Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SKKN một số biện pháp quản lí nhằm duy trì nề nếp học sinh và nâng cao chất lượng đại trà ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.73 KB, 33 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp quản lí nhằm duy trì nề nếp học
sinh và nâng cao chất lượng đại trà ở trường THCS”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lí trường học THCS
3. Tác giả:
Họ và tên:
Nam (nữ): Nam
Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: PHT trường THCS
Điện thoại:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Tên đơn vị: trường THCS
Địa chỉ: Thôn
Điện thoại:
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) :
Tên đơn vị: trường THCS
Địa chỉ:
Điện thoại:
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Các trường THCS không là trường chuyên, không là trường chất lượng cao,
có quy mô lớp trường hạng 3
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: từ năm học 2017 - 2018.
HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

1



TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Chất lượng giáo dục của nhà trường trong những năm gần đây luôn ở vị trí
cuối của huyện và tỉnh; đặc biệt vị thế và uy tín của nhà trường đối với Đảng ủy,
UBND xã và nhân dân địa phương đang bị giảm sút nghiêm trọng. Vậy “Làm
thế nào để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục?” không còn là một câu hỏi
mới nhưng câu trả lời thì luôn là một vấn đề mà các nhà quản lý giáo dục của
các cấp luôn quan tâm và tìm cách giải đáp. “Một số biện pháp quản lí nhằm
duy trì nề nếp học sinh và nâng cao chất lượng đại trà ở trường THCS” là ý
tưởng tôi đã ấp ủ từ sau khi tôi được chuyển về đơn vị trường mới và cũng là
điều mà cần thiết vào thời điểm này để lấy lại niềm tin từ chính quyền địa
phương, hơn hết là từ phụ huynh và vì con em tại địa phương và là danh dự, là
uy tín của nhà trường. Đề tài này tôi đã vận dụng vào thực tiễn và thực hiện từ
năm học 2013 – 2014 đến nay, kết quả đã cho thấy có hiệu quả rất tốt, nhờ đó
đã làm cho chất lượng đại trà và đặc biệt là nền nếp học sinh rất tốt, các em học
sinh luôn thực hiện tốt mọi quy chế, nội quy của trường của lớp. Từ việc chấp
hành và thực hiện tốt mọi nền nếp của học sinh mà công tác giảng dạy và việc
tiếp thu bài của học sinh rất thuận lợi và đã đem lại những kết quả đáng tự hào.
Đặc biệt trong những năm gần đây chất lượng tuyển sinh đầu vào lớp 6 rất thấp
do học sinh tại địa bàn xã chuyển về trường chuyên của huyện, nhất là năm học
2017 – 2018 tỉ lệ HS chuyển về trường chuyên và một số trường khác chiếm tới
trên 20% số học sinh khối 6 của nhà trường; đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên
so với mặt bằng chung của trường bạn không thua kém là bao. Tuy vậy kết quả
đại trà cũng như việc thực hiện nền nếp của học sinh trong những năm gần đây
đều rất thấp. Nhưng bắt đầu từ đầu năm học 2017 - 2018 được sự đồng lòng từ
BGH nhà trường, từ các ban ngành đoàn thể, từ tập thể cán bộ giáo viên, nhân
viên nhà trường việc củng cố, duy trì, ổn định nền nếp đã tốt hơn; chất lượng đại
trà cũng đã dần có những thay đổi và có những bước tiến vững chắc. Các giải
pháp tôi nêu ra ở đây bao gồm các nhóm giải pháp về duy trì nền nếp học sinh,

về đổi mới công tác quản lí, về đội ngũ, về công tác phối hợp với gia đình và các
tổ chức Đoàn đội trong nhà trường...Mặc dù đã có hiệu quả đối với nhà trường
trong năm qua, tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
sự chia sẻ và đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng sự để đề tài
này được đầy đủ hoàn thiện hơn.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
2.1. Điều kiện.
- Học sinh và giáo viên cấp THCS
- Đảm bảo về đội ngũ cán bộ giáo viên đủ theo cơ cấu, có trình độ chuyên
môn – nghiệp vụ, có lòng nhiệt tình
- Đảm bảo về cơ sở vật chất và phương tiện dạy học cơ bản nhất phục vụ
cho việc giảng dạy của thầy cô giáo
2


