SỞ GD & ĐT BẮC NINH
THPT HÀN THUYÊN
ĐỀ THI THỬ THPT QG LẦN 2
NĂM HỌC 2018 – 2019
Môn thi: NGỮ VĂN 12
Thời gian: 120 phút, không kể thời gian phát đề
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
(1) Một khi đã phân biệt chuyện nào đúng, chuyện nào sai, người nào đúng, người nào sai, khi
đó bạn đã tự mặc định việc lựa chọn phe cho mình. Khi phân định rạch ròi đúng – sai, chúng ta có
xu hướng tốn công thuyết phục những người xung quanh để họ có cùng niềm tin như mình, thậm chí
còn ghét bỏ, không thể đứng cùng một chỗ với người có tư tưởng đối lập. Bạn đã bao giờ tự hỏi,
điều gì khiến bạn cảm thấy khó chịu, ghét bỏ đối phương vào lúc đó chưa? Vì họ có quan điểm trái
ngược? Hay vì họ không chịu lắng nghe bạn, không ti n bạn, không tuân theo bạn, không thừa nhận
rằng bạn đúng? (…)
(2) Chúng ta có nhất thiết cần phải chiến đấu đến cùng với người khác để giành được phần
thắng, để được thừa nhận? Đến cuối cùng, chiến thắng đó liệu sẽ đem lại cho bạn điều gì? Bạn có
thực sự chiến thắng không hay đó đơn thuần là chiến thắng của “cái Tôi” bên trong bạn?
(3) Một “cái Tôi” luôn kêu gào muốn người khác phải nghe mình, phải tôn trọng mình, phải để
mình làm chỉ huy. Một “cái Tôi” khắc khoải mong được thừa nhận. Một “cái Tôi” thích chiến đấu
hơn là nhún nhường. Một “cái Tôi” nói lí lẽ rất giỏi, nhưng lại chỉ thích bịt tai, vì không chịu lắng
nghe nên chưa thể hiểu, chưa thể thương một người có lựa chọn khác biệt. Một “cái Tôi” vẫn còn
cầm tù mình trong những vai trò, ranh giới, ẩn giấu bên trong là những lo toan, sợ hãi nên khi
đứng trước sự đối lập, mới vội vàng nóng giận, vội vàng tức tối, cảm thấy bị đe dọa và lo lắng về
tương lai. Khi “cái Tôi” tù túng thì sẽ rất khó để nó thực sự tôn trọng sự tự do của kẻ khác.
(Trích Chúng ta đâu chỉ sống cho riêng mình – Dương Thùy, Nxb Hà Nội, 2017)
Câu 1. Nhận biết
Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Nhận biết
Theo tác giả, một “cái Tôi” tù túng thường có những biểu hiện như thế nào?
Câu 3. Thông hiểu
Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn (3) của văn bản?
Câu 4. Thông hiểu
Theo anh/chị, việc đề cao “cái Tôi” cá nhân sẽ tác động như thế nào đến lối sống của thế hệ trẻ hiện
nay?
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Vận dụng cao
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu hỏi được đặt ra
trong văn bản ở phần Đọc hiểu: Chúng ta có nhất thiết cần phải chiến đấu đến cùng với người khác
đề giành được phần thắng, để được thừa nhận?
Câu 2 (5,0 điểm) Vận dụng cao
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, có đoạn: “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá…
một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số
một. Nhìn cái thiên nhiên ấy… mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành lại
sự sống từ tay nó về tay mình”
Phân tích hình tượng con Sông Đà với vẻ đẹp trên, từ đó anh chị hãy đánh giá sự độc đáo trong
quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân được thể hiện qua hình tượng này?
----------- HẾT ---------Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
( – Website đề thi – chuyên đề file word có lời giải chi tiết)
Quý thầy cô liên hệ đặt mua word: 03338.222.55
HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1:
Phương pháp: căn cứ các phương thức biểu đạt đã học
Cách giải:
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2:
Phương pháp: căn cứ nội dung đoạn trích
Cách giải:
Biểu hiện cái tôi tù túng:
- Một cái Tôi luôn kêu gào người khác phải nghe mình, tôn trọng mình, phải để mình làm chỉ huy.
