Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân dưới góc độ so sánh giữa pháp luật nước CHDCND lào và pháp luật nước CHXHCN việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.56 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BOUNLONG DALY

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH GIỮA PHÁP
LUẬT NƯỚC CHDCND LÀO VÀ PHÁP LUẬT
NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành Chính
Mã số

: 60.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TÔ VĂN HÒA


HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại học
Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật Hiến
pháp đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương
trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người


hướng dẫn khoa học PGS.TS. Tô Văn Hòa, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BOUNLONG DALY


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân
tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực. Những kết quả,
những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ một công trình
nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HƯỚNG DẪN

BOUNLONG DALY


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND

: Cộng hoà dân chủ nhân dân


CHXHCN

: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

HĐXX

: Hội đồng xét xử

Luật TCTAND

: Luật Tổ chức Toà án nhân dân

TAND

: Toà án nhân dân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài


2

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

4

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

4

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

4

6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

5

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

5

8. Bố cục (các chương) của luận văn

5

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN NƯỚC CHDCND LÀO VÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM 6

1.1. Một số vấn đề khái quát về Tòa án


6

1.1.1. Khái quát về Quyền tư pháp

6

1.1.2. Khái quát hệ thống Tòa án nhân dân

8

1.2. Quá trình hình thành và phát triển Tòa án nhân dân ở Lào và Việt Nam
qua các giai đoạn lịch sử
10
1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển Tòa án nhân dân Việt Nam qua các giai
đoạn lịch sử
10
1.2.2. Quá trình hình thành, phát triển Tòa án nhân dân ở nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào
15
Kết luận Chương 1

20

CHƯƠNG 2. SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA
22
ÁN NHÂN DÂN NƯỚC CHDCND LÀO VÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM

2.1. Những điểm tương đồng trong tổ chức và hoạt động giữa Tòa án nhân
dân Lào và Việt Nam

22
2.1.1. Điểm tương đồng về nguyên tắc tổ chức và hoạt động

22

2.1.2. Điểm tương đồng về cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân

29

2.1.3. Điểm tương đồng về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân

33


2.1.4. Những điểm tương đồng trong hoạt động của Thẩm phán và Thư ký Toà
án nhân dân
36
2.2. Những điểm khác biệt về tổ chức và hoạt động giữa Tòa án nhân dân
Lào và Việt Nam
39
2.2.1. Điểm khác biệt về nguyên tắc tổ chức và hoạt động

39

2.2.2. Điểm khác biệt về cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân

49

2.2.3. Điểm khác biệt về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân


56

2.2.4. Những điểm khác biệt trong hoạt động của của Thẩm phán, Thư ký Toà
án nhân dân và các thành viên khác của Tòa án nhân dân
60
Kết luận Chương 2

71

CHƯƠNG 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
72
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN NƯỚC CHDCND LÀO

3.1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc so sánh quy định về tổ chức và
hoạt động giữa Tòa án nhân dân Lào và Việt Nam
72
3.2. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân nước CHDCND Lào
77
3.2.1. Hoàn thiện những quy định về mô hình tổ chức hệ thống Toà án nhân
dân
77
3.2.2. Hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân 79
3.2.3. Về nhiệm vụ, thẩm quyền của hệ thống tòa án nhân dân

81

3.2.4. Hoàn thiện các quy định về hoạt động của các thành viên Tòa án nhân
dân

83
Kết luận chương 3

87

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước CHDCND Lào
là định hướng cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Lào. Theo quy
định của Hiến pháp Lào năm 2015, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Toà án nhân dân
là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, là cơ quan xét xử của
nước CHDCND Lào, là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật trong các giai
đoạn cách mạng của đất nước, hệ thống ngành Toà án đã góp phần rất to lớn bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân.
Hệ thống Toà án của nước CHDCND Lào đã trải qua những cải cách về tổ

chức và hoạt động qua các thời kỳ theo quy định của Hiến pháp Lào năm 1991,
Luật tổ chức TAND Lào năm 1997, Hiến pháp Lào năm 2003, Luật Tổ chức TAND
Lào năm 2003. Hiện nay, khi Lào vừa ban hành Hiến pháp năm 2015 với nhiều nội
dung sửa đổi quan trọng, trong đó có việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì
việc xem xét sự phù hợp của hệ thống văn bản pháp luật những năm qua tiếp tục
được đặt ra. Luật tổ chức tòa án nhân dân của Lào được ban hành từ năm 2003, trải
qua hơn 10 năm đưa vào thực thi trên thực tế, bên cạnh những thành tựu đáng kể đã
đạt được, còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là những hạn chế về mặt bộ máy tổ chức
cồng kềnh, năng lực chuyên môn của thẩm phán cũng như thư ký tòa án còn hạn
chế, dẫn đến những yếu kém trong hoạt động xét xử của Tòa án, gây mất lòng tin
của nhân dân về ngành tư pháp Lào. Trước yêu cầu đặt ra từ thực tiễn xét xử cũng
như yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực
hiện quyền tư pháp, Toà án phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý,
quyền con người, đã đòi hỏi ngành TAND Lào phải được cải cách mạnh mẽ từ nhận
thức, pháp luật, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ việc xét xử, mà trước hết
là phải sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động
ngành TAND Lào.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, học tập, tham khảo pháp luật của các nước
trên thế giới về tổ chức và hoạt động của hệ thống nhân dân được đặt ra như một
trong những yêu cầu cấp thiết nhất hiện nay. Là một công dân Lào, đang sinh sống,
học tập, nghiên cứu pháp luật Việt Nam, tôi thấy rằng, là nước anh em, cùng có
hoàn cảnh lịch sử khá tương tự nhau, nhưng sau hơn 40 năm giải phóng thống nhất