2.2. Thời gian.
- Thời gian áp dụng sáng kiến từ năm học 2017 - 2018
2.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Một số biện pháp chỉ đạo nhằm duy trì nền nếp học sinh và nâng cao
chất lượng đại trà ở trường THCS
- Học sinh và giáo viên cấp THCS
3. Nội dung sáng kiến.
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến.
- Đối với bất cứ nhà trường nào thì chất lượng giáo dục cũng luôn là
thước đo quan trọng về sự thành công, uy tín, thương hiệu của nhà trường. Vì
vậy, với nhiệm vụ là một phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn bản thân tôi
luôn cố gắng học hỏi, tìm tòi để tìm ra những giải pháp tốt nhất nhằm củng cố,
duy trì nền nếp học sinh, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là chất
lượng đại trà của nhà trường.
- Để nâng cao chất lượng giáo dục, tôi thiết nghĩ phải thực hiện đồng bộ

nhiều giải pháp, các biện pháp phải được thực hiện một cách triệt để, sáng tạo,
linh hoạt cho phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của nhà trường, nhằm phát
huy thế mạnh và hạn chế, khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý hoạt
động dạy và học của nhà trường.
- Các biện pháp đề cập trong đề tài sáng kiến này cũng chính là những nội
dung chỉ đạo hoạt động chuyên môn của bản thân tôi nói riêng, BGH nhà trường
nói chung đã thực hiện trong thời gian qua. Cũng chính từ việc áp dụng các biện
pháp đó mà chất lượng giáo dục của nhà trường đã từng bước phát triển nhất
định.
- Qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu và áp dụng sáng kiến tôi thấy học
sinh đã có những tiến bộ rõ rệt, các em sẽ tự tin hơn, yêu thích các môn học hơn,
tích cực học hơn và có hứng thú học hỏi hơn. Đặc biệt các em tránh được một số
tệ nạn xã hội, có lối sống lành mạnh hơn.
3.2. Khả năng áp dụng sáng kiến.
- Sáng kiến được nghiên cứu và áp dụng thành công và đạt hiệu quả cao
với học sinh và giáo viên tại trường tôi công tác nói riêng và có thể áp dụng cho
học sinh các trường khác trên địa bàn huyện nói chung; trong quá trình quản lí
trong toàn quốc đều có thể áp dụng được nội dung sáng kiến này một cách hiệu
quả.
3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến.
- Với những giải pháp đã đề ra trong phần nội dung sáng kiến, giúp cho
nhà quản lí thuận lợi trong việc duy trì nền nếp dạy và học và nâng cao chất
lượng đại trà
- Học sinh luôn có ý thức cao trong thực hiện nền nếp, nội quy của
trường, lớp học. Từ đó các em có hứng thú học tập hơn, đạt hiệu quả cao.
3


- Giáo viên có thế áp dung được những phương pháp giảng dạy phù hợp
với từng đối tượng học sinh

4. Giá trị và kết quả đạt được của sáng kiến.
- Trước khi chưa áp dụng sáng kiến việc rèn luyện ý thức đạo đức học
sinh và mọi hoạt động nền nếp của học sinh chưa tốt dẫn đến chất lượng đại trà
toàn trường thấp, luôn đứng ở vị trí cuối cùng trong toàn huyện.
- Sau khi áp dụng sáng kiến nền nếp học sinh được cải thiện rõ ràng, các em
đã chấp hành tốt mọi nội qui, quy định của nhà trường, đã có ý thức tu dưỡng và
rèn luyện đạo đức tốt, học sinh đã tự giác học bài và làm bài tập ở nhà thường
xuyên và đều đặn hơn. Qua đó chất lượng đại trà cũng đã được cải thiện và nâng
lên rõ rệt
5. Đề xuất và kiến nghị để thực hiện áp dụng và mở rộng sáng kiến.
- Nhà trường tiếp tục quan tâm đáp ứng đủ các điều kiện về cơ sở vật
chất, tăng cường mua tài liệu, sách tham khảo phục vụ cho việc dạy và học bộ
môn. Bên cạnh đó tạo điều kiện cho GV được đi học trên chuẩn để nâng cao
trình độ giảng dạy.
+ Phòng bộ môn có đầy đủ trang thiết bị như: máy tính có kết nối mạng
Internet, máy chiếu projecter, bàn thực hành, các dụng cụ thực hành, bồn nước
rửa.
+ Tạo điều kiện tổ chức cho thầy và trò được đi tham quan thực tế trong
các tiết ngoại khóa để học tập, từ đó sẽ thu được nhiều tư liệu quý từ thực tế mỗi
địa phương. Qua đây cán bộ cán bộ giáo viên và nhân viên thoải mái hơn qua
những chuyến tham quan, học tập, tinh thần làm việc sẽ tốt hơn, cán bộ giáo
viên, nhân viên nhà trường sẽ gắn kết hơn, cống hiến hơn
- Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở các chuyên đề về bồi dưỡng
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, nhất là các chuyên đề như “Một
số biện pháp quản lí nhằm duy trì nền nếp học sinh và nâng cao chất lượng đại
trà ở trường THCS” và các phương pháp giảng dạy hiện đại, trao đổi kinh
nghiệm dạy thêm, bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu …
- Tổ chức các buổi thảo luận và giới thiệu các sáng kiến kinh nghiệm có
chất lượng cao, ứng dụng lớn trong thực tiễn.


