Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hoạt động kiểm sát của viện kiểm soát nhân dân trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam trong bộ luật tố tụng hình sự của lào và của việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BOUNSY BOULOM

HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG BẮT, TẠM GIỮ, TẠM
GIAM TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA
LÀO VÀ CỦA VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ của giáo
viên hướng dẫn khoa học và các đồng nghiệp. Các số liệu nêu trong luận văn là
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BOUNSY BOULOM




LỜI CẢM ƠN
Trong hai năm học cao học tại trường Đại học Luật Hà Nội, tác giả luận văn
đã được học và sinh sống trong môi trường giáo dục tốt nhất Việt Nam. Với lòng say
mê học hỏi và yêu mến đất nước, con người Việt Nam, tác giả luận văn đã rất vinh dự
được học tập ở trường Đại học Luật Hà Nội. Tác giả luận văn xin chân thành bày tỏ
lòng cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ, giáo viên trường Đại học Luật Hà Nội và
khoa sau Đại học trường Đại học Luật Hà Nội. Đặc biệt là thầy PGS.TS Nguyễn Văn
Huyên đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho tác giả luận văn trong quá trình học tập và
làm luận văn tốt nghiệp.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BOUNSY BOULOM


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. CHXHCN

: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

2. CHDCND

: Cộng hoà dân chủ nhân dân

3. VKS

: Viện kiểm sát


4. VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

5. TTHS

: Tố tụng hình sự

6. BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự


MỤC LỤC
S.Tr
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ,
TẠM GIAM
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
1.2. Nội dung của pháp luật tố tụng hình sự của Lào và Việt Nam về hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm giam
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật tố tụng hình
sự của Lào về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam
CHƯƠNG 2
SO SÁNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM
VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Lào về hoạt động kiểm sát
của Viện kiểm sát trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động bắt tạm giữ, tạm giam.
2.3. So sánh quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự của Lào và Việt Nam về
hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG VIỆC BẮT TẠM GIỮ, TẠM GIAM; PHƯƠNG HƯỚNG
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
VIỆC BẮT TẠM GIỮ, TẠM GIAM Ở CỘNG HÒA DCND LÀO.
3.1. Thực trạng hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt
động bắt tạm giữ, tạm giam ở Lào
3.2. Cải cách tư pháp và những vấn đề đặt ra trong việc hoàn thiện hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm giam ở
Lào.
3.3. Phương hướng của việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm giam
ở Lào.
3.4. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm giam
ở Lào.
KẾT LUẬN

1

7


7
13
18

22

22
31
39

47

47
58
62
65
73


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Có thể nói trên thế giới hiếm có các quốc gia láng giềng nào có mối quan hệ
truyền thống lâu đời và có tinh thần hợp tác hữu nghị khăng khít anh em như mối
quan hệ Việt Nam – Lào. Hai quốc gia cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, cùng
nằm trong khối ASEAN có cùng các điều kiện chính trị, kinh tế, cùng có nhu cầu
mở cửa, đổi mới, hội nhập và phát triển. Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế,
sự thay đổi của xã hội, tư tưởng, chính trị, văn hoá, giáo dục … đã dẫn đến sự hình

thành các quan điểm cá nhân mang tính chất chống đối xã hội và từ quan điểm cá
nhân này sẽ dẫn đến hành vi phạm tội. Do đó pháp luật về hình sự và tố tụng hình
sự có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh, ngăn ngừa và phòng chống tội
phạm. Luật tố tụng hình sự quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và
trình tự, thủ tục tố tụng cần được học tập nghiên cứu một cách có hệ thống để vận
dụng đúng vào thực tế giải quyết các vụ án tránh được các oan, sai đáng tiếc xảy
ra trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm đạt kết quả cao nhất, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
góp phần vào việc tăng cường pháp chế và trật tự pháp luật.
Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự bảo
đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được khách quan, thuận lợi.
Nhưng hiện nay việc hiểu và vận dụng các quy định pháp luật về căn cứ, trình tự,
thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn vẫn có không ít những trường hợp
không đúng pháp luật, như việc bắt, tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành
chính; bắt, tạm giữ, tạm giam, oan sai xâm phạm đến các quyền cơ bản của công
dân. Ngược lại, có trường hợp cần thiết phải bắt nhưng không bắt tạm giam dẫn
đến nhiều vụ án không được điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án do người phạm
tội bỏ trốn, đã gây nên sự hoài nghi của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan
bảo vệ pháp luật, làm giảm sút uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Những sai
sót, hạn chế nêu trên không thể không nhắc tới hạn chế về chất lượng công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các


biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát, đảm bảo cho việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn phát huy được tác dụng trong ngăn ngừa tội
phạm và đảm bảo các hoạt động tố tụng về điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, giải quyết dứt điểm các vụ án, không để
xảy ra oan sai. Thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp sẽ phản ánh đích thực về vị trí, vai trò của cơ quan Viện Kiểm sát

trong bộ máy Nhà nước và trong hoạt động tố tụng hình sự của Việt Nam và của
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Tình hình trên cho thấy việc nghiên cứu có hệ
thống các quy định pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như hoạt động kiểm
sát của Viện kiểm sát trong vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Chính vì lý do đó tác giả quyết định chọn đề tài: “Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự
của Lào và của Việt Nam dưới góc độ so sánh” cho luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân là một vấn đề quan trọng,
vì vậy, hoàn thiện pháp luật về hoạt động kiểm sát được quan tâm từ rất sớm. Ở
Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu pháp luật về vấn đề này,
như :“Pháp luật về vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
- Đề tài khoa học cấp bộ "Kháng nghị của Viện kiểm sát với các cơ quan có
trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Nguyễn Hoàng Thế và các thành
viên thực hiện, nghiệm thu năm 2004 nêu nên thực trạng việc sử dụng quyền
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong khâu công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền năng này.
- Đề tài khoa học cấp bộ "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải
cách tư pháp hiện nay" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do tác giả Ngô Quang
Liễn và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2007, nghiên cứu về nhiệm vụ,


quyền hạn của Viện kiểm sát trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp.
- Chuyên đề "Tổng kết 50 năm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,

quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù" của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, do tác giả Bùi Đức Long và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2010,
đã khái quát quá trình hình thành, phát triển cùng những thành tựu, hạn chế
trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù từ khi Viện kiểm sát nhân dân thành lập năm 1960 đến năm
2010.
Vấn đề liên quan đến kiểm sát tạm giữ, tạm giam còn có nhiều bài viết đăng
trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Kiểm sát số 19/2012 có bài: "Căn cứ
tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm,
thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng tạm giam" của
TS. Đỗ Văn Đương; tác giả Nguyễn Hải Phùng có bài viết: "Khi kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự có cần ban hành
"quyết định trực tiếp kiểm sát" không?", Tạp chí kiểm sát, số 7/2012. Bên cạnh đó
còn có bài viết của GS.TSKH Lê Cảm: "Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền
con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự", Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 6/2010; bài viết của tác giả Vũ Đức Chấp: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm sát thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm
sát, số 10/2008; bài viết của PGS.TS Trần Văn Độ: "Bảo vệ quyền con người của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp", Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2010; bài viết của tác giả Bùi Đức Long:
"Bàn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án
hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 23/2010.
- Gần đây có công trình nghiên cứu đáng chú ý của Nguyễn Thị Thu
Phượng: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; của Nguyễn Vũ
Quang: “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội năm 2011; của Trần Thế Linh, năm
2014: “Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trên cơ sở số liệu thực



tiễn tại địa bàn thủ đô Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội
Ở Lào, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động kiểm sát tạm giữ,
tạm giam của VKSND. Tuy vậy, cũng có một số công trình đáng chú ý, như: Luận
văn thạc sĩ Luật học của Cha Khăm Bupha Livan (2005): “Chức năng kiểm sát của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao Lào, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Lào; Luận án tiến
sĩ Luật học của Khamkeo Vongxi (2006): “So sánh pháp luật TTHS Lào – Thái Lan
về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát”, Cao đẳng Luật Miền Bắc Lào…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết, tài liệu
nêu trên chỉ nghiên cứu các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam một cách khái quát với
tính chất là những BPNC có nội dung về thẩm quyền, điều kiện, căn cứ, đối tượng
áp dụng, những hạn chế trong các quy định của pháp luật TTHS và hướng hoàn
thiện. Chưa có một công trình riêng nào nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Nghiên cứu so
sánh Bộ luật TTHS về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam hai nước Lào và Việt Nam thì chưa có công trình nghiên
cứu khoa học nào.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Luận văn tập trung nghiên cứu những đường lối chính sách của Đảng Cộng
sản, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, và của Nhà nước Lào, Nhà nước Việt Nam về
hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động bắt tạm giữ, tạm
giam và các hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam và của CHDCND Lào về hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động bắt tạm giữ, tạm giam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như tổng hợp, phân tích,
diễn giải, chứng minh, đối chiếu, so sánh pháp luật, quy nạp, hệ thống hóa.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và những

giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về hoạt động kiểm sát
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm giam ở CHDCND Lào.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là:


a)Nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm giam;
b)Nghiên cứu và so sánh các quy định của pháp luật hiện hành của Việt
Nam và Lào về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm
giữ, tạm giam;
c) Đưa ra những nguyên tắc, phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc bắt tạm giữ, tạm giam ở Cộng hòa DCND Lào.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam ở Việt Nam
và ở Cộng hòa DCND Lào;
- Luận văn đã nghiên cứu và so sánh một cách đầy đủ, có hệ thống các quy
định pháp luật hiện hành của Việt Nam và Lào về hoạt động kiểm sát của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động bắt tạm giữ, tạm giam;
- Luận văn đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể, thiết thực, có tính
khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân
dân trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam ở Cộng hòa DCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương là:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung của pháp luật tố tụng hình sự về
hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm giam.
Chương 2. So sánh quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về hoạt động kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động bắt tạm giữ, tạm giam của Lào và

Việt Nam
Chương 3. Thực trạng hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc bắt tạm giữ, tạm giam; phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
Tố tụng hình sự về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt
tạm giữ, tạm giam ở Cộng hòa DCND Lào.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để kịp thời ngăn chặn tội phạm,
ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, Cơ quan điều tra và các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (gọi chung là
CQĐT), VKS và Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có
thẩm quyền theo quy định của BLTTHS có thể áp dụng các BPNC: bắt, tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm, tạm hoãn xuất cảnh.
Theo từ điển Tiếng Việt, ngăn chặn là "chặn lại ngay từ đầu, không để cho
gây tác hại"1. Theo cách hiểu chung nhất, BPNC là một trong các biện pháp cưỡng
chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với
người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm
ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc thi hành án hình sự2.
Có thể khẳng định rằng, BPNC trong TTHS là một nhóm các biện pháp
cưỡng chế TTHS chứ không phải là biện pháp chấp hành hình phạt tù. Tuy vậy,
việc áp dụng BPNC mà đặc biệt là bắt, tạm giữ, tạm giam có ảnh hưởng rât lớn đến

quyền lợi của cá nhân người bị áp dụng, nhất là quyên nhân thân và quyên tự do
cá nhân. Do đó, áp dụng BPNC này không chỉ phải tuân theo trình tự, thủ tục hết
sức chặt chẽ mà còn phải dựa trên những căn cứ nhât định để xem xét tính cần
1 Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, năm 1998, tr.671
2 NXB. Tư pháp, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, tr.69.


thiết của việc áp dụng. Vậy các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam được hiểu như thế
nào?
- Bắt người: Bắt là một trong những BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc,
vì vậy việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo pháp luật
quy định.
Bắt người là BPNC mang tính đặc thù thường được áp dụng liền trước các
BPNC như tạm giữ, tạm giam. BPNC này làm hạn chế một số quyền tự do của cá
nhân người bị bắt, buộc họ phải có mặt tại địa điểm quy định để làm việc với Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.
Nhằm mục đích đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, tăng cường pháp chế
XHCN, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cũng như đảm bảo
các quyền tự do dân chủ của công dân, BLTTHS quy định ba trường hợp bắt, đó là:
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Các trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc trường
hợp nào thì cơ quan, người có thấm quyền do luật định có thế áp dụng. Song căn
cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân, các quy định đối với người chưa thành niên, các quy định đối với người phạm
tội là người nước ngoài, khi chủ thể thuộc các đối tượng này còn phải vận dụng
thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC cũng như áp dụng các quy
định trong BLTTHS được đúng đắn. Việc áp dụng các biện pháp bắt người cũng
phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trương, đường lối chi đạo của Đảng
và Nhà nước trong mồi giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của

đất nước ta.
- Tạm giữ: Theo Từ điển Luật học năm 2006 thì: "tạm giữ được hiểu là biện
pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang để cách ly họ với xã hội trong thời gian cần thiết nhằm ngăn
chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định sự liên quan của
người này đối với tội phạm"3. Điều 86 BLTTHS Việt Nam năm 2003 và Điều 117
BLTTHS Việt Nam năm 2015 quy định về đối tượng, căn cứ và thẩm quyền áp
dụng BPNC tạm giữ. Theo quy định của điều luật này thì tạm giữ là việc cơ quan
3 NXB. Tư pháp, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, tr. 690.