9

đất nước, nền lập pháp Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc, tiệm cận với nền
lập pháp quốc tế. Việc nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam nói chung, các
quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói riêng, sẽ để lại nhiều bài
học bổ ích cho Lào trong quá trình sửa đổi những quy định pháp luật quan trọng

làm nền tảng cho hoạt động của nền tư pháp Lào. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài
“Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân dưới góc độ so sánh giữa pháp luật
nước CHDCND Lào và pháp luật nước CHXHCN Việt Nam” làm nội dung
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài viết trên
các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án nhân dân. Có thể
phân loại thành các nhóm như sau:
Thứ nhất, về các công trình là giáo trình, sách chuyên khảo có thể kể đến:
Thái Vĩnh Thắng, Vũ Hồng Anh (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, Tái bản lần thứ 16 có sửa đổi, bổ sung, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đăng Dung (chủ biên - Biên soạn), Bùi Xuân
Đức, Bùi Ngọc Sơn, Đặng Minh Tuấn (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam,
Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2002), "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà
nước", Sách tham khảo, Nxb Giao thông vận tải; Đào Trí Úc (chủ biên, 2002), "Hệ
thống tư pháp và cái cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", Nxb Khoa học xã hội năm
2002; Ngô Huy Cương (2005), "Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện
nay" của TS, Nxb Tư pháp; Nguyễn Văn Thảo (2006), "Xây dựng Nhà nước pháp
quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng", Nxb Tư pháp.
Thứ hai, các công trình là luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luận học nghiên
cứu về hệ thống tư pháp có liên quan đến tòa án nhân dân như: Luận án tiến sĩ luật
học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới tổ chức và hoạt động tòa án
nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay " của tác giả Lê Thành Dương năm
2002; Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả
Trần Huy Liệu năm 2003; Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà nội "Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005;
Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội “Nghiên cứu tiếp tục đổi

mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo định hướng Nghị quyết 49NQ/TW và Hiến pháp 2013” của tác giả Nguyễn Văn Cường năm 2014; Luận văn


10

thạc sĩ luật học Trường Đại học Luật Hà Nội “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào” của tác
gỉa Bunlai Anêka năm 2003…
Thứ ba, các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí: “Những vấn đề chủ yếu của công
cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”
của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm 2006; “Đổi mới tổ chức
và hoạt động của toà án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa” của tác giả Trương Hoà Bình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn
phòng Quốc hội, Số 2+3/2009, tr. 6 – 16; “Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa” của tác giả Trương Hòa Bình, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa
án nhân dân tối cao, Số 10/2012, tr. 1 – 12; “Một số ý kiến đề xuất sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 liên quan đến tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân” của tác
giả Trần Duy Bình, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 12/2013,
tr. 1 – 4; “Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân,
tương xứng với chức năng, nhiệm vụ "Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp"” của tác giả Trương Hòa
Bình, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 7/2014, tr. 1 – 12;
“Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” của tác giả Đỗ
Thị Hải Yến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số
7/2014, tr. 15 - 23.
Các công trình trên đã đặt ra những vấn đề làm nền tảng cho việc nghiên cứu
tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Tuy vậy, các công trình trên
chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước,

hoặc có công trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu
nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện
nay, do đó nội dung không còn mang tính thời sự nữa. Cho đến nay, vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND theo Luật
Tổ chức TAND Việt Nam năm 2003. Đồng thời, đối với Lào, ngoài công trình
“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND ở nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào” của tác giả Bunlai Anêka năm 2003 nghiên cứu tổ chức và hoạt
động của TAND nước CHDCND Lào theo Luật Tổ chức TAND năm 1997, chưa có
công trình nào nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND Lào theo
Luật TCTAND năm 2003 cũng như vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ


11

thống TAND Lào. Đặc biệt, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu vấn đề tổ
chức và hoạt động của hệ thống TAND của hai nước dưới góc độ luật học so sánh.
Do đó, có thể nói rằng, công trình “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân dưới góc độ so sánh giữa pháp luật nước CHDCND Lào và pháp luật nước
CHXHCN Việt Nam” là công trình hoàn toàn mới, nghiên cứu các quy định pháp
luật về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân của hai nước một cách toàn diện
dưới góc độ luật học so sánh.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quy định về tổ chức và
hoạt động của Toà án nhân dân theo Luật Tổ chức TAND Lào năm 2003 và Luật
Tổ chức TAND Việt Nam năm 2014 dưới góc độ luật học so sánh.
* Phạm vi nghiên cứu luận văn
Trong khuôn khổ chuyên ngành Luật Hiến pháp, luận văn tập trung phân
tích, so sánh các quy định của nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam
về tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân, trong đó, tập trung nghiên

cứu, so sánh các quy định của Luật tổ chức TAND Lào năm 2003 và Luật tổ chức
TAND Việt Nam năm 2014.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nước
và pháp luật làm rõ cơ sở lý luận, quá trình hình thành và phát triển của hệ thống
TAND của Lào và Việt Nam, trên cơ sở những so sánh về điểm tương đồng và khác
biệt về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo quy định pháp luật hai nước,
rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, nhằm xây dựng hệ thống tòa án trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của
tòa án của nước CHDCND Lào.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu toàn diện của đề tài, Luận văn phải trả lời những câu
hỏi sau:
(1) Những điểm tương đồng và khác biệt trong nguyên tắc tổ chức và hoạt
động giữa TAND Lào và Việt Nam?
(2) Những điểm tương đồng và khác biệt trong cơ cấu tổ chức hệ thống
TAND theo pháp luật Lào và Việt Nam?
(3) Những điểm tương đồng và khác biệt trong chức năng, nhiệm vụ của
TAND theo pháp luật Lào và Việt Nam?


12

(4) Những điểm tương đồng và khác biệt trong hoạt động của thành viên
TAND theo pháp luật Lào và Việt Nam?
(5) Những bài học kinh nghiệm từ việc so sánh pháp luật hai nước về tổ
chức và hoạt động của hệ thống TAND?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thể hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà
nước Việt Nam cũng như Lào về lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật, về đổi
mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp,
những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng là các phương pháp nghiên
cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử
cụ thể, đồng thời cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh, phương pháp lý
thuyết hệ thống, phương pháp thống kê …
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Như trên đã nói, đây là một công trình hoàn toàn mới, do đó, kết quả nghiên
cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình
cải cách tư pháp. Những bài học kinh nghiệm và kiến nghị được rút ra trong luận
văn có thể góp một phần nhỏ công sức cho sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy
định của Luật tổ chức TAND Lào năm 2003 về tổ chức và hoạt động của TAND.
Bên cạnh đó, Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
nhà khoa học, những người làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho việc
nghiên cứu, giảng dạy.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1- Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân
nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam
Chương 2 – So sánh pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
nướ CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam
Chương 3- Bài học kinh nghiệm và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các
quy định về pháp luật tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nước CHDCND
Lào.