4


Phần 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÍ NHẰM DUY TRÌ NỀ NẾP HỌC
SINH VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẠI TRÀ Ở TRƯỜNG THCS
1. Cơ sở lí luận
- Trong hệ thống giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ thông đóng vai trò đặc
biệt quan trọng, nó đặt nền móng cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những con người có kiến thức, văn hoá lao động
tự chủ, sáng tạo, có kĩ thuật, giàu lòng nhân ái, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp
ứng nhu cầu phát triển đất nước. Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của
một đất nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc.
- Trong hệ thống đó, giáo dục THCS là một điểm chiến lược phát triển
giáo dục, đào tạo. Đại hội IX của Đảng đề ra đường lối phát triển của giáo dục,
đào tạo: "Phát triển giáo dục Mầm non, củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ
và phổ cập trung học cơ sở trong cả nước...". THCS là mắt xích quan trọng
trong hệ thống giáo dục phổ thông hoàn chỉnh. Ở lứa tuổi học tập này, qua môi
trường giáo dục, học sinh bộc lộ rõ tài năng và hình thành hướng đi sau này cho
bản thân. Vì vậy, đầu tư và nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở là vô
cùng quan trọng và cần thiết; góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho Công nghiệp
hóa, Hiện đại hóa đất nước như kế hoạch đã đề ra.
- Giáo dục phổ thông là nền tảng của sự hình thành nhân cách, trong đó
giáo dục trung học cơ sở có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành nhân cách
học sinh. Đây là một cấp học giúp cho các em có chí hướng phấn đấu học lên
bậc trung học phổ thông để tạo nguồn, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước: "Giáo dục nhằm mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách XHCN của
thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kĩ thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp
với yêu cầu phân công lao động xã hội"
- Chất lượng con người phải đi từ nền tảng ban đầu ở các cấp học nhất là trung

học cơ sở. Nếu không có các giải pháp để phát triển giáo dục trung học cơ sở tạo
nền móng vững chắc thì không thể nói đến tương lai của lớp người xây dựng và
bảo vệ tổ quốc kế tiếp của lịch sử dân tộc.
- Đối với giáo dục vùng đồng bằng miền Bắc, đặc biệt là giáo dục của
huyện được nghiên cứu, trong những năm qua đã có những bước phát triển nhất
định. Tuy nhiên, chất lượng mũi nhọn và đại trà vẫn còn rất thấp, chưa thể đáp
ứng với mục tiêu giáo dục đề ra.
- Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Chất lượng dạy và học phụ thuộc vào quá trình dạy học. “Quá trình dạy
học là một quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh. Trong đó dưới tác
5


động chủ đạo như tổ chức, điều khiển của giáo viên, học sinh tự giác tích cực tự
tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học đã
đặt ra”.
- Chất lượng giáo dục là trình độ và khả năng thực hiện mục tiêu giáo dục,
đáp ứng ngày càng cao nhu cầu người học và sự phát triển toàn diện của xã hội.
- Chất lượng dạy học là chất lượng của người học hay tri thức phổ thông
mà người học lĩnh hội được vốn học phổ thông toàn diện, vững chắc ở mỗi
người học, đó là chất lượng đích thực của quá trình dạy học.
- Đội ngũ giáo viên là lực lượng chủ yếu, quan trọng nhất trong mỗi nhà
trường và là lực lượng quyết định cho sự thành công của quá trình dạy học.
Năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm, uy tín cá nhân của mỗi giáo viên
có ảnh hưởng to lớn đến chất lượng đào tạo của nhà trường cũng như thương
hiệu của nhà trường. Uy tín của nhà trường luôn gắn liền với uy tín của giáo
viên tài năng và tâm huyết với nghề.

- Các nhà quản lý giáo dục ở các trường THCS thông qua công tác quản
lý chuyên môn nhằm phát huy hết nội lực của người giáo viên để phục vụ cho
hoạt động giáo dục. Nhà quản lý giáo dục biết gắn kết tập thể giáo viên lại với
nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và mục
tiêu giáo dục của nhà trường.
- Quản lý hoạt động chuyên môn chính là điều khiển, chỉ đạo các hoạt
động dạy học trong nhà trường làm cho nó đi theo một quỹ đạo. Nhà quản lý
phải làm thế nào để vận hành bộ máy giáo dục đó một cách khoa học, có tổ
chức, luôn tiến hành kiểm tra giám sát, uốn nắn, sửa chữa kịp thời những sai sót
tồn tại, phát huy thế mạnh, ưu điểm nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra ban
đầu.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Đặc điểm tình hình nhà trường:
- Trong những năm gần đây ý thức học sinh rất kém, trong đó có nhiều
nguyên nhân từ nguyên nhân khách quan đến chủ quan như:
+ Học sinh bỏ học nhiều, thích chơi hơn thích học
+ Bạo lực học đường gia tăng
+ Học sinh còn lười học bài
+ Đua đòi, bị bàn bè xấu lôi kéo
+ Do đặc thù của địa phương đang có nhiều dự án khu công nghiệp, mở
rộng địa bàn dân cư (bán đất ở mặt đường nhựa)
- Năm học 2017 – 2018 trường có 8 lớp với 288 học sinh. Trong đó:
+ Khối 6 = 2 lớp = 62 học sinh
+ Khối 7 = 2 lớp = 81 học sinh
+ Khối 8 = 2 lớp = 77 học sinh
+ Khối 9 = 2 lớp = 68 học sinh
+ Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường: 24 trong đó:
Ban giám hiệu: 2 (Hiệu trưởng: 1, Hiệu phó: 1)
6



