Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Một số vấn đề về quyên nhân thân liên quan đến nhóm LGBT trong pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI THỊ HẰNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN NHÂN THÂN LIÊN QUAN ĐẾN
NHÓM LGBT TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI THỊ HẰNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN NHÂN THÂN LIÊN QUAN ĐẾN
NHÓM LGBT TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành
Mã số


: Luật dân sự và tố tụng dân sự
: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cường

HÀ NỘI – NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ trong
luận văn là trung thực. Những kết luận trong luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Người hướng dẫn

Tác giả luận văn

TS. Nguyễn Văn Cường

Bùi Thị Hằng


BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 1995

: Bộ luật dân sự năm 1995

BLDS 2005

: Bộ luật dân sự năm 2005


BLDS 2015

: Bộ luật dân sự năm 2015

Luật HN&GĐ 2014 : Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Nghị định số

: Nghị định số 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính áp

88/2008/NĐ-CP

dụng đối với các tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức,
cá nhân nước ngoài tại Việt Nam

iSEE

: Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường

ICS

: Tổ chức bảo vệ và thúc đẩy quyền của người LGBT tại
Việt Nam


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

2

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM LGBT


6

1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân
1.1.2. Khái niệm nhóm LGBT
1.2. Đặc điểm của nhóm LGBT và quyền nhân thân của nhóm LGBT

6
6
10
15

1.2.1. Đặc điểm của nhóm LGBT

15

1.2.2. Đặc điểm quyền nhân thân của nhóm LGBT

18

1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân của nhóm LGBT

21

1.4. Quyền nhân thân của nhóm LGBT theo pháp luật một số nước trên thế giới

23

1.4.1. Pháp luật về quyền nhân thân của người đồng tính, song tính trên thế giới


23

1.4.2. Pháp luật về quyền nhân thân của người chuyển giới trên thế giới

29

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM LGBT TRONG PHÁP LUẬT
33
DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ NHỮNG BẤT CẬP
2.1. Nhóm các quyền liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân

33

2.2. Nhóm các quyền liên quan đến giá trị của con người trong xã hội

38

2.3. Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của con người.

45

2. 4. Nhóm các quyền liên quan tới hoạt động lao động sáng tạo của cá nhân.

52

2.5. Nhóm các quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình

56


CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM
67
LGBT
3.1. Nhóm kiến nghị về xây dựng pháp luật

67

3.1.1. Thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính trên giấy tờ.

67

3.1.2. Thừa nhận hình thức “kết hợp dân sự” của các cặp đôi đồng tính

72

3.2. Nhóm kiến nghị về thực thi pháp luật

76


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của pháp luật dân sự cho thấy trong thời gian qua, quyền
nhân thân của cá nhân chiếm một vị trí không đáng kể trong sự điều chỉnh của
pháp luật dân sự, hầu như bị các vấn đề về tài sản làm lu mờ, lấn át. Điều này phụ
thuộc vào vị trí của con người, sự quan tâm của xã hội đối với con người trong
từng chế độ xã hội nhất định. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, khi mà những lợi
ích vật chất đã phần nào được thỏa mãn, người ta trở nên quan tâm nhiều hơn đến
những giá trị tinh thần, coi đó là bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống con
người và đòi hỏi những giá trị đó ngày càng được mở rộng và tôn trọng hơn. Ở

nước ta hiện nay, tình trạng quyền nhân thân bị xâm phạm và không được bảo vệ
thỏa đáng là khá phổ biến và đang trong tình trạng ngày càng gia tăng. Việc làm
cho mỗi cá nhân nhận biết được những giá trị nhân thân của mình và tôn trọng giá
trị nhân thân của người khác là một việc làm không hề đơn giản, đặc biệt đối với
các đối tượng thuộc nhóm LGBT.
Vấn đề quyền nhân thân của nhóm LGBT là một vấn đề mới trong lịch sử
pháp lý Việt Nam và thời gian gần đây đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Tuy
nhiên, sự phát triển đó mới chỉ dừng lại ở mức độ phong trào đấu tranh đòi quyền
lợi cho nhóm LGBT mà chưa có những kết quả pháp lý cụ thể. Cho đến hiện nay,
hôn nhân đồng tính hay chung sống giữa những người đồng tình vẫn chưa được
thừa nhận và quyền chuyển đổi giới tính mới chỉ được ghi nhận với vẻn vẹn một
quy định của Điều 37 BLDS 2015 chưa có hiệu lực thi hành cũng như chưa có văn
bản hướng dẫn thi hành. Nhóm LGBT gần như vẫn đứng ngoài sự điều chỉnh của
pháp luật, có chăng cũng chỉ là những quy định ngăn chặn quyền nhân thân của họ.
Trong khi đó, thực tế cho thấy ở Việt Nam, có không ít các cặp đôi đồng tính
chung sống với nhau như vợ chồng, cũng như có khá nhiều người đã thực hiện
phẫu thuật chuyển giới, kéo theo rất nhiều hệ quả pháp lý phát sinh. Không chỉ
vậy, chịu ảnh hưởng của quan niệm Á Đông truyền thống, xã hội Việt Nam vẫn