13

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN NƯỚC CHDCND LÀO VÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề khái quát về Tòa án
1.1.1. Khái quát về Quyền tư pháp
“Tư pháp” là thuật ngữ Hán Việt, có hai nghĩa chính: thứ nhất, là trông coi
bào vệ pháp luật; thứ hai, tư pháp là pháp đình theo pháp luật mà xét định các việc ở
trong phạm vi pháp luật1. Trong khoa học pháp lý phương Tây, tư pháp là xét xử
hay ý tưởng cao đẹp về một nền công lý. Trong phương diện tổ chức quyền lực Nhà
nước, tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp
và đồng nghĩa với quyền xét xử (tài phán) do Tòa án thực hiện là quan niệm phổ
biến của nhiều nước tư sản phát triển2. Ở Việt Nam, trên cơ sở nguyên tắc hiến
định: “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã
cho thấy quyền tư pháp luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành
pháp trong tổng thể quyền lực Nhà nước thống nhất.
Trong khi hoạt động chủ yếu của hành pháp và lập pháp là Nhà nước ban
hành và tổ chức thực hện pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong
tự do mà pháp luật xác lập. Tuy vậy, vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
hiện tượng xâm hại trật tự pháp luật và pháp luật luôn xuất hiện trong đời sống xã
hội. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin khẳng định: “sẽ là không tưởng
khi cho rằng pháp luật đương nhiên được tất cả mọi người tuân thủ”3. Bảo vệ pháp
luật, khôi phục trật tự pháp luật bị xâm hại là một đòi hỏi khách quan của Nhà nước,
của xã hội và của mọi người dân.Chính nhu cầu này đã hình thành nên hoạt động
bảo vệ pháp luật – nội dung cơ bản của quyền tư pháp.
Họat động xét xử của Tòa án là lĩnh vực thể hiện tập trung nhất của quyền tư
pháp. Nội dung của hoạt động xét xử của Tòa án là so sánh các hành vi, tranh chấp

pháp lý liên quan đến con người với các chuẩn mực pháp luật, phán xét tính đúng
đăn, tính hợp pháp của hành vi, tranh chấp. Trên cơ sở đó, Tòa án nhân danh Nhà
nước ra phán quyết bắt buộc mọi người phải thi hành, khôi phục lại các giá trị pháp
luật bị vi phạm, bảo vệ và duy trì các giá trị văn minh của pháp luật. Thực tế đã
chứng minh rằng, trong thực thể quyền lực Nhà nước thống nhất, quyền tư pháp có
vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ quyền tư pháp vừa là bộ phận cùng với lập pháp và
1 Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, tr.570.
2 Nguyễn Huyền Ly (2012), Vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam, bản tóm tắt Luận văn
ThS ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
3 V. I. Lênin Toàn Tập 33 - Nhà Nước Và Cách Mạng, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976., tr.1-148.


14

hành pháp hợp thành quyền lực Nhà nước vừa là thể chế bảo vệ quyền lực Nhà
nước. Vị trí và vai trò đặc biệt của quyền tư pháp được J.J.Russeau diễn đạt như
sau: “Luật đã mất thiêng thì mọi cái đều hết hi vọng. Luật không còn hiệu lực thì
không một cái gì hợp lý có thể duy trì sức mạnh được nữa”4.
Như vậy, có thể thấy quyền tư pháp có nội dung bảo vệ pháp luật. Hoạt động
này được thực hiện tập trung nhất tại Tòa theo phương thức tài phán. Với nội hàm
trên, quyền tư pháp có những đặc điểm cơ bản sau: (1) Quyền tư pháp là hoạt động
áp dụng pháp luật của tòa án theo phương thức tài phán; (2) Quyền tư pháp là một
bộ phận của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội và chỉ được thực hiện khi có vi
phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý cần đến phán quyết của Nhà nước; (3) Quyền tư
pháp được thực hiện bằng nhiều hoạt động độc lập với các chức năng riêng, diễn ra
liên tục theo một quy trình chặt chẽ, tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục nghiêm ngặt
dựa trên phương thức đặc thù là tài phán, phục vụ hoạt động trung tâm là xét xử của
tòa án.
Để những đặc trưng của quyền tư pháp được bảo đảm trong quá trình thực
hiện quyền tư pháp, Nhà nước đã trao nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp cho nhiều

cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác nhau cùng thực hiện theo một trình tự thủ
tục chặt chẽ, dân chủ và công khai, trong đó Toà án thực hiện hoạt động xét xử, cơ
quan công tố (Viện kiểm sát nhân dân) thực hiện quyền truy tố, cơ quan điều tra
thực hiện hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh một hành vi vi phạm
pháp luật hình sự, cơ quan thi hành án thực hiện nhiệm vụ thi hành các bản án quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của toà án; các cơ quan giám định tư pháp, công
chứng, luật sư thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp nhằm mục đích phục vụ hoạt
động xét xử khách quan, chính xác, đúng pháp luật, công bằng. Do đó, hệ thống cơ
quan tư pháp bao gồm các cơ quan, thiết chế thực hiện chức năng chủ yếu là duy trì
và bảo vệ công lý bằng các biện pháp và thủ tục đặc thù dựa trên nguyên tắc tài
phán công bằng, công khai, cụ thể gồm cơ quan tài phán (Toà án) và các cơ quan
khác có chức năng chủ yếu là phục vụ trực tiếp cho hoạt động tài phán.
Như vậy, quyền tư pháp mà trọng tâm là quyền xét xử thực hiện chức năng
bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Bằng hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp
luật, giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn trong đời sống xã hội, hệ thống các cơ
quan tư pháp mà trung tâm là toà án ngày càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong Nhà nước pháp quyền. Vị trí, vai trò của Tòa án được thể hiện ở chỗ: Toà án

4 Nguyễn Huyền Ly (2012), Vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận văn ThS ngành:
Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2012, tr. 9.