Giáo viên : 16 đồng chí được chia thành 2 tổ chuyên môn :
1. Tổ Khoa học Tự nhiên : 9 giáo viên
2. Tổ Khoa học Xã hội : 9 giáo viên
+ Hành chính phục vụ: 4
+ Về tổ chức đảng và đoàn thể:
Chi bộ: 16 Đảng viên chính thức
Cấp uỷ: 03 đồng chí (Hiệu trưởng, Hiệu phó, CT Công đoàn)
Công đoàn: 24 đoàn viên; BCH: 3 đồng chí (1 nam, 2 nữ)
Chi đoàn giáo viên: 8 đoàn viên, BCH gồm: 2 đồng chí
2.2. Thực trạng chất lượng giáo dục đại trà của nhà trường trước khi
nghiên cứu áp dụng:
2.2.1. Về chất lượng dạy học năm học 2016 - 2017:
Hạnh kiểm HS:

Tốt

Tổng
số HS

SL

Khá
%

SL

Chỉ tiêu KH

297


185 62,50

89

Kết quả đã đạt

292

199 68,15

73

Toàn huyện

Trung bình

%
30,0
7
25,0

SL

%

SL

%


21

7,10

1

0,33

17

5,82

3

1,03

26,4
7

66,66

Yếu

6,59

0,28

Học lực HS:

Tổng

số
HS

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

Chỉ tiêu
KH

297

44

14,8
6

125

42,2
4

118

39,8
6

9

3,0
4

0


0

Kết quả
đã đạt

292

22

7,53

115

39,3
8

147

50,3
4

6

2,0
5

2

0,6
8


Toàn
huyện

23,3
8

39,6
8

35,2
6

1,5
1

0,1
6

HS đạt danh hiệu HSG, HSTT:
Kết quả đã đạt
Kế hoạch năm học
Học sinh giỏi
22 học sinh, tỉ lệ 7,53%
14,86%
Học sinh tiên tiến
113 học sinh, tỉ lệ 38,7%
42,24%
Chất lượng GD mũi nhọn:
Kết quả đã đạt

Kế hoạch năm học
Học sinh giỏi bộ môn cấp
Có 15/33 HS được công
đạt 80% số HS được
trường
nhận đạt 45,45%, ĐTB 4,38 công nhận, ĐTB đạt
xếp 19/19 trường
6,1 điểm, xếp không
7


quá 11/19
6 đến 8 giải, xếp
không quá 9/19.
1 giải

Học sinh giỏi môn văn hóa 1/11 HS đạt giải, xếp 19/19.
lớp 9 cấp huyện
Học sinh giỏi môn văn hóa
Không có
cấp tỉnh
Điền kinh HS
Đồng đội xếp 9/19, đạt giải xếp từ thứ 1 đến thứ
ba cấp huyện.
6/19
Giai điệu tuổi hồng
1 giải nhất, xếp thứ 2/19 cấp
Có giải đồng đội
huyện
hoặc cá nhân cấp

huyện
Hiệu quả GD:

Học sinh lên lớp thẳng
Học sinh lên lớp sau kiểm tra
lại
Học sinh ở lại lớp
Học sinh tốt nghiệp THCS
Học sinh bỏ học trong năm
học
Học sinh thi đỗ vào trường
THPT công lập/số HS tốt
nghiệp, xếp thứ

Kết quả đã đạt
94,17%
98,68%

Kế hoạch năm học
96,63% trở lên
99% trở lên

2,4%
96,92%
2 HS, tỉ lệ 0,68%

không quá 1%
98,4% trở lên
không vượt quá 1%


21/63 tốt nghiệp =
33,3%
Xếp 19/19 huyện,
138/272 tỉnh
Học sinh học tiếp lên THPT 55/63 tốt nghiệp, tỉ lệ
và trung cấp nghề
87%

85% trở lên; xếp
không quá 9/19 cấp
huyện, không quá
120/272 cấp tỉnh.
92% trở lên