giữ thái độ kỳ thị, phân biệt đối với các cá nhân nhóm LGBT khiến họ với số
lượng ít ỏi, không có tiếng nói trong xã hội càng trở nên dễ bị tổn thương hơn bao
giờ hết. Đã đến lúc pháp luật và xã hội của chúng ta phải đối diện trực tiếp với
nhóm LGBT và các vấn đề của nhóm LGBT để có những giải pháp thích đáng đảm
bảo quyền lợi chính đáng của họ.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Một số vấn đề về
quyền nhân thân liên quan đến nhóm LGBT theo pháp luật dân sự Việt Nam”,
với mong muốn có thể đưa ra góc nhìn cụ thể về nhóm LGBT cũng như một số vấn
đề pháp lý liên quan đến quyền nhân thân của nhóm này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề về quyền của nhóm LGBT ở Việt Nam hiện nay đang là tâm điểm
chú ý trên nhiều diễn đàn, các trang thông tin điện tử, các mặt báo… Trong đó, có
rất nhiều ý kiến trái chiều xung quanh quyền kết hôn đồng tính hay vấn đề có hay
không cho phép chuyển đổi giới tính.
Ở góc độ nghiên cứu khoa học, có khá nhiều các công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Quyền của nhóm LGBT – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trường Đại học luật Hà Nội, Chủ nhiệm đề tài:
Nguyễn Thị Lan, Hà Nội, 2015: Đề tài này là tổng hợp các bài viết khá toàn diện về
các vấn đề của nhóm LGBT như: pháp luật về nhóm LGBT trên thế giới, thực
trạng LGBT trên thế giới và Việt Nam, quyền của nhóm LGBT trong quan hệ pháp
luật dân sự, quyền kết hôn, chung sống với nhau như vợ chồng của những người
thuộc nhóm LGBT…
- Kỷ yếu tọa đàm khoa học về chế định quyền nhân thân trong dự thảo BLDS
sửa đổi của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, với sự hỗ trợ của iSEE, Hà Nội,
ngày 17/3/2015: Công trình này là sự kết hợp giữa các chuyên gia và tổ chức xã
hội, bao gồm bốn tham luận chính về quyền nhân thân, trong đó có đề tham luận về
vấn đề nhân thân trong bộ luật dân sự liên quan đến người chuyển giới của tác giả
Lương Thế Huy (Viện iSEE), trình bày hai vấn đề còn tồn tại bất cập của pháp luật


hiện hành liên quan tới người chuyển giới là quyền thay đổi họ tên và quyền xác
định lại giới tính, chuyển đổi giới tính. Qua đó, tác giả Lương Thế Huy cũng đã
nêu các đề xuất sửa đổi các điều luật liên quan của BLDS để đảm giải quyết các
bất cập phát sinh đó.
- Luận văn thạc sỹ Quyền con người của người đồng tính, song tính và
chuyển giới – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Đặng Hoàng Hiếu
(2015): nghiên cứu các vấn đề về quyền con người nói chung của nhóm LGBT.
Ngoài ra còn có loạt bài viết của tác giả Trương Hồng Quang (Nghiên cứu
viên


Viện

Khoa

học

pháp

lý,

Bộ



pháp)

trên

blog

của

anh

( có nội dung nghiên cứu khá sâu về quyền của
người đồng tính và người chuyển giới.
Nhìn chung, các tác phẩm trên đều tiếp cận theo các hướng hoặc tổng hợp
quyền nói chung của nhóm LGBT hay một loại trong nhóm LGBT, hoặc đi sâu vào
vấn đề pháp luật quốc tế, hoặc đề cập đến một vấn đề nhỏ lẻ mang tính thời sự nhất

trong số các quyền của nhóm LGBT, và chưa có tác phẩm nào đề cập một cách tập
trung nhất đến các vấn đề về quyền nhân thân của nhóm này.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quyền nhân thân của nhóm LGBT.
Quyền nhân thân là một vấn đề rất rộng lớn. Không chỉ đối với nhóm LGBT,
quyền nhân thân nói chung đã tồn tại rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Với đề tài
này, tác giả sẽ chỉ tập trung nghiên cứu quyền nhân thân trong phạm vi các vấn đề
phát sinh liên quan đến nhóm LGBT, gắn liền với những đặc tính đặc thù của
nhóm LGBT mà không đề cập, phân tích sâu vào các vấn đề chung của quyền nhân
thân đối với cá nhân.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở các đặc điểm của nhóm LGBT,
đi vào phân tích quy định của pháp luật dân sự về quyền nhân thân khi được áp
dụng đối với nhóm đối tượng này, tìm ra vấn đề còn tồn tại, từ đó có giải pháp giải


quyết các vấn đề pháp lý còn tồn tại một cách phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
của Việt Nam.
5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước và
pháp luật. Tác giả sử dụng các phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích…
để đánh giá một cách khách quan, toàn diện nhất các vấn đề liên quan. Ngoài ra,
trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng tham khảo ý kiến chuyên gia liên quan đến
đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp một
cách có hệ thống mang tính lý luận về nhóm LGBT và quyền nhân thân của nhóm
LGBT.
Về mặt thực tiễn: Luận văn cũng nêu lên những thực trạng, tồn tại và thách

thức trong việc thực hiện và bảo đảm quyền nhân thân của nhóm LGBT ở Việt
Nam; từ đó nêu ra một số kiến nghị giải pháp cơ bản về thực hiện quyền nhân thân
của các cá nhân thuộc nhóm LGBT.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn này có kết cấu gồm phần mở đầu, ba chương và kết luận.
- Chương 1: Lý luận chung về quyền nhân thân của nhóm LGBT
- Chương 2: Quy định về quyền nhân thân của nhóm LGBT trong pháp luật
dân sự Việt Nam và những bất cập
- Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của nhóm
LGBT.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM
LGBT
1.1. Các khái niệm


1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Trong quan hệ dân sự, bên cạnh các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân là
một trong hai đối tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật dân sự và là một loại
quan hệ mang tính xã hội sâu sắc, rộng lớn, phản ánh sự phát triển và tiến bộ của
xã hội. Một quan hệ pháp luật dân sự nói chung được cấu thành bởi ba yếu tố: chủ
thể, khách thể và nội dung. Trong đó, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự chính
là yếu tố cơ bản nhất để phân loại quan hệ đó là quan hệ tài sản hay quan hệ nhân
thân. Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia quan hệ đó, chính những yếu tố này đã gắn kết quyền lợi, hành vi
của các chủ thể, thúc đẩy họ tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể.
“Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của
cá nhân hay tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền nhân thân phải
đuợc pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của cá nhân, tổ chức”1. Như
vậy, quyền nhân thân chính là một nội dung của quan hệ pháp luật dân sự về nhân
thân. Nó là những quy định của pháp luật cho phép chủ thể được hưởng, được làm,

