnh phúc.
- Nhân dân ta quan niệm: Tình thương là hạnh phúc của con người.
Giải quyết vấn đề
a. Giải thích câu nói: Tình thương là hạnh phúc của con người.
- Tình thương: là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và có trách
nhiệm với người, với vật (Từ điển tiếng Việt)
- Hạnh phúc: là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý
nguyện. (Từ điển tiếng Việt)
- Tại sao Tình thương là hạnh phúc của con người?
17/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
+ Tình thương khiến cho người ta luôn hướng về nhau để chia sẻ, thông
cảm, đùm bọc lẫn nhau.
+ Như vậy là thỏa mãn mọi ý nguyện, đã được hưởng sung sướng, hạnh
phúc mà tình thương mang lại.
b. Phân tích để khẳng định, chứng minh các biểu hiện, ý nghĩa của tình
thương:
- Trong phạm vi gia đình:
+ Con cái biết nghe lời dạy bảo của cha mẹ, biết đem lại niềm vui cho cha

mẹ, đó là hiếu thảo, là tình thương và hạnh phúc.
+ Tình thương yêu, sự hòa thuận giữa anh em, giữa cha mẹ và con cái tạo
nên sự bền vững của hạnh phúc gia đình.
- Trong phạm vi xã hội:
+ Tình thương chân thành là cơ sở của tình yêu đôi lứa.
+ Tình thương là truyền thống đạo lí: Thương người như thể thương thân;
tạo nên sự gắn bó chặt chẽ trong quan hệ cộng đồng giai cấp, dân tộc.
+ Tình thương mở rộng, nâng cao thành tình yêu nhân loại.
c. Phê phán, bác bỏ:
Lối sống thờ ơ, vô cảm, thiếu tình thương, không biết quan tâm, chia sẻ,
đồng cảm và giúp đỡ người khác…
d. Liên hệ bản thân:
Rút ra bài học về phương châm sống xứng đáng là con người có đạo đức,
có nhân cách và hành động vì tình thương.
Kết thúc vấn đề
- Tình thương là lẽ sống cao cả của con người. Tình thương vượt lên trên
mọi sự khác biệt giữa các dân tộc trên thế giới.
- Để tình thương thực sự trở thành hạnh phúc của con người, mỗi chúng ta
phải vươn lên chống đói nghèo, áp bức bất công, chiến tranh phi nghĩa… để góp
phần xây dựng một thế giới hòa bình thịnh vượng…
*Nhóm 3-4: Phân tích đề và lập dàn bài cho đề bài sau
Em hãy trình bày suy nghĩ của mình về mối quan hệ giữa cá nhân và tập
thể”.
* Phân tích đề
- Phương pháp lập luận: giải thích, trình bày suy nghĩ, chứng minh, bình luận
- Vấn đề nghị luận: mối quan hệ, vai trò trách nhiệm của mỗi người trong tập
thể, cồng đồng….
- Phạm vi nghị luận: trong thực tế đời sống, trong sách, báo..
* Dàn bài:
Đặt vấn đề

18/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
- Thời xa xưa cha ông ta đã có câu chuyện về “bó đũa” nói về sức mạnh của
cá nhân và tập thể. Nếu bạn bẻ gãy một chiếc đũa thì rất dễ nhưng cả bó đũa thì
rất khó.
-Trong xã hội hiện nay luôn tồn tại song song mối quan hệ cá nhân và tập
thể. Cá nhân và tập thể cũng được xem là hai lối sống luôn đi liền với nhau
nhưng lại trái ngược nhau.
Giải quyết vấn đề
- Giải thích: Cá nhân là gì? Là một cá thể tách biệt không có sự liên kết chỉ
một là riêng là duy nhất. Tập thể là bao gồm nhiều cá nhân tạo thành, những cá
nhân tách biệt nhưng lại tạo thành một tập thể vững mạnh khi họ biết quan tâm
giúp đỡ nhau phát triển.
- Đánh giá: Như vậy cá nhân và tập thể nếu đứng tách ra thì hoàn toàn đối lập
nhau. Nhưng nếu xét về nghĩa tương trợ thì chúng có ý nghĩa hỗ trợ và làm
phong phú cho nhau. Mỗi cá nhân sẽ tạo nên nhiều màu sắc hơn cho một tập thể.
Trong xã hội không có một cá nhân nào tồn tại độc lập hay biệt lập so với tập
thể. Nó luôn là một cá thể tạo nên sự hùng mạnh của một tập thể. Như vậy mới
có thể nói rằng, tập thể chỉ được tạo dựng nên từ rất nhiều cá nhân.
- Liên hệ, mở rộng: Tuy nhiên, trong xã hội vẫn có những cá nhân tồn tại mà
không đồng hành cùng với tập thể họ tách biệt mình khỏi tập thể chỉ nghĩ cho lợi
ích cá nhân. Những cá nhân này cần phải được tẩy chay loại bỏ.
Mỗi cá nhân có ý thức và trách nhiệm xây dựng tập thể ấy vững mạnh và
đoàn kết. Đó chính là mục tiêu lớn khi chúng ta sống trong một tập thể, một
cộng đồng người.
Kết thúc vấn đề
- Khẳng định lại mối quan hệ không thể tách rời giữa cá nhân và tập thể.
Là một học sinh bạn cần làm tốt vai trò của mình là con ngoan trò giỏi, đồng