2.2.2. Một số tồn tại và nguyên nhân
Chất lượng GD có chiều hướng giảm sút, một số tiêu chí có sự đi xuống, tỉ lệ
HS chưa thực hiện tốt nền nếp học tập và sinh hoạt đội còn cao, còn một số HS nam
hút thuốc lá, ham chơi điện tử dẫn đến nghỉ học dài ngày; tỉ lệ HS thi đỗ lớp 10 THPT
công lập còn thấp hơn rất nhiều so với kế hoạch, chất lượng giáo dục đại trà và mũi
nhọn của HS đều sụt giảm rất nhiều.
Chất lượng một số mặt thi đua của đơn vị chưa cao, nhất là tiêu chuẩn 2 về chất
lượng giáo dục chỉ đạt 13,0/25 điểm = 52% (yêu cầu tối thiểu là 70%).
Nguyên nhân: sự phối hợp giáo dục của các thành viên nhà trường chưa tốt, lãnh
đạo nhà trường chưa quy tụ được nhân tố đoàn kết, chưa huy động được sự vào cuộc
tích cực của CBVC; nhiều thầy cô làm việc chưa nhiệt tình, còn né tránh trách nhiệm,
đùn đẩy khó khăn cho người khác, chủ nghĩa cá nhân còn nặng nề; sự phối hợp giữa ba
môi trường nhà trường-gia đình-đoàn thể nhân dân hiệu quả chưa cao, nhận thức của
một bộ phận CMHS và HS về trách nhiệm giáo dục gia đình chưa đúng, còn tâm lý
giao phó hoàn toàn cho nhà trường. Một số thầy cô giáo cũng còn chủ quan, còn nặng
8



về truyền thụ một chiều, chưa đi sâu vào nội dung kiến thức cơ bản và rèn kĩ năng
thiết yếu cho HS, dạy còn hàn lâm, cá biệt còn đọc cho HS ghi chép, sự quan tâm đến
từng đối tượng HS chưa sâu sát, hiệu quả và chất lượng dạy còn thấp.

2.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc củng cố, duy trì nền nếp và nâng cao
chất lượng giáo dục đại trà của nhà trường:
Trên cơ sở phân tích thực trạng của nhà trường, tôi thấy muốn củng cố,
duy trì và phát huy tốt được nền nếp học sinh, từ đó nâng cao chất lượng giáo
dục đại trà của nhà trường thì cần tập trung vào một số vấn đề then chốt như sau:
- Đổi mới công tác quản lý chỉ đạo
- Cần có sự đồng lòng, quyết tâm từ tập thể lãnh đạo đến tập thể sư phạm
nhà trường và các ban ngành đoàn thể
- Xây dựng kế hoạch chuyên môn cụ thể, chi tiết, linh hoạt, phù hợp với
điều kiện thực tế của nhà trường và các hướng dẫn của các cấp các ngành.
- Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đề ra các giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục trong các buổi sinh hoạt chuyên môn theo định kỳ.
- Tạo môi trường thi đua lành mạnh, công bằng trong học sinh và giáo
viên.
- Tạo mọi điều kiện cả về vật chất và tinh thần để tất cả cán bộ giáo viên
trong trường có cơ hội học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực chuyên môn và
khả năng cống hiến hết mình và được khẳng định mình. Khích lệ, động viên
giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với hoạt động giáo dục của nhà trường.
- Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc quản lí
giáo dục học sinh.
3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ NHẰM DUY TRÌ NỀ NẾP HỌC SINH VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẠI TRÀ Ở TRƯỜNG THCS
3.1. Giải pháp nhằm củng cố và duy trì nền nếp học sinh
- Ngoài việc theo dõi kiểm tra thi đua nền nếp của Đoàn đội hàng ngày thì

Ban giám hiệu vẫn phải đi kiểm tra đột xuất nền nếp hàng ngày để ổn định duy
trì nền nếp hàng ngày cho đến khi nền nếp học sinh đã ổn định. Vấn đề bây giờ
là quản lí tốt ngay từ việc đi học đúng giờ, việc học và làm tập ở nhà, việc chấp
hành đúng các yêu cầu của lớp, của nhà trường; đặc biệt các buổi học bồi dưỡng
học thêm các buổi chiều. Hàng ngày vào các buổi bồi dưỡng học thêm tôi yêu
cầu giáo viên dạy thêm phải báo cáo trực tiếp về Ban giám hiệu danh sách và lí
do học sinh nghỉ học sau 5 phút đánh trống vào lớp, sau đó Ban giám hiệu trực
tiếp liên lạc thông báo việc vắng mặt của học sinh với gia đình để kiểm tra xác
minh lí do nghỉ học. Việc làm này được thực hiện khá thường xuyên, được sự
ủng hộ và cảm kích nhiều từ các cha mẹ học sinh vì đã giúp gia đình phát hiện
tật nói dối của học sinh và lôi được con em họ trở lại lớp học từ các quán chơi
điện tử. Do vậy tỷ lệ học sinh tham gia các buổi bồi dưỡng học thêm được duy
trì đạt khá cao, nhiều lớp đạt 100%.
9