được đòi hỏi liên quan đến các giá trị nhân thân của mình khi tham gia vào quan hệ
pháp luật dân sự.
Trong Bộ luật dân sự cũng như trong khoa học pháp lý chưa có khái niệm
chính thức về quyền nhân thân. Có thể kể đến một số khái niệm được đưa ra như:
- Quan điểm của Trường Đại học Luật Hà Nội:
“Quyền nhân thân như là một bộ phận cấu thành của quyền con người: như
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tên gọi, quốc tịch, hình ảnh, bí mật đời tư… (từ Điều
24 đến Điều 51 BLDS năm 2005). Về nguyên tắc chung, các quyền nhân thân luôn
gắn với chủ thể và không thể dịch chuyển được trừ trường hợp pháp luật có qui
định khác”2. Quan niệm này coi quyền nhân thân có bản chất là quyền con người.
Và quyền nhân thân có các đặc điểm là luôn gắn với chủ thể và không thể chuyển
giao.
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam- Tập 1, Nxb.CAND, Hà Nội, 2009, tr.12
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb.CAND, Hà Nội, 2009, tr. 69


- Quan điểm của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội:
Không khẳng định bản chất của quyền nhân thân, nhưng đồng quan điểm với
Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội lý giải: “Quan
hệ nhân thân là những quan hệ xã hội phát sinh từ một giá trị tinh thần như danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân v.v… Vì vậy, nó không mang tính giá trị, không
tính được thành tiền và do đó, nó không là đối tượng để trao đổi, chuyển dịch từ
chủ thể của các giá trị đó sang các chủ thể khác. Vì vậy, trong Luật Dân sự, quan
hệ nhân thân được xem là một loại quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối”3. Tuy
nhiên, quan điểm này còn có điểm chưa hợp lý. Cần phải hiểu giá trị tinh thần như
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân v.v… không phải là căn cứ hay nguồn gốc
phát sinh ra quan hệ nhân thân hay quyền nhân thân bởi căn cứ hay nguồn gốc phát
sinh ra quyền lợi hay quan hệ pháp luật, suy đến cùng, chỉ có ba loại là hành vi
pháp lý, sự kiện pháp lý và hiệu lực của luật.
Hai quan điểm nêu trên chủ yếu nói tới các đặc tính của quyền nhân thân hay

quan hệ nhân thân, nhưng không đưa ra định nghĩa về quyền nhân thân.
- Quan điểm của Học việc Tư pháp:
Giáo trình Luật dân sự của Học viện này định nghĩa: “Quan hệ nhân thân là
quan hệ giữa các chủ thể pháp luật dân sự về quyền nhân thân”4. Chưa bàn tới
pháp nhân (một chủ thể của luật dân sự) có hay không sự hưởng quyền nhân thân,
có thể thấy định nghĩa này đã xem quyền nhân thân không phải là một quan hệ, và
xem quyền nhân thân là khách thể của quan hệ nhân thân. Tuy nhiên, cũng giáo
trình này sau đó lại xác định khách thể của quan hệ pháp luật bao gồm “Các giá trị
nhân thân phi tài sản”, thể hiện sự không thống nhất trong quan điểm về quyền
nhân thân.
- Quan điểm của PGS.TS Bùi Đăng Hiếu trong một bài viết trên Tạp chí luật
học:
3 Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2002, tr. 15.
4 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb. Công an Nhân dân, 2007, tr. 20.


“Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ
thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”5.
- Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của trường Đại học luật Hà Nội có
ghi:
“Quyền nhân thân là các giá trị nhân thân của cá nhân và tổ chức được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ. Chỉ những giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận mới
được coi là quyền nhân thân. Quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể
chuyển giao cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định”.
- Điều 26 BLDS 1995 và Điều 24 BLDS 2005 quy định:
“Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là quyền dân sự gắn liền
với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác”.

Có thể thấy, hầu hết các quan điểm trong giáo trình của các cơ sở đào tạo
luật đề nhận định quyền nhân thân ở hai khía cạnh: quyền nhân thân là một loại
quyền dân sự và một đặc điểm của quyền nhân thân là gắn với cá nhân và không
thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy
nhiên, các nhận định này vẫn không thể hoàn toàn tách biệt được quyền nhân thân
và quyền tài sản. Trong thực tế có những loại quyền là quyền dân sự, là quyền gắn
liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác nhưng lại không
phải là quyền nhân thân mà là một loại quyền tài sản, ví dụ: quyền được cấp
dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, thân
thể, quyền thừa kế tài sản... Bên cạnh đó, khẳng định quyền nhân thân là quyền dân
sự gắn liền với mỗi cá nhân có nghĩa là ngoài cá nhân, các chủ thể khác như tổ
chức sẽ không thể có quyền nhân thân.
Như vậy, nếu xem xét khái niệm quyền nhân thân ở phương diện lí luận cần
phải khẳng định trước hết quyền nhân thân là một loại quyền dân sự. Nếu quyền tài
5 Bùi Đăng Hiếu, Khái niệm và phân loại quyền nhân thân, Tạp chí luật học số tháng 7/2009.


sản có đối tượng là tài sản thì đối tượng của quyền nhân thân chính là các giá trị
nhân thân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Hiện nay pháp luật chưa có một khái
niệm chính thức về “nhân thân”. Có thể hiểu nhân thân là yếu tố gắn liền với mỗi
chủ thể, liên quan trực tiếp đến chủ thể đó như tên gọi, hình dáng, sức khoẻ, tính
mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, hình ảnh... Xác định đối tượng của quyền chính
là dấu hiệu cơ bản để nhận biết đó là quyền nhân thân mà không phải là quyền
khác.
Tác giả cho rằng cách hiểu về quyền nhân thân trong khái niệm của PGS.TS
Bùi Đăng Hiếu và trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật của trường Đại học Luật
Hà Nội là cách hiểu mang tính khái quát và hợp lý hơn cả. Các cách hiểu này nói
lên được hai vấn đề bản chất nhất của quyền nhân thân: một là đối tượng quyền là
các giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận và hai là tính gắn liền với chủ thể và
không thể chuyển giao cho người khác của quyền nhân thân. Đồng thời, theo cách

hiểu này thì quyền nhân thân không chỉ là quyền của riêng chủ thể là cá nhân mà
cả tổ chức cũng có thể có quyền này. Bản thân các tổ chức cũng có những lợi ích
phi tài sản cần được bảo vệ như danh dự, uy tín, tên gọi... Đó là các quyền của tổ
chức và đó chính là các quyền nhân thân. Vì vậy cần phải phân biệt hai khái niệm
“quyền nhân thân” và “quyền nhân thân của cá nhân”. Trong Bộ luật dân sự phần
quy định về quyền nhân thân nằm trong chương “Cá nhân” và vì vậy khái niệm
quyền nhân thân quy định trong Bộ luật dân sự thực chất là quyền nhân thân của cá
nhân. Và phạm vi nghiên cứu của luận văn cũng là các quyền nhân thân của cá
nhân nói chung và quyền nhân thân của các cá nhân thuộc nhóm LGBT nói riêng.
Theo quan điểm của tác giả, khái niệm quyền nhân thân có thể được xây
dựng như sau:
“Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự ghi nhận và bảo vệ các
quyền của cá nhân đối với các giá trị nhân thân của mình trong quan hệ dân sự; gắn
liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”.