thời đoàn kết giúp đỡ bạn bè trong lớp.
Sau khi các nhóm hoàn thành kết quả thảo luận của mình, giáo viên yêu cầu
đại diện nhóm lân trình bày kết quả của mình. Có thể gọi nhóm 1 lên trình bày,
nhóm 2 bổ sung, nêu ý kiến phản biện. Tương tự như vậy nhóm 3 trình bày,
nhóm 4 bỏ sung. Sau đó giáo viên đánh giá chung và rút ra được một dàn bài
chung nhất để định hướng làm bài cho học sinh.
3.3. Hướng dẫn học sinh viết bài
Trong thao tác này, giáo viên nên cho học sinh viết từng phần mở bài, kết
bài hoặc một phần thân bài. Sau đó giáo viên gọi một số học sinh đọc phần trình
bày của mình rồi nhận xét, sửa lỗi cho các em. Giáo viên cũng có thể cho 2 em
ngồi cạnh trao đổi bài để nhận xét phần viết của bạn. Để hoàn thiện cả bài viết
thì giáo viên nên cho học sinh về nhà làm.
19/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
4- Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh sử dụng công nghệ thông tin và các
loại tài liệu khác để tìm kiếm dẫn chứng, tư liệu
4.1. Giáo viên sử dụng máy chiếu đa năng và mạng in-te-net để cung cấp
thông tin tư liệu cho học sinh.
Đối với những bài làm văn nghị luận xã hội, cách viết không phải là khó,
thậm chí rất dễ viết vì nó gắn liền với thực tiễn đời sống hơn các kiểu nghị luận
văn chương. Nhưng cái khó đối với học sinh là ở khâu đi tìm dẫn chứng bởi các
dẫn chứng trong các bài viết này phải là người thật, các sự kiện thật chứ không
phải là bịa đặt. Mặt khác vốn sống của các em còn hạn chế. Việc tiếp cận với các
phương tiện truyền thông hay công nghệ thông tin không phải là không có điều
kiện nhưng các em lên mạng hoặc xem ti vi thì đó lại là các chương trình phim
truyện hoặc các kênh giải trí khác mà ít khi xem các chương trình thời sự hay
các chương trình người tốt việc tốt, những tấm lòng nhân ái, trái tim cho em…Vì
vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào

việc cung cấp cho học sinh những thông tin, dẫn chứng cần thiết trong quá trình
làm bài của mình. Các thông tin đó có thể là tranh ảnh, phim tư liệu, phim hoạt
hình hoặc các mẩu tin trên báo….. tuy nhiên các thông tin phải phù hợp với mỗi
dạng đề bài, không lan man lạc sang các đề tài khác.
Ví dụ:
Đề bài: Trình bày suy nghĩ của em về lòng dũng cảm trong cuộc sống thời
bình
Đối với đề bài này , học sinh đã quen với khái niệm lòng dũng cảm của
nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm nên viết nhiều về
lòng dũng cảm của cha ông ta trong quá khứ chống giặc. Còn ở thời bình, lòng
dũng cảm được biểu hiện rất đa dạng. vì vậy giáo viên có thể cung cấp cho học
sinh xem một số hình ảnh hay tư liệu thể hiện lòng dũng cảm trong cuộc sống
thời bình.
Ví dụ:
* Bài viết 1: Chủ tịch nước tặng huân chương dũng cảm cho 7 'hiệp sĩ'
(Bài viết trên báo Vietnamnet.vn)
Ngày 18/5, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký quyết định truy tặng và
tặng huân chương dũng cảm cho 7 "hiệp sĩ" của Đội "hiệp sĩ" Tân Bình trong vụ
vây bắt nhóm trộm xe SH trên đường Cách mạng tháng 8 (Q.3, TP.HCM), bị
chúng tấn công khiến 2 "hiệp sĩ" tử vong và 3 "hiệp sĩ" bị thương nặng.
Theo đó, Chủ tịch nước truy tặng huân chương dũng cảm cho hai "hiệp sĩ"
gồm: anh Nguyễn Văn Thôi (quê quán xã Mỹ Lợi, huyện Phù Mỹ, Bình Định)
và anh Nguyễn Hoàng Nam (quê huyện Trảng Bom, Đồng Nai); tặng huân
chương dũng cảm cho 5 "hiệp sĩ" gồm các anh: Trần Văn Hoàng (quê quán Bình
20/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
Định, tạm trú P.13, Q.Tân Bình), Nguyễn Đức Huy (ngụ P.Tân Thành, Q.Tân
Phú), Đinh Phú Quý (ngụ xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi), Đinh Văn Tài (ngụ