- BGH xây dựng quy định về thực hiện nền nếp của HS ngay đầu năm học
trong đó quy định rõ về những điều được làm, không được làm, những điều cấm
theo đúng điều lệ trường THCS và được xây dựng thành văn bản (nội quy, quy
chế…) triển khai trước hội đồng nhà trường, triển khai chi tiết tới GVCN và
thông báo trước phiên họp PH đầu năm để toàn thể phụ huynh nắm được, qua đó
cùng phối hợp để đảm bảo hiệu quả ngay đầu năm học. Qua đây chúng ta cần
làm đều tay, thường xuyên và giao cho các bộ phận từ ông bảo vệ đến GVBM,
GVCN, GV Đoàn Đội, GV trực ban, các ban ngành đoàn thể… cùng vào cuộc
để thực hiện, theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá sau mỗi kì, cả năm
- BGH cần làm tốt việc duy trì và thực hiện nền nếp HS, đặc biệt làm
nghiêm túc, chặt chẽ các đợt thi khảo sát để thấy rõ được kết quả thật của các
em, biết được các em đang ở vị trí và lực học thế nào? Từ đó có kết quả chính
xác để thông báo trước cờ, có sự phân tích, so sánh, xếp thứ hạng giữa các môn,
các lớp, giữa các cá nhân để học sinh toàn trường nắm được. Qua đây đề ra biện

pháp cho phù hợp
- Thông báo thường xuyên tình hình học tập cũng như ý thức đạo đức của
học sinh về gia đình các em. Đặc biệt những học sinh bỏ tiết, bỏ buổi sẽ thông
báo ngay hôm đó bằng gọi điện trực tiếp hoặc hệ thống tin nhắn để gia đình học
sinh nắm được. Từ đó có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường, qua
thông tin từ nhà trường phụ huynh sẽ luôn cảm kích tới sự quan tâm của nhà
trường tới con em họ, phụ huynh biết được con em mình nói đúng hay nói dối
họ để họ đi tìm và dẫn con em mình trở lại trường, trở lại lớp học từ những quán
điện tử hay đua đòi từ những người bạn xấu.
- Làm tốt công tác huy động các lực lượng ngoài nhà trường như: hội phụ
huynh học sinh, hội khuyến học, hội cựu giáo chức, đoàn thanh niên, …hỗ trợ
nhà trường làm tốt công tác giáo dục.
- Quản lý chặt chẽ các hoạt động chuyên môn trong nhà trường như:
+ Theo dõi quản lý chặt chẽ hoạt động giảng dạy của giáo viên, việc học
tập của học sinh trong các buổi học chính khóa.
+ Việc dạy thêm buổi chiều cần làm tốt các khâu như quản lý nền nếp ra
vào lớp, theo dõi sĩ số, kiểm tra chất lượng giảng dạy của giáo viên, ý thức học
của học sinh…
+ Việc học phụ đạo HSY cần làm tốt các khâu như tuyển chọn đúng đối
tượng học sinh, động viên giáo viên giảng dạy nhiệt tình, quản lý tốt về mặt thời
gian, về chất lượng buổi dạy, kiểm tra thường xuyên việc giảng dạy và học tập
của học sinh…
+ Thường xuyên họp chuyên môn để rút kinh nghiệm và bàn các giải
pháp khắc phục những tồn tại.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ, gắn kết giữa: GVCN, GV trực ban, GV
đoàn đội để duy trì và thực hiện tốt các nề nếp của học sinh đồng thời có nhiều
giải pháp xử lý nghiêm những học sinh vi phạm:
10