- Một cái tôi khắc khoải được thừa nhận.
- Một cái tôi thích chiến đâu hơn là nhúng nhừng
- Một cái tôi nói lí lẽ rất giỏi nhưng lại chỉ thích bịt tau, vì không chịu lắng nghe, thấy hiểu
- Một cái tôi vẫn còn cầm tù mình trong những vai trò, ranh giới, ẩn dấu bên trong là những lo toan,
sợ hãi nên khi đứng trước sự đối lập mới vội vàng, nóng giận, vội vàng tức tối, cảm thấy bị đe dọa
và lo lắng về tương lai.
Tác động:
- Tích cực: Việc đề cáo “cái Tôi” cá nhân là nhu cầu mang tính nhân bản, nhân văn chính đáng. Nó
giúp mỗi người trở nên khác biệt, nổi bật; khẳng định được giá trị, năng lực của bản thân; dám làm
những điều mình muốn; tự tin, năng động hơn,…
- Tiêu cực:
+ Một cái tôi tù túng như vậy sẽ khiến giới trẻ sống thiếu bao dung, vị kỉ, chỉ lo nghĩ cho bản thân.
+ Khiến mối quan hệ giữa con người với con người trở nên lỏng lẻo, từ đó khiến xã hội mất cân
bằng, thúc đẩy sự hình thành xã hội vô cảm.
+ Kìm hãm sự phát triển của bản thân nói riêng và sự phát triển của xã hội nói chung.
- Vì vậy mỗi cái nhân phải biết đặt “cái Tôi” trong mối quan hệ với “cái ta” với cộng đồng, “cái
Tôi” cần tuân theo chuẩn mực đạo lý, văn hóa, sống có trách nhiêm với bản thân, gia đình và xã hội.
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1:
*Phương pháp: Sử dụng các thao tác lập luận để tạo lập một đoạn văn nghị luận (bàn luận, so
sánh, tổng hợp,…)
*Cách giải:
a.Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn: Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo nhiều cách khác
nhau cần đảm bảo cấu trúc ba phần.
b.Xác định đúng vấn đề nghị luận
c.Triển khai vấn đề cần nghị luận: vận dụng kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng, rút ra bài
học nhận thức và hành động.
1. Giải thích:
“ Chiến đấu đến cùng” là cách nói hình ảnh, dung để diễn tả trạng thái đấu tranh (bằng ngôn ngữ,
hành động) một cách kiên quyết, không khoan nhương, không chịu từ bỏ khi diễn ra mâu thuẫn,
xung đột giữa bản thân và các lực lượng khác.
=> Câu nói đặt ra vấn đề: liệu đây có phải là cách duy nhất để con người đạt được chiến thắng, để
được thừa nhận trong cuộc sống?
2. Bàn luận
- Trong cuộc sống, để giành được chiến thắng đôi khi con người phải chiến đấu đến cùng, bởi:
+ Chiến thắng và được mọi người thừa nhận là nhu cầu chính đáng của con người. Để bảo vệ nhu
cầu chính đáng ấy, tất yếu mỗi người cần phải chiến đấu đến cùng.
+ Trước một vấn đề, có thể có nhiều ý kiến, hướng giải quyết trái ngược. Đặc biệt, cái sai lầm, cái
xấu thường không dễ nhận ra, không dễ đầu hàng. Chỉ có kiến quyết bảo vệ quan điểm, hướng đi
của mình đến cùng thì người khác mới hiểu rõ ngọn ngành, bị thuyết phục, đồng tình với những
điều đúng đắn.
+ Qua hành động chiến đấu đến cùng, mỗi người sẽ chứng tỏ được trí tuệ của bản thân, và khiến
người khác hiểu mình hơn.
- Tuy nhiên, chiến đấu đến cùng lại gây nên tác dụng trái ngược, làm chúng ta trở nên cố chấp, cực
đoan, hiếu chiến; làm bản thân và người khác bị tổn thương; gây xung đột, bất hòa,…
+ Không phải khi nào chiến đấu đến cùng cũng giành được chiến thắng nếu như quan điểm, hướng
đi là sai lầm. Có rất nhiều sự việc phải trải qua thời gian mới chứng tỏ được chân lí, mới được thừa
nhận.