P.10, Q.Tân Bình) và Lê Văn Tuyên (quê xã Vạn Thắng, huyện Nông Cống,
Thanh Hóa; tạm trú quận 1); vì đã có hành động dũng cảm trong quá trình phát
hiện và tổ chức vây bắt các đối tượng trộm tài sản của công dân trên địa bàn
TP.HCM.
Trung ương Đoàn cũng đã truy tặng Huy hiệu "Tuổi trẻ dũng cảm" cho "hiệp
sĩ" Nguyễn Hoàng Nam và truy tặng bằng khen cho "hiệp sĩ" Nguyễn Văn Thôi.
Như đã đưa tin, vào tối 13/5, nhóm "hiệp sĩ" Tân Bình gồm 7 người, do ông
Trần Văn Hoàng làm trưởng nhóm, trong lúc vây bắt một nhóm đối tượng trộm
xe SH trước một cửa hiệu thời trang trên đường Cách Mạng Tháng 8 (P.10, Q.3)
thì bị các đối tượng dùng hung khí chống trả.
Hậu quả, hai "hiệp sĩ" Nguyễn Hoàng Nam (29 tuổi, ngụ Q.Gò Vấp, quê
Trảng Bom, Đồng Nai) và Nguyễn Văn Thôi (42 tuổi, quê Bình Định) bị đâm tử
vong. Ba "hiệp sĩ" bị thương gồm: Trần Văn Hoàng (trưởng nhóm "hiệp sĩ", ngụ
Q.Tân Bình), Nguyễn Đức Huy (24 tuổi, ngụ Q.Tân Phú) và Đinh Phú Quý (22
tuổi, ngụ huyện Củ Chi).
*Bài viết 2 : Quảng Bình: Hành động dũng cảm cứu du khách trên sông Son
( Bài viết trên báo điện tử Văn hóa)
Mấy hôm nay, người dân xã Sơn Trạch đã truyền tai nhau về hành động
dũng cảm của 4 người đàn ông lao ra giữa sông Son để cứu người bị nạn khi vụ
việc vừa xảy ra. Bốn “người hùng”, đó là ông Lê Quý Lân (52 tuổi, ở thôn Hà
Lời), ông Nguyễn Văn Quyết (43 tuổi, ở thôn Na), anh Hoàng Mạnh Khiên (31
tuổi, ở thôn Cù Lạc 1) và anh Nguyễn Hồng Hải (23 tuổi, ở thôn Xuân Tiến).
Ngoài ra, cùng ứng cứu với “4 người hùng” trên sông Son còn có 17 người dân
ở xã Sơn Trạch cũng đã dũng cảm cứu người gặp nạn trong lúc mưa to gió lớn
* Bài viết 3: Ngư dân Khánh Hòa dũng cảm kiên cường bám biển Hoàng
Sa, Trường Sa ( bài viết trên báo điện tử VOV)
Trước việc Trung Quốc liên tục có nhiều hành động gây hấn tại khu vực hạ
đặt giàn khoan trái phép và xua đuổi tàu cá Việt Nam, ngư dân tỉnh Khánh Hòa
vẫn quyết tâm bám biển, bám ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa.
Những ngày này, tại cảng cá Hòn Rớ, xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang vẫn