Với GVCN
+ Quan tâm và rèn HS thực hiện tốt nền nếp ngay đầu năm học như: giờ
truy bài đầu giờ hàng ngày khi GVCN có giờ hôm đó BGH nhà trường yêu cầu
các thầy cô thu xếp công việc đến sớm hơn để lên lớp theo dõi, uốn nắn HS lớp
mình; hoạt động thể dục giữa giờ GVCN ra quan sát, theo dõi HS lớp mình xếp
hàng, tập các động tác. Từ đó là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá
ý thức tu dưỡng đạo đức hàng tuần, hàng tháng
+ Tìm hiểu kỹ tất cả mọi mặt của học sinh lớp mình chủ nhiệm: Hoàn
cảnh gia đình, lực học, sở trường, tâm tư nguyện vọng…của học sinh lớp mình.
+ Phối kết hợp với GVBM, để nắm được tình hình học sinh, thường
xuyên động viên và có những giải pháp sáng tạo giúp học sinh học tốt hơn
Với GVBM
+ Đối với các tiết dạy chính khóa
=> Yêu cầu học sinh trống vào phải vào lớp chuẩn bị sách vở, đồ dùng
học tập để trên bàn ( Tất cả việc cá nhân phải làm trước khi trống vào lớp )
=> Kiểm tra sĩ số, kiểm tra miệng thường xuyên vào đầu tiết học để nắm
bắt được việc học bài ở nhà của học sinh
=> Trong suốt tiết học yêu cầu phải trật tự không làm việc riêng tập trung
lắng nghe thày cô giảng bài và hăng hái phát biểu xây dựng bài và tuyệt đối
không cho HS ra ngoài tự do, trừ trường hợp bất khả kháng.
=> Trong quá trình giảng dạy phải thường xuyên kiểm tra việc tiếp thu
kiến thức, việc ghi chép của học sinh.
=> Điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp với các đối tượng học
sinh trong lớp.
=> Phối hợp tốt với GVCN và các GVBM khác để chất lượng giảng dạy
tốt hơn.
+ Các buổi dạy thêm
=> Yêu cầu học sinh đi học đúng giờ ( xử lý nghiêm những học sinh đi
học muộn )
=> GV dạy bổ sung kiến thức các em chưa nắm chắc ở buổi học chính

khóa.
=> Dạy sát chương trình, trọng tâm kiến thức hệ thống câu hỏi và bài tập
ở mức độ tương đương SGK và SBT sau đó mới dạy nâng cao..
=> Hướng dẫn học sinh cách làm từng dạng bài tập ( từng bước làm từ
tìm hiểu đề, cách làm, kỹ năng làm bài, trình bầy, kiểm tra...)
+ Đối với công tác phụ đạo học sinh yếu
=> Động viên các em có tinh thần và thái độ học tập vươn lên ( phải “dỗ”
các em vì những em này thường mặc cảm vì mình học yếu )
Với GV Đoàn Đội
+ Xây dựng quy chế chấm nền nếp khoa học, hợp lí và hoạt động chấm
theo dõi của đội cờ cần chính xác, chi tiết, cụ thể (ghi rõ lỗi của HS vi phạm,
11


điểm trừ cần ghi rõ lí do); nhập điểm trên web nhà trường cần chính xác, khách
quan, nhập cả lỗi vi phạm của HS trong sổ đầu bài và cờ đỏ
+ Đảm bảo đúng thời gian trực các buổi học chính để làm công tác đội và
trong các buổi trực đội các GV phải thường xuyên đi kiểm tra để xử lý nghiêm
những học sinh vi phạm nội quy.
+ Tiết chào cờ phải được chuẩn bị kỹ trước với nội dung cô đọng, xúc tích
và tuyên dưỡng những cá nhân HS có thành tích học tập cũng như ý thức tốt
trước cờ để khích lệ HS khác. Bên cạnh đó phải phê bình và cho đứng trước cờ
những học sinh vi phạm trong tuần là răn đe những HS khác.
+ Tổ chức nhiều sân chơi bổ ích cho học sinh sau những ngày học căng
thẳng.
Với GV trực ban
+ Luôn đảm bảo đi đúng giờ và đánh trống theo đúng lịch và thời gian
quy định. Từ đó thuận lợi cho việc theo dõi việc chấp hành nội quy của nhà
trường như việc đội mũ bảo hiểm, việc thực hiền các nền nếp khác
+ Ngay trong giờ truy bài 15 phút đầu giờ việc duy trì, củng cố và ổn định

nền nếp là rất quan trọng. Do vậy GV trực ban sau khi đã đánh trống cho HS vào
lớp để truy bài. GV trực ban đi kiểm tra kĩ các lớp học về ý thức ngồi ôn lại bài
của học sinh, kiểm tra kĩ về sĩ số lớp xem em nào nghỉ học có phép hay không
có phép, trường hợp có phép cũng cần kiểm tra kĩ xem có hợp lệ không? Kiểm
tra về giờ giấc đi học của học sinh, HS nào đi muộn cần nhắc nhở ngay và ghi
lại tên; kiểm tra và đôn đốc nhắc nhở HS các khối lớp về việc vệ sinh lớp học,
lau bảng viết GV; kiểm tra về cơ sở vật chất xem bàn ghế đã kê ngay ngắn chưa
hoặc kê đã đúng quy định, đúng hàng lối chưa? Từ đó lớp học luôn khang trang
sạch đẹp, học sinh cũng tự tin và yên tâm hơn trong cả buổi học đó, thầy cô vào
lớp học cũng thấy thoải mái hơn và sẽ dạy bằng cả trái tim của mình để truyền
lửa, kiến thức cho học sinh
+ Thời gian còn lại của buổi học ngày hôm đó GV trực ban vẫn luôn theo
dõi sát sao việc thực hiện mọi hoạt động nền nếp của HS. Đặc biệt giờ thể dục
giữa giờ và kết thúc tiết học cuối cùng.
Sau khi đi kiểm tra, giám sát, nhắc nhở, rút kinh nghiệm cho HS các khối
lớp như vậy GV trực ban cập nhật đầy đủ thông tin vào sổ trực ban được niêm
yết công khai trên bảng tin trong văn phòng nhà trường để ai cũng biết. Đặc biệt
BGH, GVCN, GV đoàn đội biết để có đầy đủ thông tin trong tiết sinh hoạt lớp
và tiết chào cờ đầu tuần có căn cử để động viên, tuyên dương với những em làm
tốt; phê bình nhắc nhở, cảnh cáo với những em thường xuyên vi phạm
BẢNG THEO DÕI HỌC SINH VI PHẠM NỀ NẾP – TUẦN….NĂM HỌC….
Thứ/
ngày
……...
……..