15

không chỉ là công cụ bảo vệ pháp luật mà còn là thiết chế bảo vệ, bảo đảm cho
quyền con người được tôn trọng và thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.
1.1.2. Khái quát hệ thống Tòa án nhân dân
Quyền Tư pháp trong bộ máy nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan có
thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, giữa các hình thức nhà nước khác nhau, bản chất của
hệ thống cơ quan có thẩm quyền xét xử cũng khác nhau.

Trong bộ máy nhà nước tư sản, hệ thống Tòa án là cơ quan có vị trí đặc biệt.
Về hình thức, Tòa án được coi là độc lập đối với các cơ quan Nhà nước khác song
về thực chất nó là công cụ bổ sung cho những lỗ hổng trong chính sách mà giai cấp
tư sản vì điều kiện này hay điều kiện khác không thể bịt kín bằng hệ thống cơ quan
hành pháp, bằng pháp luật. Tòa án tư sản đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực
hiện quyền lực chính trị của giai cấp tư sản. Vì thế, nó ít chịu tác động của các cuộc
cải cách tư sản. Tòa án là hệ thống cơ quan có tính ổn định cao nhất trong bộ máy
Nhà nước tư sản. Ở các nước tư sản, bên cạnh hệ thống tòa án cổ điển còn có các
tòa án hành chính (Pháp, Thụy Điển). Tòa án hành chính chịu trách nhiệm xét xử
các vi phạm hành chính. Đây là thể chế mới của bộ máy nhà nước tư sản so với thời
kỳ trước đây. Bên cạnh đó, ở một số nước tư sản còn có một thể chế khác nữa là tòa
án hiến pháp. Việc thành lập tòa án hiến pháp biểu hiện sư can thiệp của cơ quan
xét xử vào hoạt động lập pháp, hành pháp. Mục đích của việc thành lập tòa án hiến
pháp không chỉ nhằm vào việc bảo đảm tuân thủ hiến pháp mà còn nhằm vào việc
kiểm tra hoạt động của nghị viện, chính phủ.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hệ thống các cơ quan xét xử là loại cơ quan có chức năng đặc thù của bộ máy nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Tính đặc thù của loại cơ quan này thể hiện ở chỗ chúng trực
thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách nhiệm báo cao trước cơ quan quyền
lực nhà nước, nhưng hoạt động lại độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền tư pháp. Thông
thường, Tòa án Nhân dân có hai loại: (1) Tòa án Nhân dân Tối cao, trực thuộc
Trung ương, là tòa án nhân dân cấp cao nhất trong hệ thống luật pháp của vài nước
theo chủ nghĩa cộng sản; (2) Tòa án Nhân dân địa phương, gồm có tòa án cấp tỉnh,
cấp huyện,... Tòa án có chức năng chủ yếu là xét xử để bảo đảm công lý, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước.
Cũng giống như hệ thống tòa án nói chung trên thế giới, hệ thống TAND của
Việt Nam và Lào có thể được xem xét dưới các góc độ hiện đại như sau:



16

Thứ nhất, hệ thống tòa án với tư cách là một thể thống nhất: Với tư cách là
một thể thống nhất, hệ thống tòa án được giao chức năng xét xử các tranh chấp giữa
người dân với nhau hoặc giữa người dân với cơ quan Nhà nước. Có nhiều cách thức
để giải quyết các tranh chấp khác nhau, nhất là các tranh chấp không mang tính chất
hình sự và các bên trong tranh chấp có thể không chọn tòa án là cơ quan phán xử
đầu tiên. Họ có thể gặp gỡ nhau để thỏa thuận về một biện pháp giải quyết được
chấp nhận bởi cả hai bên; hay họ có thể yêu cầu một bên thứ ba, ví dụ như trọng tài
hoặc hòa giải viên để giúp họ giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, khi cách thức giải
quyết bằng con đường Nhà nước được chọn thì Tòa án chính là cơ quan nhà nước
được giao quyền xét xử vụ việc. Phán quyết của Tòa án đối với vụ việc được bảo
đảm bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Điều này chính là đặc trưng của hoạt động
xét xử của Tòa án và là yếu tố phân biệt giữa hệ thống tòa án với hai nhánh quyền
lực lập pháp và hành pháp.
Thứ hai, hệ thống tòa án với ý nghĩa là một hệ thống xét xử nhiều cấp: Hệ
thống tòa án ở bất cứ nước nào trên thế giới cũng là một hệ thống xét xử bao gồm
các tòa án được thành lập ở nhiều cấp xét xử khá nhau và có những thẩm quyền xét
xử khác nhau. Thực tiễn cho thấy, về cấp xét xử, hệ thống tòa án ở các quốc gia,
cho dù là theo mô hình liên bang hay nhất thể, đều được chia theo chiều dọc thành
hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Cấp sơ thẩm gồm nhiều tòa án xét xử vụ việc lần đầu
tiên hoặc lại từ đầu. Cấp phúc thẩm bao gồm các tòa xét xử các vụ án đã được xử ở
cấp sơ thẩm nhưng bị kháng cáo. Ở một số nước, một số toàn án ở cấp phúc thẩm
có thể đồng thời có thẩm quyền xét xử sơ thẩm một số loại việc như những vụ án
hình sự có mức phạt cao, những vụ việc dân sự liên quan tới những khoản tiền lớn,
hay những vụ việc chuyên ngành khác. Các tòa án này có thể được chia thành cấp
phúc thẩm, bao gồm những tòa án chuyên xét xử những vụ phúc thẩm đương nhiên
và cấp thượng phẩm, thường bao gồm tòa án cao nhất của quốc gia hoặc các tòa án

có thẩm quyền xét xử cuối cùng của vụ việc. Hệ thống TAND hiện hành của Lào và
Việt Nam đều gồm 4 cấp: TAND cấp huyện; TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, TAND cấp cao và TAND tối cao.
Thứ ba, hệ thống tòa án bao gồm hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động
của tòa án và các thiết chế tòa án. Khái niệm “hệ thống” theo nghĩa này có nội hàm
rộng, khái quát và đầy đủ nhất, bao gồm tất cả các quy định về hệ thống tòa án cũng
như cơ cấu tổ chức của tòa án.
Như vậy, quan phân tích từ các góc độ trên đây có thể thấy hệ thống tòa án là
tập hợp các hệ thống thiết chế tòa án và các quy định pháp luật về tòa án được thành
lập ở nhiều cấp xét xử khác nhau và có thẩm quyền xét xử khác nhau nhằm bảo vệ