tấp nập tàu cá vào ra. Nhiều tàu cá vừa từ vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa trở
về, bán cá xong đã nhanh chóng nạp dầu, chuẩn bị nước đá, lương thực để ra
khơi.
Ông Nguyễn Văn Tính, chủ tàu cá KH 96057 ở phường Vĩnh Thọ, thành
phố Nha Trang cho biết: Hơn 30 năm gắn bó với các ngư trường Hoàng Sa,
21/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
Trường Sa, ông và ngư dân địa phương rất bức xúc trước hành động ngang
ngược của Trung Quốc.
Ông Tính cho biết, ngư dân bán cá xong lại chuẩn bị cho những chuyến ra
khơi để bảo vệ biển đảo của mình. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng ngư dân
vẫn ngày đêm bám biển Trường Sa, Hoàng Sa để khẳng định chủ quyền lãnh thổ
Việt Nam. Ngư dân tới đó càng đông càng tốt để ủng hộ cho lực lượng Cảnh sát
biển, Kiểm ngư của ta.
Ông Nguyễn Văn Cường, Chủ tịch UBND phường Vĩnh Phước, thành phố
Nha Trang khẳng định: “Ngư dân địa phương sẽ kiên cường bám biển. Bà con
thấy rằng, đây là trách nhiệm của nhân dân cùng Đảng và Nhà nước để quyết
tâm bảo vệ chủ quyền”.
4.2. Giáo viên hướng dẫn hoc sinh các tìm kiếm thông tin liên quan đến vấn
đề nghị luận
Hiện nay, trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin thì việc tìm kiếm tư
liệu dẫn chứng về người thật, việc thật không khó. Giáo viên có thể hướng dẫn
học sinh tìm hiểu trong các địa chỉ chương trình sau
* Trên đài truyền hình Việt Nam: tìm hiểu thông tin trên các chương trình sau:
+ Chương trình thời sự phát lúc 19h hàng ngày
+ Chương trình: những việc làm tử tế
+ Chương trình: vượt lên số phận
+ Chương trình: Trái tim cho em, cặp lá yêu thương

+ Chương trình phim hoạt hình: Quà tặng cuộc sống……
* Trên mạng in-ter-net: tìm hiểu thông tin trên các trang báo điện tử chính
thống: báo Vietnamnet, báo Pháp luật, báo Tuổi trẻ, báo Giáo dục thời đại, báo
Thiếu niên Tiền phong…..
5- Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội
trong đề thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn.
5.1. Đặc điểm đoạn văn nghị luận xã hội trong đề thi vào lớp 10
* Về dung lượng: khoảng 2/3 trang giấy thi
* Về kiểu đề bài: xuất phát từ một nội dung, tư tưởng nào đó trong tác phẩm
văn học
Ví dụ : Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn của Sở Giáo dục Hà Nội
- Đề thi vào lớp 10 THPT năm học 2015- 2016: Câu 3 ( 2điểm): Từ đoạn
trích trên ( trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi) và những hiểu biết xã hội,
em hãy viết một đoạn văn khoảng nửa trang giấy thi trình bày suy nghĩ về thái
độ của mỗi người trong mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
- Đề thi vào lớp 10 THPT năm học 2017-2018: Câu 3 ( 2điểm) : từ đoạn
22/30


Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
trích trên ( trong bài thơ nói với con), hãy trình bày suy nghĩ của em ( khoảng
12 câu) về quan niệm: được sống trong tình yêu thương là hạnh phúc của mỗi
con người
Có thể nói, các tác phẩm văn học cũng trở thành một nguồn đề tài phong
phú, có nhiều nội dung trở thành đối tượng của kiểu bài nghị luận. Đây chính là
dạng đề bài phổ biến trong cấu trúc đề thi vào lớp 10 của thành phố Hà Nội.
Nội dung chính của loại bài viết này là yêu cầu HS cần trình bày những hiểu
biết của bản thân về vấn đề xã hội được nhắc đến trong văn bản bằng vốn kiến
thức thực tế trong cuộc sống, thực trạng của vấn đề với các mặt tốt- xấu, đúngsai, cũ- mới… từ đó bày tỏ thái độ, quan điểm và đề ra những giải pháp, liên hệ
mở rộng vấn đề, giải quyết vấn đề sâu sắc và thuyết phục. Khi bàn về vấn đề