và người có thẩm quyền ra quyết định tạm thời hạn chế tự do trong thời hạn ngắn
đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp
khẩn cấp. Mục đích của BPNC tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc
hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của những người bị nghi là thực
hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền có thời gian để
xác định tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp lý cần thiết khác như: tạm giam,
áp dụng các BPNC khác hay trả tự do cho người đã bị bắt.
Từ những nghiên cứu và phân tích trên đây thì có để đưa ra khái niệm: tạm
giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do những chủ thể có thẩm quyền
theo luật định áp dụng trong trường hợp cần thiết đối với những người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú
hoặc đang bị truy nã nhằm ngăn ngừa và xử lý tội phạm kịp thời.
- Tạm giam:
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong số các BPNC. Đúng như vậy, các
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và lợi ích về tài sản mà
không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất khả xâm

phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp. Còn các biện pháp bắt
người, tạm giữ cũng là BPNC nghiêm khắc, nó cũng hạn chế quyền tự do của công
dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều so
với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi bắt, CQĐT phải lấy lời khai, ra quyết định
tạm giữ hoặc trả lại tự do cho người bị bắt. Thời gian tạm giữ là 03 ngày đêm và
tối đa là 09 ngày đêm đối với gia hạn tạm giữ. Trong khi đó thời hạn tạm giam để
điều tra có thể lên đến 12 tháng hoặc 16 tháng. Tóm lại, có thể hiểu: Tạm giam là
BPNC nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự do những người có thẩm quyền của
CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định hình
phạt tù để ngăn chặn người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "kiểm sát" có nghĩa là "kiểm tra và giám sát"4.


Theo Từ điển Luật học 2006 thì kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm tra, xem
xét theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành
vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất5. Kiểm sát là hoạt động mang tính quyền lực Nhà
nước, đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong quá trình hoạt động tư pháp của các
chủ thể. Trong hoạt động tổ tụng hình sự VKS có vị trí, vai trò quan trọng. Cùng
với CQĐT, Tòa án, VKS được xác định là một trong số các cơ quan tiến hành tố
tụng, được pháp luật quy định là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng
hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, bảo
đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Hiến pháp năm 1959 của Việt Nam đánh dấu sự ra đời của VKSND với việc lần đầu
tiên quy định trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước "có một hệ thống cơ quan
Nhà nước mới, thực hiện một chức năng mới của Nhà nước - chức năng kiểm sát

việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất trong phạm vi cả nước - đó là Viện kiểm sát nhân dân"6. Thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ III và Hiến pháp
năm 1959, ngày 27/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, khai sinh hệ thống cơ quan VKSND ở Việt Nam.
Theo đó, cùng với TAND, VKSND là cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Để thực hiện nhiệm vụ trên, VKSND được
Nhà nước giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tổ và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Đối với mỗi chức năng, VKSND lại có những nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể. Trong việc áp dụng các BPNC, VKS có nhiệm vụ đảm bảo mọi trường hợp
bắt, tạm giữ, tạm giam đều phải có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, sai, nhằm
4 Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, năm 1998, tr.523.
5 NXB. Tư pháp, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, tr.441-443.
6 Xoom Khay Phumavong (2010), Hoàn thiện pháp luật TTHS Lào trong quá trình cải cách tư pháp hiện
nay, Nxb.Tư pháp, tr.34.


phục vụ có hiệu quả cho xử lý tội phạm và người phạm tội; bảo đảm chế độ của
người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Để
thực hiện nhiệm vụ trên, VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy
định để đảm bảo việc áp dụng BPNC có căn cứ và cần thiết đồng thời phát hiện,
loại trừ vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC. Khi kiểm sát việc áp dụng
các BPNC, VKS có nhiệm vụ bảo đảm các lệnh, quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam
đúng thẩm quyền, thủ tục; bảo đảm có căn cứ ra quyết định bắt, tạm giữ, tạm
giam. Khi kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, VKS có
nhiệm vụ và kiểm sát các hoạt động áp dụng BPNC của CQĐT; yêu cầu CQĐT khắc
phục các vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của
Điều tra viên và yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi

phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC này; trực tiếp kiếm sát tại nhà tạm
giữ, trại tạm giam; kiểm tra hồ sơ, tài liệu của trại tạm giam, nhà tạm giữ; gặp, hỏi
người bị tạm giữ, tạm giam; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc tạm
giữ, tạm giam; yêu cầu trại tạm giam, nhà tạm giữ thông báo tình hình tạm giữ,
tạm giam, trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong
việc tạm giữ, tạm giam; kháng nghị yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc
bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, chấm dứt
việc làm vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật. Kiến nghị
với cơ quan, tô chức áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp
luật. Như vậy nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng các BPNC bắt,
tạm giữ, tạm giam là tống thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước trao cho
VKSND, được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, thông qua đó
VKSND được quyền nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng thực hành quyển
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
Trong việc áp dụng bắt, tạm giữ, tạm giam, VKSND thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn nhằm đảm bảo ngăn chặn kịp thời việc thực hiện tội phạm, ngăn chặn
người phạm tội bỏ trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Ngoài ra do việc bắt, tạm giữ, tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản
của công dân nên khi các cơ quan tư pháp (Cơ quan Điều tra, Tòa án) áp dụng các
BPNC này, VKS thực hiện nhiệm vụ của mình bằng việc kiểm sát các hoạt động tư
pháp nhằm bảo đảm cho việc ra quyết định, tổ chức thực hiện các BPNC này được


chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích
họp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam được tôn trọng và bảo vệ. Cụ thể như:
Khi phát hiện tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, CQĐT áp dụng các
BPNC bắt, tạm giữ, VKS thực hiện việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt
khẩn cấp, quyết định gia hạn tạm giữ của CQĐT, đồng thời VKS cũng tiến hành
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong việc bắt, tạm giữ như
kiểm sát về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ra lệnh, quyết định và việc tố chức thực

hiện, kiếm sát việc thực hiện chế độ đối với người bị bắt, tạm giữ, kiểm sát hoạt
động lấy lời khai của người bị tạm giữ.
Qua phân tích trên, có thể rút ra khái niệm hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân là
tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát từ khi tạm giữ, tạm giam và kết
thúc khi chấm dứt việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với các cơ quan, đơn vị, các cá
nhân có thẩm quyền trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm đảm bảo việc tạm giữ,
tạm giam được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật bảo đảm tính mạng, sức
khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ không bị vi phạm.
1.2. Nội dung của pháp luật tố tụng hình sự của Lào và Việt Nam về
hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt tạm giữ, tạm
giam
Pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong vấn đề bắt, tạm giữ
và tạm giam.
Bộ Luật TTHS năm 2009 của Lào gồm 12 chương, 122 Điều. Vấn đề bắt, tạm
giữ, tạm giam được quy định tại chương IV về các biện pháp cưỡng chế. Trong đó
các Điều 59 (các biện pháp cưỡng chế), Điều 60 (thẩm quyền ra quyết định bắt
giữ, tạm giữ), Điều 62 (bắt tạm giữ), Điều 63 (bắt tạm giam)
Bộ Luật TTHS năm 2003 của Việt Nam bao gồm 37 chương, 346 Điều. Vấn
đề bắt, tạm giữ, tạm giam được quy định tại Chương VI về những biện pháp ngăn
chặn. Trong đó các Điều 79 (Các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn
chặn), Điều 80 (Bắt bị can, bị cáo để tạm giam), Điều 81 (Bắt người trong trường


hợp khẩn cấp), Điều 82 (Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã), Điều
83 (Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt), Điều 84( Biên
bản về việc bắt người), Điều 85 (Thông báo về việc bắt), Điều 86 (Tạm giữ), Điều

87 (Thời hạn tạm giữ), Điều 88 (Tạm giam)
Mặc dù được quy định khác nhau trong các điều luật nhưng pháp luật TTHS
của Lào và Việt Nam về việc bắt, tạm giữ, tạm giam đều bao gồm các chế định sau:
Thứ nhất, quy định về các biện pháp ngăn chặn. Theo quy định của Bộ luật
TTHS Việt Nam năm 2003 thì biện pháp ngăn chặn gồm có: bắt người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt người đang bị truy nã, bắt người phạm tội quả tang, bắt
bị can, bị cáo để tạm giam, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm, bảo lĩnh. BLTTHS Việt Nam năm 2015 bỏ biện pháp
bắt người trong trường hợp khẩn cấp thành giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bổ sung thêm biện pháp tạm hoãn xuất cảnh và sửa đổi đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm thành đặt tiền để bảo đảm.Theo Bộ luật TTHS Lào năm 2009
thì biện pháp ngăn chặn gồm bắt tạm giữ, bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú.
Thứ hai, quy định về nhiệm vụ, thẩm quyền của chủ thể bắt, tạm giữ, tạm
giam.
Theo quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2003 thì Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh
án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các
cấp; Hội đồng xét xử là chủ thể có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị
cáo để tạm giam, ra lệnh tạm giam. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
các cấp; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy
đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay,
tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng, chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển là chủ
thể có thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, ra lệnh tạm giữ.
Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà
bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay
người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần
nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc



báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trường hợp Công an xã, phường,
thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang thì thu
giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản
bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp
luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay
người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần
nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc
báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. BLTTHS Việt Nam năm 2015 đã bổ
sung thêm Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu
cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương,
Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng,
chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm
phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh
sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn
trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển;
Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng là các chủ thể có thẩm quyền ra lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, ra lệnh tạm giữ.
Theo quy định của BLTTHS Lào năm 2009, thì Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó
Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ
Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét
xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp là những người có thẩm
quyền ra quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giữ, tạm giam. Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án,
Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ
Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét
xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có thẩm quyền ra lệnh,
quyết định bắt tạm giữ, bắt tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp. Người đứng đầu

lực lượng biên phòng, chỉ huy trưởng tàu bay có quyền ra quyết định tạm giữ.
Thứ ba, quy định về trình tự, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam;


Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là nguyên tắc
cơ bản được Hiến pháp quy định. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của toà
án, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát. Vì vậy, pháp luật quy định rất
chặt chẽ trình tự, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam. Trừ bắt người phạm tội quả tang,
bắt người đang bị truy nã thì việc bắt người phải có lệnh; người thi hành lệnh phải
đọc và giải thích lệnh cho người bị bắt; không được bắt người vào ban đêm; khi
tiến hành bắt người phải có người chứng kiến và phải lập biên bản về việc bắt. Đối
với việc tạm giữ phải có lệnh viết của những người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ
phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một
bản. Trong vòng 24 giờ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không
cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ lệnh tạm giữ và trả tự do ngay cho
người bị bắt. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ khi cơ quan điều tra
nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia
hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày và trong trường hợp đặc biệt lại có thể gia
hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ
đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi
nhận được đề nghị gia hạn, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị
can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Đối với việc tạm giam phải có
lệnh của người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Lệnh tạm
giam của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này,
lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh
án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Lệnh tạm giam phải

ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của
người bị tạm giam, thời hạn tạm giam. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra
căn cước của người bị tạm giam và phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm
giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị
tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
Thứ tư, quy định về các đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn.


Mục đích của biện pháp ngăn chặn là Ngăn chặn không cho tội phạm tiếp
tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội
phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt
của pháp luật; 2) Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án
như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ,
làm giả chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm
chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan
THTT. Ngoài hai mục đích trên biện pháp ngăn chặn không được áp dụng với bất
kỳ mục đích nào khác nhất là đối với ý đồ xâm phạm quyền con người nên đối
tượng của biện pháp này là người bị nghi ngờ thực hiện tội phạm (trong trường
hợp bắt khẩn cấp) hoặc người có hành vi phạm tội quả tang, hoặc người sẽ bị khởi
tố về hình sự (bị can), người đã bị toà án đưa ra xét xử (bị cáo).
Theo quy định của BLTTHS, đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tối ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự
quy định hình phạt tù trên hai năm và trong trường hợp có căn cứ cho rằng người
đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi con dưới
36 tháng tuổi hoặc là người già yếu, người đang bệnh nặng, có nơi cư trú rõ ràng
thì không bị tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Chỉ trong những
trường hợp đặc biệt như phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng,
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ cho rằng nếu không tạm giam thì

người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội thì mới tạm giam họ.
Đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ là người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Đối với người bị bắt khi phạm tội
quả tang mà sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi
cư trú rõ ràng và không có biểu hiện bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở việc
điều tra thì không cần tạm giữ.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật tố tụng
hình sự của Lào về hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam


Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là quốc gia độc lập nằm trong khu vực
Đông Nam Á, có đặc điểm địa lý, kinh tế – xã hội và chính trị riêng. Sau kháng
chiến chống Mỹ, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã lãnh đạo đất nước và nhân dân
khôi phục và phát triển kinh tế đồng thời với việc xây dựng pháp luật để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội đang ngày càng phát triển đa dạng ở Lào trong đó
việc xây dựng chế định bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự nói riêng
được chú trọng. Năm 1977 Hội đồng Bộ trưởng Lào đã ban hành Nghị định số
115/1977/NĐ-HĐBT quy định về điều tra các vụ án hình sự trong đó có quy định
nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan điều tra về bắt giữ, bắt giam những người
có Lệnh tạm giữ hoặc Lệnh tạm giao cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất
định để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc đảm bảo thi hành án phạt tù hoặc án tử hình. Nghị định cũng quy
định Viện Kiểm sát có trách nhiệm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực giam, giữ, cải tạo của những người và cơ quan có thẩm quyền để
kịp thời ngăn chặn và xử lý. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật quy định về nhiệm
vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự chưa được cụ thể hóa và đi
vào hoạt động. Nhưng dù sao nghị định cũng là cơ sở tiền đề quan trọng để ban
hành luật Bộ luật TTHS trong các giai đoạn tiếp sau. Tiếp đến năm 1989 BLTTHS