17

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá
nhân. Trong xã hội pháp quyền, Toà án là nơi mà mọi người tìm đến lẽ phải, tìm
đến công lý, Toà án cung cấp cho xã hội phương thức hữu hiệu để xác định sự thật
và công bằng trong hành động của các chủ thể. Sự phát triển kinh tế với mục đích
làm cho xã hội trở nên phồn thịnh cũng cần có những thiết chế để giải quyết tranh
chấp giữa các chủ thể, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm minh, công bằng;
thiết chế đó không gì khác chính là Toà án. Việc quyết định cho tư pháp có quyền
phán xét các hành vi, quyết định của cơ quan công quyền là một bước tiến vượt bậc
của dân chủ và văn minh nhân loại. Không thể có dân chủ nếu hệ thống tư pháp đối
xử không công bằng và không bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển Tòa án nhân dân ở Lào và Việt
Nam qua các giai đoạn lịch sử
1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển Tòa án nhân dân Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử
Quá trình xây dựng và phát triển của hệ thống Tòa án nhân dân đã gắn liền

với quá trình hoàn thiện và củng cố bộ máy Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); gắn liền với tiến trình
cải cách nền tư pháp quốc gia, nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, luôn đề cao hoạt động bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, được coi là nhân tố tạo dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ, văn
minh. Cụ thể:
1.2.1.1. Tòa án nhân dân trong giai đoạn 1945-1958
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa đã ra đời.
Ngay từ những ngày đầu, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ
tuyệt đối của cách mạng vô sản là hủy bỏ hoàn toàn bộ máy nhà nước và nền tư
pháp cũ. Xuất phát từ nhiệm vụ chiến lược đó, ngày 13/09/1945, Chủ tịch chính phủ
lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký ban hành Sắc lệnh số 33C thiết lập
các Tòa án quân sự, đánh dấu sự ra đời của ngành Tòa án Việt Nam. Ngày
24/01/1946 ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án nhân dân và các ngạch
Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ về tổ chức giải
quyết các tranh chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở; tổ chức các Toà án và quy
định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán. Theo Sắc lệnh
này, Thẩm phán gồm có hai ngạch: Thẩm phán sơ cấp và Thẩm phán đệ nhị cấp.


18

Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà sơ cấp (Phủ, Huyện, Châu), Thẩm phán đệ nhị
cấp làm việc ở các Toà đệ nhị cấp (Tỉnh, Thành phố) và Toà thượng thẩm (Bắc,
Trung, Nam kỳ). Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan trong những ngày đầu
mới giành chính quyền, việc xây dựng hệ thống Toà án theo Sắc lệnh 13 ngày
24/01/1946 chưa thực hiện được đầy đủ ở khắp các địa phương trong toàn quốc. Do
đó, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 22-B ngày 18/12/1946 để giao quyền trợ cấp tư
pháp cho Uỷ ban hành chính ở những nơi chưa đặt được Toà án biệt lập. Theo Sắc

lệnh này, ở nơi nào chưa thiết lập được Toà án thì Uỷ ban hành chính sẽ kiêm việc
tư pháp (Uỷ ban Hành chính tỉnh có quyền hạn như Toà án đệ nhị cấp; Uỷ ban hành
chính phủ, huyện, châu có quyền hạn như Toà án sơ cấp)5.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội Khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông
qua bản Hiến pháp đầu tiên trong nền lập hiến Việt Nam. Tại Chương VI bản Hiến
pháp này quy định về “Cơ quan tư pháp”, theo đó Cơ quan tư pháp của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà gồm có: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm; các Toà án
đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Do thực dân pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần
nữa, chiến tranh nổ ra, toàn quốc kháng chiến, nên hệ thống Toà án chưa tổ chức
được theo Hiến pháp 1946.
Để đáp ứng công tác xét xử trong hoàn cảnh kháng chiến, ngày 29/12/1946
Bộ Tư pháp đã ban hành Thông lệnh số 12/NV-CT về tổ chức Tư pháp trong tình
thế đặc biệt. Bản Thông lệnh này cùng với bản Thông lệnh số 6/NV-CT ngày
28/12/1946 về tổ chức chính quyền trong thời kỳ đặc biệt là những cơ sở pháp lý để
tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án trong thời kỳ kháng chiến được linh hoạt.
1.2.1.2. Tòa án nhân dân với công cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất trong
giai đoạn 1959-1975
Năm 1958 có thể được xem là dấu mốc quan trọng của công cuộc Cải cách
tư pháp lần thứ nhất. Tại Hội nghị lần thứ 14 Khóa II (tháng 11/1958) Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã chủ trương tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền các cấp từ trung ương đến cơ
sở. Trong tình hình chung đó, bộ máy Nhà nước nói chung, TAND nói riêng được
tăng cường và cải cách thêm một bước mới. Tại kỳ họp lần thứ tám, Quốc hội khóa
I, tháng 04/1958 Quốc hội quyết định thành lập TAND tối cao và Viện công tố nhân
dân trung ương, tách hệ thống TAND và Viện công tố khỏi Bộ Tư pháp. Cũng tại
kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Chính quyền địa phương. Theo
5 Trương Hòa Bình, “Tòa án nhân dân – 70 năm vững bước dưới lá cờ vẻ vang của Đảng cộng sản Việt
Nam”, tại địa chỉ: ngày truy cập 28/7/2015.