trong mối liên hệ với cuộc sống hiện tại lưu ý học sinh tùy theo tính chất vấn đề
mà có cách xử lí cụ thể. Nếu vấn đề đặt ra mang màu sắc tư tưởng, đạo lí, cần
vận dụng mô hình giải thích khái niệm- phân tích, lí giải- bình luận, đánh giá.
Nếu vấn đề đặt ra là một hiện tượng đời sống, cần vận dụng mô hình giới thiệu
thực trạng- phân tích và bình luận nguyên nhân- kết quả (hậu quả)- đề xuất ý
kiến (giải pháp)
5.2. Cách làm bài
Dù đề bài yêu cầu viết một đoạn văn nhưng thực chất lại là một bài văn
ngắn bởi nội dung trong đoạn văn đó vẫn có đầy đủ các nội dung giống như một
bài văn nghị luận xã hội. vì vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách viết ngắn
gọn mà vẫn đầy đủ nội dung.
* Các bước làm bài:
- Bước 1: Đọc kĩ đề, phát hiện vấn đề cần giải quyết
- Bước 2: xem xét vấn đề cần nghị luận có liên quan gì tới tác phẩm, liên quan
ở khía cạnh nào để từ đó tìm luận cứ để giải thích, chứng minh vấn đề đã được
xác định
Ví dụ: trong đề thi về mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể thì trong tác phẩm
Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê: cá nhân là các nhân vật: Nho, Thao,
Phương Định. Tập thể là tổ trinh sát mặt đường bao gồm ba cô. Tập thể rộng
hơn đó là cả đơn vị công binh trên tuyến đường Trường Sơn mà ba cô gái chỉ là
một tổ.Từ những sự hiểu biết về tác phẩm ta có thể suy ra được thế nào là cá
nhân, tập thể và vai trò của mỗi cá nhân trong tập thể đó.
- Bước 3: Gạch dàn ý cho bài viết
a- Giải thích khái niêm ( nếu có)
b- Nêu những biểu hiện của vấn đề trong thực tế đời sống
c- Đánh giá, bàn bạc, mở rộng vấn đề: Ảnh hưởng, tác động của hiện tượng
(vấn đề) ấy đến cuộc sống của những người xung quanh với xã hội như thế nào?
23/30



Kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn 9 phần Nghị luận xã hội
Những suy nghĩ về hướng giải quyết hiện tượng (vấn đề) đó; làm thế nào để phát
huy (nếu là vấn đề tốt) hoặc hạn chế (nếu là vấn đề chưa tích cực).
d- Liên hệ, bài học nhận thức và hành động: Vấn đề đó đã tác động đến bản
thân mình như thế nào? Bản thân hiểu ra điều gì từ vấn đề được nêu, có ước
Bước 4: Hoàn chỉnh văn bản theo dàn ý đã lập bằng những câu văn có cảm xúc
và lập luận chặt chẽ.
*Ví dụ :
Đề bài :Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, có
một đoạn văn như sau:
“Quê cháu ở Lào Cai này thôi. Năm trước, cháu tưởng cháu được đi xa lắm
cơ đấy, hóa lại không. Cháu có ông bố tuyệt lắm. Hai bố con cùng viết đơn xin
ra lính đi mặt trận. Kết quả: bố cháu thắng cháu một – không. Nhân dịp Tết,
một đoàn các chú lái máy bay lên thăm cơ quan cháu ở Sa Pa. Không có cháu ở
đấy. Các chú lại cử một chú lên tận đây. Chú ấy nói: nhờ cháu có góp phần phát
hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu
phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại
là như thế. Chú lái máy bay có nhắc đến bố cháu, ôm cháu mà lắc “Thế là một
– hòa nhé!”. Chưa hòa đâu bác ạ. Nhưng từ hôm ấy cháu thấy thật hạnh
phúc.”( Lời trò chuyện của anh thanh niên với ông họa sĩ và cô kĩ sư).
Từ lời nói của anh thanh niên, hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 1
trang giấy thi) nêu suy nghĩ của em về hạnh phúc.
*Gợi ý
- Về hình thức: Bài viết cần được trình bày dưới dạng một bài văn nghị luận
hoàn chỉnh, bố cục rõ ràng các phần, hệ thống ý mạch lạc, lập luận chặt chẽ,
diễn đạt lưu loát, biểu cảm. Do nội dung của vấn đề liên quan đến nhiều tình
cảm nên khuyến khích những bài văn tìm được giọng điệu, hình thức thích hợp
khi trình bày ý kiến của mình với điều kiện vẫn phải đảm bảo đúng những đặc
trưng của văn nghị luận.
- Về nội dung: Bài viết có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cơ bản

nêu được các ý sau:
+ Đây là lời nói của anh thanh niên trong cuộc trò chuyện với ông họa sĩ.
Anh cảm thấy hạnh phúc vì đã góp phần phát hiện đám mây khô giúp không
quân ta hạ được phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng. Đó là niềm vui được cống
hiến, được làm việc có ích cho đất nước. Niềm hạnh phúc của chàng trai trẻ là
được sống vì mục đích cao cả: góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Quan niệm về hạnh phúc, phù hợp với lứa tuổi và hoàn cảnh sống hiện tại:
+ Hạnh phúc là yêu thương và được yêu thương, giúp đỡ người khác…
-> Niềm vui, nguồn hạnh phúc, ý nghĩa của sự sống
24/30


×