1.1.2. Khái niệm nhóm LGBT
Nhóm LGBT là tên viết tắt tiếng Anh của cụm từ L - Lesbian (đồng tính nữ),
G - Gay (đồng tính nam), B - Bisexual (song tính) và T - Transgender (chuyển
giới). Theo đó:
- Đồng tính (Bao gồm đồng tính nam - Gay và đồng tính nữ - Lesbian): là từ
viết tắt của cụm từ đồng tính luyến ái (homosexuality) là thuật ngữ chỉ việc bị hấp
dẫn trên phương diện tình yêu, tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục
giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách
lâu dài. Cụm từ này xuất hiện lần đầu trong một tiểu thuyết của nhà văn Đức Karl
Maria Kertbenty xuất bản năm 1869 nhằm phản đối việc nước Phổ ban hành luật
chống lại các quan hệ tình dục trái tự nhiên (sodomy law), sau đó lần lượt được sử
dụng lại trong các tác phẩm Discovery of the Soul (1880) của Gustav Jager,
Psychopathia Sexualis (1886) của Richard von Krafft- Ebing. Từ đó thuật ngữ trên

được dùng rộng rãi để phân biệt giữa người có khuynh hướng tình dục đồng tính
với người dị tính và người lưỡng tính.6
Với vai trò là một thiên hướng tình dục, đồng tính luyến ái là một mô hình
bền vững của sự hấp dẫn tình cảm, tình yêu, và/hoặc hấp dẫn tình dục một cách
chủ yếu hoặc duy nhất đối với người cùng giới tính. Đồng tính luyến ái cũng chỉ
nhận thức của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đó và sự tham gia vào một cộng
đồng có chung điều này. Đồng tính luyến ái bản chất là một biến thể bình thường
và tích cực của tính dục con người, không phải là một "bệnh" hay sự lệch lạc tâm
lý, và không phải là nguyên nhân gây ra các hiệu ứng tâm lý tiêu cực. Những
người đồng tính có cấu tạo sinh học của bộ phận sinh dục hoàn toàn bình thường
và bản dạng giới của họ phù hợp với cấu tạo đó. Tuy nhiên, điều khiến họ khác với
những người dị tính đó là xu hướng tính dục, và người đồng tính là người có cảm
giác hấp dẫn về tình cảm, thể chất đối với người cùng giới.

6 Theo Nguyễn Hồng Quang, Cơ sở lý luận về quyền của người đồng tính, HongTQuang’s blog.


- Người song tính (Tiếng anh là “bisexual”, trước đây còn gọi là người
lưỡng tính): là người có khả năng cảm thấy hấp dẫn về tình cảm, thể chất với cả
người cùng giới và người khác giới hoặc không phân biệt giới của họ. Chúng ta
cần phân biệt người song tính luyến ái với người lưỡng tính. Người lưỡng tính
(intersexual) là một hiện tượng về giới tính, thường trong cơ thể có cả buồng trứng
và tinh hoàn. Đây thường là những trường hợp rất hiếm trong cuộc sống. Một điều
cần lưu ý nữa, “song tính” là một khái niệm chung, bởi vì giữa từng người song
tính khác nhau sẽ rất khác nhau. Ví dụ, những người cảm thấy hấp dẫn bởi cả nam
và nữ có thể không nhất thiết phải nhận dạng mình là song tính – họ có thể xem
mình chủ yếu là đồng tính hoặc dị tính, hoặc họ có thể chựa lọn không gắn bất cứ
cái “nhãn” nào cả. Nhiều trường hợp, một người có thể có cảm xúc hấp dẫn với cả
nam và nữ, nhưng chỉ quan hệ tình dục với một giới, hoặc không hề có quan hệ
tình dục. Sự hấp dẫn không nhất thiết phải được cân đo, cảm xúc với hai giới tính

không nhất thiết ngang nhau hoặc tồn tại trong cùng một thời điểm. Điều này phụ
thuộc vào những người mà họ tiếp xúc, bởi cảm xúc luôn là điều phức tạp và
không đoán trước được.
Một vài nghiên cứu cho thấy người song tính chiếm tới gần 50% trong tổng
số cộng đồng LGBT (đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới).
Trong quá khứ, tâm lý học đã bỏ qua song tính vì cho rằng song tính không tồn tại.
Có hẳn một thuật ngữ để chỉ về hiện tượng phủ nhận sự tồn tại của song tính:
bisexual erasure. Các hiểu lầm này xoay quanh việc giảm tối đa khả năng một
người có thể là người song tính, mà luôn muốn quy về thành đồng tính hoặc dị
tính. Một số khác cho rằng đó là một dạng hành vi lệch chuẩn hoặc một giai đoạn
nhất thời, lưỡng lự, không dứt khoát, băn khoăn, lăng nhăng, tò mò, muốn gây chú
ý...7
- Người chuyển giới (Transgender): là người có giới tính sinh học không
trùng với bản dạng giới của họ, họ đã nhờ sự can thiệp của y học để chuyển giới
tính hoặc “tìm lại giới tính thật” của mình.
7 />