19

luật này, đơn vị hành chính cấp khu ở đồng bằng và trung du được bãi bỏ. Do đó,
ngày 14/08/1959 chính phủ đã ra Nghị định số 300-TTg tổ chức lại các TAND phúc
thẩm, sáp nhập 6 TAND phúc thẩm thành 3 TAND phúc thẩm tại Hà Nội, Hải
Phòng và Vinh.
Ngày 31/11/1959, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp
mới của Nước Việt Nam DCCH (công bố ngày 01/01/1960). Hệ thống TAND theo
Hiến pháp năm 1959 bao gồm TAND tối cao, các TAND địa phương, các Toà án
quân sự. Trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết
định thành lập Toà án đặc biệt (Điều 97).
Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động
của TAND, ngày 14/7/1960, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá II,
kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức TAND. Điều 2 Luật tổ chức TAND năm
1960 quy định “các Toà án nhân dân gồm có: TAND tối cao, các TAND địa
phương, các Toà án quân sự” và “Các TAND địa phương gồm có: TAND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, TAND ở các
khu vực tự trị”. “Ở các khu vực tự trị, tổ chức các TAND địa phương sẽ do Hội
đồng nhân dân khu vực tự trị quy định, căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp và
những nguyên tắc tổ chức TAND trong luật này” (Điều 2). Luật Tổ chức TAND
năm 1960 không quy định cụ thể về tổ chức của các Tòa án các cấp, chỉ quy định có
tính chất nguyên tắc về chế độ bầu cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, không quy
định về tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Để kiện toàn TAND
các cấp, tăng cường tính chất nhân dân của tổ chức TAND và bảo đảm cho việc xét
xử được chính xác và đúng pháp luật, ngày 23/03/1961 Uỷ ban thường vụ Quốc hội
đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về Tổ chức của TAND tối cao và tổ chức
của các TAND địa phương.
Như vậy, giai đoạn này ở Miền Bắc, Thẩm phán Tòa án được áp dụng theo
chế độ bầu cử, vẫn còn các Tòa án trong tổ chức hành chính Khu tự trị; TAND tối
cao có Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng toàn thể Thẩm phán TAND tối cao, Tòa Hình

sự, Tòa Dân sự, Tòa quân sự, các Tòa phúc thẩm. Ở Miền Nam, dưới ách xâm lược
của Đế quốc Mỹ và chính quyền ngụy, phong trào cách mạng phát triển với sự lãnh
đạo của Đảng và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Các Tòa án cách
mạng lúc đó chủ yếu hoạt động dưới phương thức Tòa án Binh, Tòa án quân sự,
Tòa án mặt trận thực hiện xét xử, trừng trị những tên phản động, gián điệp, tay sai,
những tên ác ôn nhiều nợ máu với cách mạng và nhân dân với những phiên tòa
cũng hết sức đặc biệt.


20

1.2.1.3. Hệ thống Tòa án nhân dân thống nhất trong toàn quốc giai đoạn
1975-1992
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất nhưng chưa thống
nhất về mặt Nhà nước, ngày 15/05/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà
miền Nam Việt Nam đã ban hành sắc luật số 01/SL-76 quy định về Tổ chức TAND
và Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Tiếp đó, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng
hoà miền Nam Việt Nam đã ra quyết định số 29-QĐ-76 ngày 27/05/1976 thành lập
TAND đặc biệt để xét xử các tên tư bản mại bản phạm tội lũng đoạn, đầu cơ tích
trữ, phá rối thị trường. Sau cuộc tổng tuyển cử tháng 4 năm 1976, Việt Nam thống
nhất về mặt Nhà nước và lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong khi
chưa có Hiến pháp mới, Quốc hội quyết định Hiến pháp 1959 được áp dụng cho cả
nước và giao cho Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm hướng dẫn việc thi hành và
xây dựng pháp luật thống nhất trong cả nước. Luật Tổ chức TAND năm 1960 đã
được áp dụng trong toàn quốc, các TAND ở miền Nam được thành lập nhanh chóng
bằng một số lớn cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở về, cán bộ miền Bắc được chi
viện cùng với cán bộ địa phương đã trực tiếp chiến đấu ở miền Nam.
Hiến pháp Việt Nam năm 1980 ra đời, thay thế cho Hiến pháp Việt Nam
năm 1959. Căn cứ quy định của Hiến pháp năm 1980, về tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981

được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 03/07/1981 và được sửa
đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 22/12/1988. Theo Điều 2 của Luật
này thì “các Tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; các Tòa án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự” và Khu tự trị
giải thể, các Tòa án ở địa bàn này cũng chấm dứt hoạt động. Năm 1981 Bộ Tư pháp
được tái lập lại, Bộ trưởng Bộ Tư pháp được giao quản lý các Tòa án địa phương về
mặt tổ chức; Tòa án nhân dân tối cao lãnh đạo các Tòa án nhân dân địa phương về
nghiệp vụ, khoa học chuyên môn, việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt
động xét xử.
1.2.1.4. Sự phát triển về mặt thẩm quyền của Tòa án nhân dân sang các lĩnh
vực kinh tế, lao động, hành chính trong giai đoạn 1992-2012
Năm 1992, Hiến pháp được sửa đổi, nhằm giải quyết yêu cầu của thực tiễn,
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1993 quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân
được mở rộng. Tòa án nhân dân đảm nhiệm thêm chức năng giải quyết các tranh
chấp kinh tế của hệ thống Trọng tài kinh tế Nhà nước (các cơ quan Trọng tài Kinh


21

tế chấm dứt hoạt động vào tháng 06/1994), giải quyết các tranh chấp trong quan hệ
hành chính và lao động. Trong các Tòa án nhân dân được thành lập thêm Tòa
chuyên trách là: Tòa Kinh tế, Tòa Lao động và Tòa Hành chính… có nhiệm vụ
chuyên trách giải quyết, xét xử các tranh chấp về kinh tế, lao động và hành chính
nảy sinh trong xã hội.
Nhằm cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện bộ máy Nhà nước, và yêu cầu cụ thể đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân, đặc biệt là Văn kiện Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng và
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”… Tháng 04/2002 tại kỳ họp thứ 11,
Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, thay thế
Luật Tổ chức TAND năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm 1993 và năm 1995.
Theo Luật này, Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương
và các Toà án quân sự về mặt tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân
dân địa phương và Bộ Quốc phòng (Bộ Tư pháp quản lý Tòa án về tổ chức từ 1981
đến 2002). Đây là một bước cải cách Tư pháp quan trọng đối với hệ thống Tòa án
nhân dân.
1.2.1.5. Bước phát triển mới trong lịch sử phát triển Tòa án nhân dân với từ
năm 2013 đến nay
Kế thừa, phát triển tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW năm 2002 của Bộ
Chính trị về công tác Tư pháp, ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
số 49-NQ/TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đã nêu rõ: Tòa án là
trung tâm, xét xử là trọng tâm, tranh tụng là khâu đột phá trong công cuộc cải cách
tư pháp; Thể hiện sự quyết tâm chính trị cao của Đảng về Chiến lược cải cách tư
pháp sâu rộng, cơ bản, thường xuyên và lâu dài nền tư pháp Việt Nam. Cụ thể hóa
các Nghị quyết của Đảng, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp năm 2013
đã quy định rõ “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp” tại Điều 102.
Cùng với nguyên tắc độc lập xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội; chế độ xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo; Hiến pháp năm 2013 còn quy định cụ thể
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (khoản 5 Điều 103); Tòa án nhân
dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo về
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tháng 11/2014, để phù hợp với nội dung Hiến pháp, Quốc hội đã thông qua
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân mới. Theo đó, hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân
được tổ chức thành 4 cấp: Tòa án nhân dân tối cao; TAND cấp cao; Tòa án tỉnh,