- Liên hệ bản thân và bài học nhận thức, hành động.
Câu 2:
*Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận
văn học.
*Cách giải:
❖ Yêu cầu hình thức:
Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên
kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
❖ Yêu cầu nội dung:
• Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, là một nhà văn có cá tính độc
đáo, có thể coi ông là một định nghĩa về người nghệ sĩ.
- Nét nổi bật trong phong cách của Nguyễn Tuân là ở chỗ, Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương
diện văn hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Sáng tác của Nguyễn Tuân
thể hiện hài hòa màu sắc cổ điển và hiện đại. Đặc biệt, ông thường có cảm hứng mãnh liệt với cái cá
biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mĩ.
- Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Sông Đà
nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên
tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay
động người đọc nhiều nhất.
• Phân tích hình tượng của con Sông Đà – con sông hung bạo
a) Sự hung bạo thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành:
- Hình ảnh “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả
được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông.
- Hình ảnh so sánh “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp
của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập.
- Bằng liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã tiếp tục khắc sâu ấn tượng về độ cao của những vách
đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy “ngồi trong khoang đò qua quãng
ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
b) Sự hung bạo thể hiện ở ghềnh đá “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”
- Nhân hóa con sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ thuê: dữ dằn, gắt gao, tàn bạo.
- Điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) được hỗ trợ bởi những
thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy,
vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên
một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ
lật ngửa bụng thuyền ra”.
c) Sự hung bạo thể hiện ở những “cái hút nước” chết người:
- Sự khủng khiếp tàn độc:
+ Được tái hiện từ các góc nhìn khác nhau: từ trên nhìn xuống mặt nước sông “giống như cái giếng
bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng
xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan
ụp vào…”
+ Được cảm nhận từ các vị thế trải nghiệm khác nhau:
=> vị thế của người quay phim “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình
cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…”
=> vị thế của người xem phim “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một
chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”
+ Được cảm nhận bằng các giác quan khác nhau: thị giác là những hình ảnh liên tưởng độc đáo và
mới lạ; thính giác: lúc thì “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, lúc thì“nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào”
- Giải pháp: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo
nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường
mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…”
-> Đó chính là sự minh chứng rõ nhất cho mức độ nguy hiểm tột cùng của những cái hút nước.
- Hậu quả khủng khiếp mà những cái hút nước gây ra:
- “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”
- “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi,
bị dìm và bị đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”
d) Sự hung bạo thể hiện ở chiến trường sông Đà
* Dấu hiệu đầu tiên là âm thanh tiếng nước thác: Âm thanh phong phú: lúc thì nghe như là oán
trách, lúc như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, đặc biệt có lúc rống lên gầm
thét những âm thanh cuồng nộ, ghê sợ để trấn áp con người.
* Các trùng vi thạch trận:
- Trùng vi thạch trận thứ nhất
Đó là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo
mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.
+ Đá ở con thác này biết bày binh bố trận như Binh pháp Tôn Tử, gồm năm cửa trận, trong đó “có
bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”.
+ Cửa sinh lại chia làm ba tuyến - tiền vệ, trung vệ, hậu vệ- đòi ăn chết con thuyền đơn độc.
Khi thạch trận bày xong, đá phối hợp với nước thác dữ dội và nham hiểm
- Trùng vi thạch trận thứ hai
+ Khúc sông này càng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, và cũng chỉ có một cửa sinh.
Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”
+ Phối hợp với đá là “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh (lao nhanh) trên sông đá”
+ Cùng với đó là bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ xô ra, đòi “níu thuyền lôi vào tập đoàn
cửa tử”.
- Trùng vi thạch trận thứ ba
Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác”
• Đánh giá sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân được thể hiện qua hình tượng
- Cái đẹp trong quan niệm của ông là cái cá biệt, cái dữ dội, phi thường – cái tuyệt mĩ
- Cái đẹp chính là cảnh sắc thiên nhiên, đất nước
- Người nghệ sĩ muốn có cái đẹp cần rong ruổi đi tìm
• Tổng kết