và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự của Lào được ban hành trong đó có quy
định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Như vậy đến năm 1989, lần đầu tiên chế định
bắt, tạm giữ, tạm giam được quy định trong một văn bản pháp luật. Bộ luật tố tụng
hình sự 1989 quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Điều 31 Bộ luật tố tụng hình sự 1989 đã quy
định chi tiết chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân: Viện kiểm sát có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành
quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất từ trung ương tới địa phương. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, Viện
kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại
trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào Tuy nhiên những
quy định này vẫn còn những hạn chế là quy định chưa cụ thể về đối tượng và
trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam mà chỉ
quy định chung cho các tổ chức điều tra và chưa phân biệt chức năng thẩm quyền


của Viện kiểm sát trong bắt, tạm giữ, tạm giam với cơ quan cảnh sát và các tổ chức
khác theo quy định của pháp luật.
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng Nhân dân cách mạng và Nhà nước Lào
đã tiến hành sửa đổi BLTTHS năm 1989, trong đó có việc xác định lại thẩm quyền
bắt, tạm giữ, tạm giam. Điều 9, Điều 31 BLTTHS năm 1989 được sửa đổi theo
hướng bổ sung : "Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù" (khoản 1, Điều 9); “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm
tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội (Điều 31). Tại Nghị quyết Trung ương 5 khoá VII,
quan điểm của Đảng nhân dân cách mạng Lào nêu rõ: “Tăng cường trách nhiệm

của Viện kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt, giam giữ, góp phần vào việc đảm
bảo thực hiện dân chủ, quyền bình đẳng tự do và thịnh vượng của công dân”. Hiến
pháp Lào năm 1991 tại Điều 6 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền tự do và dân
chủ của người dân mà không thể bị xâm phạm bởi bất cứ ai”. Nghị quyết số 15NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 1991 của Bộ Chính trị Lào quy định: “… Tăng
cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ bảo đảm đúng pháp luật của Viện kiểm
sát nhân dân các cấp; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên
quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các
trường hợp oan sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những
oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của
mình…”.
Trên cơ sở đó, Quốc hội nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã thông qua
BLTTHS năm 1999 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1999, trong đó quy
định rõ hơn vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân Lào, mở
ra một thời kỳ mới cho sự hoàn thiện và phát triển của chế định này trong pháp
luật TTHS Lào.
Trước nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, quyền về con người được đề cao,
sự gia tăng của các loại tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm,


Hiến pháp Lào năm 2003 sửa đổi đã quy định tại Điều 42: “Công dân Lào có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể và danh dự. Công dân Lào không thể bị bắt giữ hay
bị coi là tội phạm mà không có lệnh của toà án và cơ quan có thẩm quyền”. Quốc
hội Lào đã thông qua BLTTHS năm 2004, Luật Viện kiểm sát năm 2004 đã quy
định việc bắt, tạm giữ, tạm giam phù hợp với Hiến pháp. Bộ luật TTHS năm 2004
kế thừa những quy định của BLTTHS năm 1989. Theo đó, BLTTHS năm 2004 quy
định cụ thể vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn, đối tượng, phạm vi và phương thức
hoạt động của Viện kiểm sát các cấp khi tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù nhằm đảm bảo việc tạm giữ, tạm
giam và chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật, chế độ tạm giữ,

tạm giam, chấp hành án được chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, tài sản, danh
dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù và các
quyền khác của họ không bị pháp luật, tước bỏ được tôn trọng Để phù hợp với
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và tình hình thực tiễn trong hoạt động tố
tụng ở Lào, BLTTHS tiếp tục được sửa đổi năm 2009 và Luật Viện kiểm sát nhân
dân năm 2009 là tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển quốc tế.
Như vậy, trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, ngay từ khi Viện
kiểm sát nhân dân ra đời thì nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành
án hình sự đã là nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận
trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân qua các thời kỳ, được xây
dựng thành những Quy chế để áp dụng thống nhất trong toàn ngành Kiểm sát, qua
đó đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân kịp thời phát hiện, khắc phục
những vi phạm, tồn tại, thiếu sót trong công tác tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương I, tác giả đã tập trung phân tích, luận giải một số vấn đề lý
luận về hoạt động kiểm sát bắt, tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân
trong TTHS cũng như khái niệm, nội dung của pháp luật tố tụng hình sự của Lào
và Việt Nam. Từ đó giúp cho việc làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, đặt nền


móng cho việc nghiên cứu các vấn đề tiếp theo của đề tài. Ngoài ra, tác giả cũng đã
trình bày quá trình phát triển các quy định của pháp luật TTHS của Lào về hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Có
thể thấy rằng, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật quy định vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự khác nhau từ đó mà hoạt động kiểm
sát của VKSND được quy định mở rộng hay thu hẹp theo quan niệm lập pháp của
từng thời kỳ của Lào và Việt Nam là khác nhau song đều được quy định tương đối

rõ ràng, cụ thể.