22


thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Cùng với đó là nhiều thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, chế
độ bổ nhiệm và thi tuyển Thẩm phán cùng các quy định khác liên quan đến tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân trong giai đoạn mới.
Như vậy, trong lịch sử lập Hiến, lập nước và trong suốt lịch sử 70 năm xây
dựng và phát triển của Tòa án nhân dân, lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam đã
quy định rõ: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, thực hiện quyền lực quan trọng trong bộ
máy Nhà nước. Đây là một sự kiện quan trọng, một bước ngoặt trong lịch sử nền tư
pháp quốc gia, một bước đổi mới căn bản của hệ thống Tòa án nhân dân trong sự
nghiệp củng cố pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, sự đổi mới này là thành tựu to lớn, mang tính lịch sử của Chiến
lược cải cách tư pháp suốt mấy chục năm qua theo định hướng của Đảng – Một
chiến lược lâu dài, thường xuyên, đòi hỏi phải luôn luôn đổi mới tư duy chính trị và
xây dựng pháp luật, nâng cao trình độ nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và lý luận khoa
học pháp lý, nhằm xây dựng một nền tư pháp minh bạch, chuẩn mực, ngày càng
thực hiện có hiệu quả và tiến gần đến mục tiêu cao đẹp của chế độ là: Bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
1.2.2. Quá trình hình thành, phát triển Tòa án nhân dân ở nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào
CHDCND Lào ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội của nhân dân yêu nước các bộ tộc Lào qua nhiều thập kỷ. Chính thể
CHDCND đã được Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 02/12/1975 chính
thức lựa chọn là hình thức tổ chức Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng củng cố và hoàn thiện chế
độ dân chủ nhân dân.
Nhà nước cách mạng đầu tiên của chế độ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

được tổ chức hoạt động theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ”. Các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị gồm có: Đảng, Nhà nước,
Mặt trận, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng. Trong đó cấu trúc Nhà nước là
bộ phận lớn nhất. Cơ cấu cơ quan quyền lực Nhà nước đầu tiên của nước CHDCND
Lào đã được Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu và thông qua ngày
02/12/1975, trong đó, Tòa án nhân dân là một bộ phận trong hệ thống cơ quan tư
pháp nằm trong hệ thống bộ máy Nhà nước CHDCND Lào. Để đảm bảo cho việc


23

quản lý Nhà nước, xã hội có trật tự, kỷ cương và việc thực thi quyền làm chủ của
nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Pháp
lệnh số 53 ngày 15/10/1976 về hệ thống tổ chức hoạt động của Tòa án, Viện kiểm
sát và các quy trình, nguyên tắc thi hành án6.
Theo nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân được quy định tại Pháp lệnh
số 53 ngày 15/10/1976 của Thủ tướng Chính phủ Lào thì Tòa án nhân dân thực
hiện chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Hội đồng xét xử của tòa án cấp
huyện gồm có 3 thành viên do trưởng phòng tư pháp huyện là chủ tọa phiên tòa và
hai hội thẩm nhân dân là thành viên, khi tiến hành xét xử các thành viên của Hội
đồng xét xử cơ quyền ngang nhau. Ngoài ra, còn có thư ký phiên tòa được chỉ định
từ cán bộ của Phòng tư pháp huyện và công tố tham gia. Đối với hội đồng xét xử
cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố cũng thực hiện như Hội đồng xét
xử của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng chủ tọa phiên tòa là Phó giám đốc sở tư
pháp tỉnh đảm nhiệm. Còn đối với các thành phần của Hội đồng xét xử của Tòa
phúc thẩm cấp tỉnh, thành phố thì gồm có 5 thành viên trong đó gồm 1 thẩm phán
là chủ tọa phiên tòa và 4 Hội thẩm nhân dân là thành viên. Chủ tọa phiên tòa do
giám đốc sở tư pháp tỉnh, thành phố, giữ quyền đảm nhiệm. Đối với Tòa án đặc biệt
được thành lập để xét xử các vụ án đặc biệt là có thẩm quyền xứt xử sơ thẩm đồng
thời là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay.

Trong pháp lệnh số 53 ngày 15/10/1976 của Thủ tướng Chính phủ Lào còn
quy định vào việc xét xử của Tòa án phải công khai bởi lẽ để tạo điều kiện và cơ hội
cho nhân dân thực hiện quyền kiểm soát hoạt động của Tòa án và nhận thức được
sự công bằng trong xã hội đồng thời nhằm mục đích thuyết phục giáo dục nhân dân
một cách rộng rãi.
Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân trong những năm đầu của chế độ
CHDCND Lào gồm có: Tòa án nhân dân cấp huyện; tỉnh, thành phố (riêng tỉnh,
thành phố có 2 cấp Tòa án là Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm); và ở cấp trung ương
là tạm thời thuộc phạm vi trách nhiệm của bộ tư pháp. Đối với việc thành Tòa án
cấp trung ương phải có sự phê duyệt của Hội đồng Bộ trưởng. Tòa án trung ương có
thẩm quyền xét xử và có hiệu lực tuyệt đối đối với mọi vụ án mà Tòa án tỉnh, thành
phố xét xử từ 10 năm tù đến tử hình. Tòa án trung ương gồm có 1 Chánh án, 2 hội
thẩm nhân dân chuyên môn, 4 hội thẩm nhân dân không thường trực, thư ký phiên
tòa và một kiểm sát viên cấp cao.