Sự khác biệt giữa người chuyển giới và người đồng tính thể hiện ở chỗ:
người chuyển giới liên quan đến việc người đó nhận dạng hoặc thể hiện bản thân là
nam hay nữ, trong khi người đồng tính lại liên quan đến việc người đó yêu người
cùng giới hay khác giới. Ở Việt Nam, khái niệm chuyển giới chỉ mới biết đến trong
thời gian gần đây. Trước kia, người chuyển giới được gộp chung vào nhóm đồng
tính hay thế giới thứ ba. Tuy nhiên, cùng với sự bùng nổ của internet và các diễn
đàn mạng (đặc biệt như LesKing.com.vn; Thegioithu3.vn…), những người sống
giữa hai giới không hoàn toàn hài lòng khi bị xem là người đồng tính. Thực tế,
người chuyển giới thường trải qua quá trình bối rối trong việc nhận diện giới của
chính mình cũng như đối mặt với những quyết định chuyển đổi, khó khăn liên
quan đến sử dụng hoocmon phẫu thuật và công khai thể hiện giới.
Đối với người chuyển giới, trong xã hội không phải ai cũng có nhận thức
đúng đắn và đầy đủ về bản chất của người chuyển giới. Dưới đây xin tóm tắt một

số nhận thức sai lầm về người chuyển giới đang tồn tại trong xã hội hiện nay:
+ Người chuyển giới là những người có giới tính sinh học khác biệt so với
những người dị tính bình thường khác: Đây hoàn toàn là quan điểm sai lầm. Thực
chất người chuyển giới được sinh ra với một giới tính sinh học bình thường, hoàn
chỉnh (phân biệt rõ là nam hay nữ) nhưng lại có cảm nhận và mong muốn giới tính
của mình không trùng với giới tính sinh học đang có. Bên cạnh đó, người chuyển
giới cũng cần được phân biệt với các trường hợp cần được phẫu thuật xác định giới
tính. Những người cần phẫu thuật xác định giới tính thường được gọi là người liên
giới tính (intersex: ví dụ vừa có dấu hiệu cơ quan sinh dục của nam nhưng cũng có
dấu hiệu của nữ giới như có buồng trứng, dạ con hay có ngực giống như nữ giới/cơ
quan sinh dục không rõ là nam hay nữ…). Như vậy, về bản chất, giới tính của
những đối tượng này chưa rõ ràng, cần được phẫu thuật để xác định. Việc xác định
loại này phải thông qua việc xét nghiệm nhiễm sắc thể giới tính tại các cơ quan y tế
để xác định rõ giới tính. Điều này hoàn toàn khác so với người chuyển giới.
+ Phải phẫu thuật chuyển giới thì mới được xem là người chuyển giới. Quan
điểm này không hoàn toàn đúng. Thực ra, chỉ cần một người mong muốn, ý thức


mình phải mang giới tính ngược lại so với giới tính sinh học của họ thì đã được
xem là người chuyển giới. Tuy nhiên, nếu như pháp luật cho phép phẫu thuật
chuyển đổi giới tính (đúng với mong muốn) thì họ phải thực hiện việc phẫu thuật
mới được làm lại giấy tờ tùy thân, ví dụ như chứng minh nhân dân, đăng ký lại hộ
tịch… Lúc này, họ được gọi với một khái niệm đầy đủ hơn là “người chuyển đổi
giới tính” (transsexual). Có thể nhận thấy mặc dù người chuyển giới và chuyển đổi
giới tính tồn tại ở mọi xã hội, mọi nơi trên thế giới nhưng những khái niệm này vẫn
được hiểu một cách khá nhầm lẫn và gây lúng túng ngay cả với những người trong
cuộc khi không thể xác định bản dạng giới của mình. Nhìn chung, “transgender” là
một thuật ngữ có nội hàm rất rộng.
+ Những trường hợp như nam giới thường hay giả trang làm nữ giới hoặc
ngược lại là người đồng tính. Quan điểm này cũng chưa chính xác. Trừ một số

người cải trang thành người giới tính khác để thực hiện nhu cầu nghề nghiệp, giải
trí thì đa số những người này đều là người chuyển giới. Như đã nêu ở trên, vì họ
mong muốn thành người có giới tính ngược lại nên họ đã cải trang như vậy (họ
không phẫu thuật chuyển giới vì pháp luật chưa cho phép/không có điều kiện kinh
tế).8
Nói tóm lại, xu hướng tính dục của con người được chia thành 3 loại chủ
yếu: dị tính luyến ái, đồng tính luyến ái và song tính luyến ái, còn theo bản dạng
giới thì phân thành: người chuyển giới và người không chuyển giới. LGBT là một
tổ hợp từ chỉ một nhóm người có xu hướng tính dục và bản dạng giới khác biệt với
số đông, chiếm thiểu số trong xã hội. Sự khác biệt và tỉ lệ thiểu số không thể hiện
đây là một nhóm bệnh tâm lý hay là một nhóm tệ nạn xã hội có thể lây lan mà thể
hiện sự đa dạng của các nền văn hoá nhân loại dựa trên thiên hướng tình dục và
bản dạng giới.
1.2. Đặc điểm của nhóm LGBT và quyền nhân thân của nhóm LGBT
1.2.1. Đặc điểm của nhóm LGBT
8 />

- Hành vi bên ngoài: Nhóm người nhóm LGBT có những nhu cầu cơ bản
giống với tất cả mọi người trong xã hội như nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, làm
việc… Những người đồng tính và song tính có biểu hiện không khác biệt gì so với
người dị tính. Riêng đối với người chuyển giới, chúng ta có thể dễ nhận biết hơn
thông qua sự thể hiện giới ra ngoài của họ.
- Hành vi bên trong:
Về mặt nhận thức: Nhóm LGBT có nhận thức về bản dạng giới và xu hướng
tính dục khác biệt. Bản dạng giới là giới tính một cá nhân cảm nhận về bản thân,
vốn ăn sâu trong nhận thức mỗi người, là thứ chỉ ra cho họ thấy rằng họ là nam hay
nữ, hoặc một giới khác và đây là khái niệm tách biệt với giới tính sinh học. Xu
hướng tính dục là khái niệm chỉ sự bị hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc về mặt tình
dục bởi người khác giới tính hoặc người cùng giới tính với mình hoặc cả hai một
cách lâu dài. Theo đó, người đồng tính nhận thức được bản dạng giới của mình