CHƯƠNG 2
SO SÁNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM VỀ
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẮT,
TẠM GIỮ, TẠM GIAM
2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Lào về hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
2.1.1. Hoạt động kiểm sát việc bắt tạm giữ bị can, bị cáo
Hiến pháp Lào quy định công dân Lào có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể và danh dự, công dân Lào không thể bị bắt giữ nếu không có quyết định của
toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Do đó, quyền con người được Hiến pháp bảo
vệ trong đó việc bắt tạm giữ bị can, bị cáo ở Lào phải trải qua nhiều trình tự, thủ
tục đặc biệt. Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân Lào được đề cao và
quy định cụ thể trong Bộ Luật TTHS Lào năm 2004 sửa đổi bổ sung 2009. Theo
Điều 62 về bắt tạm giữ quy định:
“Việc bắt giữ bất kỳ cá nhân là công dân Lào hay không phải công dân Lào
phải tuân theo một thứ tự sau: Lệnh bắt giữ của Viện kiểm sát hoặc Toà án nhân
dân trừ trường hợp bắt hay tạm giữ trong một trường hợp khẩn cấp. Trước khi
phát hành một lệnh bắt giữ, Viện kiểm sát hoặc Toà án nhân dân có trách nhiệm
xem xét các điều kiện sau đây:
1. Các hành động phải là một hành vi phạm tội mà pháp luật quy định việc
hình phạt tước quyền tự do;


2. Các bằng chứng trong trường hợp phải đáng tin cậy.
3. Ngoài ra, phát hành một lệnh bắt giữ như được dựa trên các điều kiện
khác như: các nghi phạm có thể chạy trốn, phá hủy bằng chứng, lại phạm tội mới,
hoặc có nguy cơ mà nếu không bắt giữ sẽ làm tổn thươngbên bị thương hoặc nhân
chứng; hoặc khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt

trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn; hoặc nghi ngờ có thể bị tổn thương bởi các bên bị
thương hoặc của các cá nhân khác. Nếu lệnh bắt giữ một nhà sư hay các nhà sư
đứng đầu hoặc đại diện của các tổ chức tôn giáo có liên quan sẽ được thông báo để
bắt hoàn tục trước khi bị bắt. Đối với một người đã được phong chức trong bất kỳ
tôn giáo khác, người đứng đầu của tổ chức tôn giáo đó phải được thông báo về bắt
giữ. Đối với vụ bắt giữ trong các tình huống bình thường, thứ tự bắt giữ cùng với
nguyên nhân cho bắt giữ như vậy phải được thông báo với người bị bắt”.
4. Bắt tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp; Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại Điều 60 của
Bộ luật này; người đứng đầu lực lượng biên phòng, chỉ huy trưởng tàu bay có
quyền ra quyết định tạm giữ
Như vậy, theo quy định pháp luật Lào thì việc bắt, tạm giữ được chia làm
hai trường hợp:
a. Bắt tạm giữ trong các tình huống bình thường:
Việc bắt tạm giữ bị can trong tình huống bình thường đòi hỏi phải có lệnh
bắt giữ của Viện kiểm sát hoặc Toà án (ở Lào, Viện kiểm sát và Toà án có quyền
độc lập ra quyết định bắt giữ, tạm giữ bị can, bị cáo nhưng khi ra quyết định bắt
tạm giữ thì phải thông báo cho Viện kiểm sát nếu cơ quan ra quyết định bắt giữ,
tạm giữ là Toà án và ngược lại. Cơ quan điều tra của cảnh sát và các cơ quan điều
tra khác theo pháp luật Lào không có thẩm quyền ra quyết định bắt giữ và tạm giữ
bị can, bị cáo trừ trường hợp đối với tội phản quốc (Điều 51), tội gián điệp (Điều
53), tội gây chấn động với ý định phá hoại trật tự xã hội (Điều 61), Cướp tài sản
thuộc về Nhà nước, của tập thể (Điều 98) nhưng những trường hợp này, sau đó
phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát). Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân Lào diễn ra ngay từ khi có một quyết định là Lệnh bắt giữ, đối với các
quyết định bắt giữ của cơ quan điều tra toà án hoặc của các cơ quan điều tra cảnh



×