6 Bunlai Anêka (2003), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân ở nước Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, tr.20


24

Giai đoạn 1983 đến 1989, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đã trực thuộc Hội đồng nhân dân tối cao theo quyết định số 01/83 ngày
11/10/1983 và quyết định số 74 ngày 30/11/1983 về quy chế tạm thời đối với Tòa
án nhân dân của Hội đồng nhân dân tối cao, còn Tòa án tỉnh, thành phố và tòa án
huyện vẫn trực thuộc Bộ tư pháp. Trong giai đoạn này Hội đồng nhân dân tối cao và
Bộ tư pháp đã rút kinh nghiệm từ công tác tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ
của cơ quan tư pháp ở trung ương cũng như ở địa phương đồng thời đã chú trọng
trong công tác xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tăng cường quản lý Nhà nước, và
quản lý xã hội, tình hình phát triển về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội ở Lào đặc biệt là

sau khi Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước Lào đã tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện và đòi hỏi phải xây dựng các văn bản pháp luật để đảm bảo cho việc
phát huy dân chủ và bình đẳng trong Nhà nước và toàn xã hội Lào.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1990, Hội đồng nhân dân tối cao đã tập
trung xây dựng nhiều văn bản pháp luật trong đó có pháp luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân và pháp luật tổ chức Tòa án nhân dân đã được hệ thống nhất thông qua tại
Kỳ họp thứ II Hội đồng nhân dân tối cao khóa II ngày 23/11/1989 và được công bố
áp dụng quyết định số 05 và 06 ngày 09/01/1990 của Chủ tịch nước CHDCND Lào.
Pháp luật tổ chức Tòa án nhân dân gồm 6 chương và 38 điều. Vị trí, vai trò của Tòa
án nhân dân đã được quy định tại Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân Lào như
sau: “Tòa án nhân dân là một hệ thống của cơ quan Nhà nước trực thuộc cơ quan
quyền lực Nhà nước có chức năng tiến hành xét xử nhằm tăng cường pháp chế và
trật tự kỷ cương xã hội, loại trừ và ngăn ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật
khác”. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được tại Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân
dân Lào như sau: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ và phát huy thành quả
cách mạng, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, cơ quan Nhà nước và các
doanh nghiệp, xử phạt và thuyết phục giáo dục người vi phạm pháp luật; nghiên
cứu và loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội; nâng cao ý thức chính trị và ý
thức pháp luật của công dân, thuyết phục giáo dục công dân có tinh thần yêu nước,
yêu chế độ dân chủ nhân dân, tôn trọng pháp luật của Nhà nước và những quy tắc
của cuộc sống xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chú trọng bảo vệ lợi ích
của Nhà nước và xã hội, tôn trọng quyền, tư do và danh dự nhân phẩm của công
dân; thúc đẩy công dân tích cực hoạt động phục vụ lợi ích công cộng và ngày càng
rộng rãi”. Trên thực tế nhiệm vụ đó gắn liền với chế độ CHDCND Lào thông qua
quá trình của cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng nhân dân cách mạng Lào đã
hoàn thiện và củng cố cho phù hợp hơn với hình thức thực tế. Còn hệ thống Tòa án
đã được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức TAND Lào thì “Tòa án nhân dân ở nước


25


CHDCND Lào gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương
(Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố, Tòa án nhân dân huyện); Tòa án dân sự”.
Do những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn khách quan, Hiến pháp đầu tiên –
một đạo luật cơ bản có tính pháp lý cao nhất của CHDCND Lào đã được công bố áp
dụng theo Quyết định số 55 ngày 15/8/1991 của Chủ tịch nước CHDCND Lào, việc
ban hành Hiến pháp thể hiện sự đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay, trên cơ sở của Hiến pháp mà ban hành các đạo luật khác nhằm bảo
vệ thành quản cách mạng cũng như đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công dân
Lào dưới chế độ xã hội mới.
Từ đây, tổ chức, hoạt động của Nhà nước CHDCND Lào chủ yếu dựa vào
Hiến pháp. Việc củng cố kiện toàn bộ máy quyền lực Nhà nước, việc xây dựng tổ
chức, hoạt động của Nhà nước được tiến hành mang tính chất pháp lý hơn so với
giai đoạn trước. Cụ thể là thể hiện việc xây dựng, củng cố 3 cơ quan quyền lực Nhà
nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, hệ thống có quan tư pháp của
CHDCND Lào gồm có 2 cơ quan là: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước gồm có: Tòa án nhân dân
tối cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành; Tòa án nhân dân huyện và Tòa án quân sự
(Điều 65 Hiến pháp Lào).
Điều 66 của Hiến pháp Lào quy định: “Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan
xét xử cao nhất của Nhà nước. Tòa án nhân dân tối cao kiểm tra, quyết án của Tòa
án nhân dân địa phương và Tòa án dân sự”. Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
và Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm
và miễn nhiệm (Điều 67 Hiến pháp Lào). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do
Quốc hội bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội
(Điều 40 Hiến pháp Lào). Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Trong khi xét xử, thẩm phán phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 68 Hiến
pháp Lào).
Việc xét xử vụ án tại phiên tòa phải thực hiện một cách công khai, trừ trường
hợp mà pháp luật đã quy định. Bị cáo có quyền kháng án, luật sư có giúp đỡ, bảo

chữa về mặt pháp lý đối với vị cáo (Điều 69 Hiến pháp Lào). Người đại diện các cơ
quan, tổ chức xã hội có quyền tham dự khi vụ án được tiến hành tại phiên tòa theo
quy định (Điều 70 Hiến pháp Lào).
Trong giai đoạn mới từ đầu những năm 2000, đời sống xã hội Lào đòi hỏi
Nhà nước phải có một hiến pháp mới. Mà như Lời nói đầu Hiến pháp năm 2003 đã
nói “Hiến pháp này là hiến pháp của chế độ dân chủ nhân dân ở Lào. Nó là kết quả
của những thành tựu to lớn của nhân dân các bộ tộc Lào trong quá trình đấu tranh


×