trùng với giới tính sinh học nhưng họ cảm thấy hấp dẫn, cuốn hút bởi người cùng
giới. Người song tính có nhận thức rằng mình bị cuốn hút và hấp dẫn bởi cả nam
và nữ. Trong khi đó, người chuyển giới lại không hài lòng với cơ thể mình đang có
và thường có hành vi biến đổi cơ thể sao cho giống với giới tính mà mình mong
muốn.
Về mặt tâm lý cảm xúc: Những người thuộc nhóm LGBT thường sống khép
kín, chủ yếu là che giấu bản thân, che giấu xu hướng tính dục của mình, luôn có
tâm lý lo sợ bị người khác phát hiện. Đặc điểm tâm lý đặc thù là họ cảm thấy bị tổn
thương, tủi thân, đau khổ khi bị xã hội và người xung quanh kì thị hay không có
thiện cảm với mình. Cảm thấy bị bất công, bị đối xử không công bằng trong xã hội
và cảm thấy mình thật cô đơn và thiệt thòi khi thuộc vào thiểu số. Một bộ phận
người đồng tính thậm chí có cảm giác căm ghét bản thân khi nhận ra xu hướng tính
dục của bản thân. Tuy nhiên, nếu nhận được sự đồng cảm, quan tâm từ phía gia
đình thì nhóm người LGBT sẽ dũng cảm sống với đúng con người và giới tính thật
của mình. Hầu như tất cả những người thuộc nhóm LGBT đều có chung một niềm
tin, một ước mơ là được sống là chính mình và được xã hội công nhận.


- Nhóm LGBT không phải là bệnh: Hiện nay, khi chưa có một kết luận khoa
học nào kết luận nguyên nhân hình thành một xu hướng tính dục, có rất nhiều ý
kiến cho rằng xu hướng tính dục đồng giới là phi tự nhiên hoặc rối loạn. Trong một
thời gian dài, người ta đã tranh luận gay gắt với nhau về vấn đề liệu quan hệ tình
dục đồng tính có nên được coi là lệch lạc, mang tính chất bệnh lý trong quá trình
phát triển tính dục bình thường hay là một phái sinh bình thường của tiềm năng
đáp ứng tình dục của con người. Tuy nhiên, nếu xem tiêu chí cơ bản của một tình
trạng bệnh lý tinh thần là thường xuyên gây ra cảm giác bức bối hoặc thường
xuyên gắn liền với mất mát về hiệu quả hoặc chức năng tương tác xã hội thì quan
hệ tình dục đồng giới không thể xem như là một loại rối loạn tâm lý bởi những
người đồng tính khá thỏa mãn với xu hướng tính dục của họ và không bị ảnh
hưởng về hiệu quả hay hoạt động xã hội. Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (American

Psychological Association, APA) nêu các dẫn chứng, nghiên cứu để đưa đến kết
luận có tính chất hiển nhiên về sự tồn tại của khuynh hướng tình dục đó nhằm loại
bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi các bệnh về rối loạn tâm thần và hướng dẫn xã hội
giúp đỡ những người đồng tính luyến ái hòa nhập cộng đồng để có cách nhìn cảm
thông hơn với những người này. APA đã loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách
các triệu chứng và bệnh rối loạn tâm thần vào năm 1973. Tương tự đối với người
chuyển giới, APA cũng chỉ ra, một tình trạng tâm lý chỉ bị coi là rối loạn tâm lý
khi nó gây ra những sự đau khổ, bất lực rõ rệt. Nhiều người chuyển giới không trải
qua những trải nghiệm đau khổ hay bất lực này, vì vậy bản thân tình trạng nhận
mình là một người chuyển giới không phải là rối loạn tâm thần.9
- Nhóm LGBT chiếm tỷ lệ nhỏ trong xã hội và là nhóm dễ bị tổn thương:
Theo báo cáo từ tổ chức WHO của Liên hợp quốc thì khoảng 3% dân số có thiên
hướng tình dục đồng tính10. Với tỷ lệ này và sự khác biệt theo chiều hướng trái
ngược trong nhận thức về bản dạng giới và xu hướng tính dục, nhóm LGBT có thể
xem như là nhóm yếu thế trong xã hội. Họ bị coi như là những thành phần “đi
9 Tham khảo tại www.apa.org
10 />

ngược lại tự nhiên” và thường rơi vào tình trạng bị bạo hành, phân biệt đối xử, kỳ
thị từ phần đông còn lại của xã hội. Do đó, họ có xu hướng tham gia vào các nhóm
đồng đẳng tìm sự cảm thông thấu hiểu, ở đây họ có thể thể hiện con người thật của
mình và cùng nhau lên tiếng bảo vệ, đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho bản thân họ.
- Nhóm LGBT chịu ảnh hưởng bởi quy định của pháp luật: Tùy vào quan
điểm pháp luật của từng nước mà sự ảnh hưởng này là tích cực hay tiêu cực. Đối
với các quốc gia thừa nhận và bảo hộ quyền nhân thân của nhóm LGBT, cuộc sống
của họ gần như không có sự khác biệt so với những “người bình thường”, nhà
nước có các chính sách riêng đối với họ nhằm xóa đi khoảng cách vì sự khác biệt
giữa họ và những người khác, họ thoải mái thể hiện bản chất của mình, họ không
phải lo lắng vì những hạn chế pháp lý có thể xảy ra. Ở Việt Nam, các hạn chế trong
các quy định về quyền nhân thân có điều kiện như quyền thay đổi họ tên, quyền kết

hôn… đã khiến nhóm LGBT không thể thực hiện các quyền đó theo đúng mong
muốn, bản chất của mình. Một người chuyển giới sẽ không thể thay đổi họ tên của
mình với lý do anh ta/chị ta là người chuyển giới. Một cặp đôi đồng tính không
được phép làm thủ tục đăng ký kết hôn vì họ có cùng giới tính với nhau… Những
hạn chế này một mặt khiến các cá nhân chưa “come out” càng thêm giấu mình
trong vỏ bọc “người bình thường”, một mặt khác cũng khiến những người đã
“come out” gần như sống ngoài vòng pháp luật khi đặc tính sinh lý khác biệt so với
đặc tính pháp lý. Chính điều đó đã cản trở nhóm LGBT hòa nhập vào xã hội bằng
chính con người thật của mình.
1.2.2. Đặc điểm quyền nhân thân của nhóm LGBT
Trước khi được nhắc đến như là một nhóm người thiểu số với xu hướng tính
dục, bản dạng giới khác biệt (hay có thể nói là “không thông thường”), những
người thuộc nhóm LGBT là một chủ thể của các quan hệ xã hội nói chung và quan
hệ nhân thân nói riêng. Họ được hưởng những quyền nhân thân như những cá nhân
khác, và do đó quyền nhân thân của họ mang đầy đủ các đặc điểm chung của
quyền nhân thân. Cụ thể:


- Quyền nhân thân gắn liền với chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ
thể khác
Các quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng do Nhà nước quy
định cho các chủ thể dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Về nguyên tắc,
quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác, cũng đồng nghĩa là quyền
nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch mua bán, trao đổi, tặng cho…
Điều này có nghĩa rằng bản thân chủ thể hưởng quyền nhân thân chứ họ không thể
chuyển giao quyền này cho người khác và cũng không ai có thể đại diện cho họ để
thực hiện quyền này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định
của pháp luật thì quyền nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác. Ví dụ:
Quyền công bố, phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết đi thì quyền này có
thể chuyển giao cho chủ thể khác (người thừa kế của tác giả). Mặc dù vậy thì có

những yếu tố luôn gắn liền với chủ thể mà không thể thay đổi được, ví dụ: Quyền
đứng tên tác giả, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
- Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản
Quyền nhân thân không phải là tài sản, vì vậy, quyền nhân thân và tiền tệ
không phải là những đại lượng tương đương và việc cụ thể hóa một quyền nhân
thân thành tài sản, tiền tệ là điều không thể. Do đó, quyền nhân thân không thể bị
định đoạt hay mang ra chuyển nhượng cho người khác. Tuy nhiên, cho dù lý thuyết
chỉ ra rằng, một quyền nhân thân không thể định đoạt có nghĩa là không thể là đối
tượng giao dịch nhưng trên thực tế lại xuất hiện nhiều hợp đồng liên quan tới
quyền nhân thân. Ví dụ điển hình là việc sử dụng hình ảnh của các nghệ sỹ nổi
tiếng trong quảng cáo của các thương hiệu mỹ phẩm, thẩm mỹ...
Với tính chất phi tài sản, các thiệt hại khi quyền nhân thân bị xâm phạm do
đó cũng không có tiêu chí để định lượng, không được cân, đo, đong, đếm bằng
những đại lượng cụ thể. Đặc trưng này không loại trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
khi hành vi xâm hại tới quyền nhân thân. Tuy vậy, những bồi thường vật chất cho


các thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền nhân thân gây ra phần lớn chỉ mang tính
chất tượng trưng mà không có ý nghĩa định giá quyền nhân thân.
- Quyền nhân thân là một quyền dân sự do luật định.
Quyền nhân thân là một quyền nằm trong nội dung năng lực pháp luật dân
sự của cá nhân. Pháp luật dân sự quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân
là một sự tuyên bố chính thức về các quyền con người cụ thể được pháp luật thừa
nhận. Việc pháp luật quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân khác nhau
là dựa vào các điều kiện kinh tế xã hội. Do vậy, ở mỗi giai đoạn khác nhau của lịch
sử xã hội loài người, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, chế độ chính trị xã hội… mà
quyền nhân thân của cá nhân được quy định một cách khác nhau. Quyền nhân thân
là do Nhà nước “trang bị” cho cá nhân, Nhà nước không cho phép bất cứ cá nhân
nào làm thay đổi hay chấm dứt quyền đó.
Mặt khác, như đã nêu, nhóm LGBT là một nhóm người có xu hướng tính

dục và bản dạng giới khác biệt với “số đông”, chiếm thiểu số trong xã hội. Nhóm
LGBT đối với phần lớn “số đông” là khó có thể chấp nhận, là đi ngược lại tự
nhiên, thậm chí nhiều nơi còn phủ nhận sự tồn tại khác biệt đó. Quyền nhân thân
của cá nhân do pháp luật dân sự của Nhà nước quy định, và pháp luật của một nhà
nước phản ánh quan điểm, tư tưởng xã hội của Nhà nước đó. Vì vậy, quyền nhân
thân của nhóm LGBT tồn tại dưới thái độ như vậy của “số đông” cũng sẽ mang
những đặc tính nhất định:
- Quyền nhân thân của nhóm LGBT dễ bị xâm phạm: Đối với “người bình
thường”, quyền nhân thân là bình đẳng cho mọi người. Nhưng đối với nhóm
LGBT, có người chấp nhận, có người thờ ờ, có người lại không chấp nhận và
muốn uốn nắn họ lại theo “đường ngay”, và có người kỳ thị, thậm chí muốn mạt
sát họ. Chính thái độ thờ ơ, kỳ thị đã khiến cho việc xâm hại quyền nhân thân của
nhóm LGBT nhiều lúc được xem như là điều đương nhiên và không vi phạm bất
cứ điều khoản pháp luật hay đạo đức nào, đôi khi còn được xem như là hành động
đúng đắn để loại bỏ những yếu tố “không tốt đẹp” ra khỏi xã hội.


- Quyền nhân thân của nhóm LGBT có thể bị Nhà nước hạn chế: Căn cứ vào
mức độ chấp nhận của một xã hội đối với nhóm LGBT mà pháp luật của xã hội đó
sẽ có những mức độ hạn chế khác nhau đối với quyền nhân thân của nhóm này.
Chẳng hạn, đối với các quốc gia cởi mở như phương Tây, nhóm LGBT được đón
nhận khá phổ biến và quyền của họ được Nhà nước bảo hộ khá trọn vẹn; nhưng đối
với các quốc gia đạo hồi với quốc đạo khắt khe, sự tồn tại của người đồng tính,
người chuyển giới là tội lỗi, là sai trái và bị cho là phải loại trừ ra khỏi xã hội, sự
tồn tại của họ là bất hợp pháp và gần như không có quyền nhân thân nào dành cho
họ. Xã hội Việt Nam phần lớn chưa chấp nhận nhóm LGBT và còn nhiều kỳ thị
với nhóm này, nhưng chúng ta cũng không chủ trương loại trừ họ. Chúng ta gần
như để vấn đề nhóm LGBT ngoài vòng pháp luật. Việc là người thuộc nhóm
LGBT nhưng phải sống như những “người bình thường” khiến cho quyền nhân
thân của họ không được thực hiện triệt để. Những điều kiện để có thể thực hiện

quyền nhân thân mà Nhà nước quy định tưởng chừng như không có vấn đề gì, dễ
dàng có thể chấp nhận đối với “người bình thường” lại trở thành điều hạn chế
quyền nhân thân của nhóm LGBT. Nói cách khác, quyền nhân thân của nhóm
LGBT trong pháp luật dân sự Việt Nam bị hạn chế bởi những điều kiện do luật
định và có tính chất không trọn vẹn.
1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân của nhóm LGBT
Các giá trị nhân thân nói chung và việc bảo vệ các giá trị này có ý nghĩa hết
sức quan trọng về mặt chính trị, kinh tế, xã hội.
Các giá trị nhân thân liên quan mật thiết tới những khái niệm về công bằng,
tự do, bất khả xâm phạm của các cá nhân. Nếu như vào thời kỳ xa xưa người ta có
thể định đoạt số phận của một chủ thể, người tự do có thể tự bán mình hoặc đặt
mình cho người khác thì cho đến hiện nay những sự định đoạt kiểu như vậy đã
không còn được thừa nhận. Khi khái niệm và ý thức về cá nhân ngày càng phát
triển và được đề cao, cá nhân ngày càng đạt được nhiều hơn nữa sự thừa nhận cho
mình những quyền năng ngày càng mới. Cùng với sự phát triển không ngừng của


trình độ kinh tế và văn hoá trong xã hội, những yêu cầu về bảo vệ những quyền lợi
của cá nhân cũng ngày càng gia tăng. Chính sự tiến bộ của từng cá nhân đã thúc
đẩy sự tiến bộ xã hội; sự phát triển của từng cá nhân và trong mối quan hệ giữa các
cá nhân với nhau sẽ thể hiện sự thịnh vượng, phát triển đích thực của một xã hội.
Ý nghĩa xã hội của các quyền nhân thân thể hiện ở khía cạnh: bản thân các
giá trị nhân thân cùng việc bảo vệ các giá trị này góp phần xác định vị trí của con
người trong xã hội, và do vậy, chúng có ý nghĩa như là sự thể hiện trình độ phát
triển của toàn xã hội. Bằng cách đó, mức độ tự do của cá nhân trong xã hội được
qui chiếu với mức độ công bằng và tự do của chính xã hội. Như vậy, việc các giá
trị nhân thân của chủ thể càng được đảm bảo thì điều đó càng thể hiện trình độ phát
triển của một xã hội mà chủ thể đó tồn tại.
Ở góc độ cá nhân, việc bảo vệ quyền nhân thân trước hết có tác dụng kịp
thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của họ,

bảo đảm trật tự pháp lý xã hội và giáo dục ý thức pháp luật, làm cho mọi người tôn
trọng quyền nhân thân của cá nhân đó. Mặt khác, bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân được thực hiện trên thực tế,
khắc phục những hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo
đảm đời sống tinh thần cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và
sáng tạo.
Việc bảo vệ quyền nhân thân càng có ý nghĩa đặc biệt đối với nhóm LGBT.
Dưới ảnh hưởng của sự kỳ thị, phân biệt đối xử, nhóm LGBT có thể được xem như
đối tượng yếu thế trong xã hội. Về mặt kinh tế, khi tham gia vào các quan hệ kinh
tế, dân sự như tìm kiếm việc làm, cơ hội thăng tiến trong công việc, vấn đề nhà
ở…, họ sẽ gặp nhiều trở ngại và bị đối xử bất công. Bên cạnh đó, do nhóm LGBT
chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn nên tiếng nói không đủ sức nặng, dẫn đến khả năng
tự thân chống đỡ, bảo vệ khi quyền lợi chính đáng bị xâm hại là rất thấp. Việc đảm
bảo các quyền nhân thân của các cá nhân thuộc nhóm LGBT sẽ làm cân bằng trong
việc thụ hưởng quyền của nhóm với các nhóm chủ thể khác trong xã hội.


Về mặt chính trị, đồng tính luyến ái hay chuyển giới không phải là hiện
tượng xã hội có tính chất tạm thời. Sự tồn tại của hiện tượng này là một tất yếu,
xuất hiện ở mọi xã hội, trong mọi giai đoạn lịch sử. Trong bối cảnh sự phát triển
của đời sống đã nâng cao các đòi hỏi về quyền con người, những người thuộc
nhóm LGBT đã nảy sinh các mâu thuẫn với xã hội liên quan đến các yêu cầu được
xã hội công nhận sự tồn tại, được đối xử công bằng. Xung đột này ngày càng mạnh
mẽ, và sự đảm bảo toàn diện quyền con người nói chung và quyền nhân thân nói
riêng sẽ điều hòa, giải quyết các xung đột đó, duy trì trật tự xã hội hợp lý.
1.4. Quyền nhân thân của nhóm LGBT theo pháp luật một số nước trên
thế giới
Trên thế giới, ở những nền văn hóa khác nhau, trong những giai đoạn lịch sử
khác nhau, thái độ đối với ham muốn tình dục, hành vi tình dục và các mối quan hệ
nói chung ở mỗi quốc gia khác nhau thì có những quan điểm, nhận thức đối với

những người thuộc nhóm LGBT khác nhau.
1.4.1. Pháp luật về quyền nhân thân của người đồng tính, song tính trên
thế giới
Trong một thời gian dài, nhiều quốc gia đã đưa đồng tính vào danh sách các
bệnh về tâm thần. Quan niệm đồng tính luyến ái là rối loạn tâm lý là một quan
niệm phổ biến ở phương Tây từ thế kỷ 19 và sang đến một phần thế kỷ 20. Đến
những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, khoa học đã khẳng định đồng tính luyến
ái không phải là bệnh. Nhiều quốc gia và tổ chức cũng đã lần lượt loại bỏ đồng tính
luyến ái khỏi danh sách bệnh tâm thần, khẳng định đồng tính chỉ là một xu hướng
tính dục như bao xu hướng khác (lưỡng tính, vô tính…), phần nào xua đuổi quan
niệm nặng nề tại các nước trên thế giới về giới đồng tính.
- Hà Lan
Đây là quốc gia tiên phong trong việc ghi nhận các xu hướng mới về quyền
con người. Điều 1 Hiến pháp Hà Lan đã quy định: “Tất cả mọi người ở Hà Lan sẽ
được đối xử bình đẳng trong các trường hợp ngang bằng. Phân biệt đối xử dựa trên


×