Buổi

Bỏ học chính, học thêm,
phụ đạo yếu kém


Đi học muộn

Sáng
Chiều

12

Đánh nhau

Không đội
mũ BH

Bỏ lao
động

Vi phạm
khác

GV



3.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đại trà
3.2.1/ Xây dựng khối đoàn kết nội bộ
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, cũng như củng cố lại niềm tin từ
Đảng, chính quyền địa phương và phụ huynh, nhân dân trong toàn xã việc xây
dựng mối đoàn kết nội bộ là vấn đề có tính mấu chốt tạo nên sức mạnh của tập
thể góp phần to lớn vào sự thắng lợi của nhiệm vụ năm học. Bởi có đoàn kết
mới có thành công, như lời Bác đã dạy. Để xây dựng được mối đoàn kết nội bộ

theo tôi chúng ta cần có những việc làm như sau:
- Xây dựng khối đội ngũ đoàn kết thống nhất nội bộ từ trong chi bộ đảng,
từ Ban giám hiệu đến tập thể cán bộ giáo viên nhân viên trong nhà trường.
- Có sự đồng lòng, quyết tâm trên dưới như một, sự thấu hiểu và chia sẻ
của tập thể sư phạm nhà trường; nhà trường rất cần sự tham mưu, đóng góp ý
kiến chân thành, chân tình của thầy cô có nhiều kinh nghiệm, thầy cô có tuổi cho
phong trào chung của nhà trường. Đó chính là sự chia sẻ, giúp đỡ của những
người anh, người chị lớn trong gia đình…để những thành viên trong hội đồng
Sư phạm nhà trường luôn coi trường là một mái ấm, một ngôi nhà chung, ai ai
cũng muốn đến trường mỗi ngày và mỗi ngày đến trường là một ngày vui, vì đến
trường được gặp đồng nghiệp, được gặp người anh, chị, em trong gia đình và
được chia sẻ trong công việc, trong cuộc sống
- Mỗi CBGV phải có lập trường tư tưởng vững vàng, phải xác định cho
bản thân mình, phấn đấu là vì một mục đích chân chính – Đó là sự phấn đấu
không phải để đạt được danh vọng mà phấn đấu vì hiệu quả của lao động có như
vậy thì thi đua trong lao động sẽ không trở thành ganh đua. Khi đã có chung một
lí tưởng thì mọi người sẽ chung sức, chung lòng và thân ái với nhau hơn.
- Đoàn kết là sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cùng hành động vì một mục
đích chung, dìu dắt nhau cùng tiến bộ. Nhưng đoàn kết không có nghĩa là im
lặng, làm ngơ, là bao che cho những khuyết điểm của đồng chí đồng nghiệp
mình mà mỗi cá nhân luôn nêu cao tinh thần phê và tự phê. Dám nhận ra những
thiếu sót của bản thân, của đồng chí đồng nghiệp và thẳng thắn góp ý xây dựng.
Phê và tự phê để loại bỏ dần những yếu điểm, hạn chế, giúp nhau cùng tiến bộ.
Tuy nhiên việc góp ý kiến phải chân thành, đúng lúc, đúng nơi để đồng chí đồng
nghiệp mình lắng nghe và khắc phục.
- Nếu mỗi người trong mỗi chúng ta đều biết đặt lợi ích tập thể lên trên lợi
ích cá nhân, biết xem công việc của đồng nghiệp cũng như công việc của chính
mình, biết nhìn nhận cái đúng cái sai và biết lắng nghe để tự sửa chữa mình, biết
góp ý chân tình cho đồng nghiệp. Đó là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết nội bộ
ngày càng vững chắc hơn.

- BGH, BCH Công đoàn có vai trò rất lớn trong việc xây dựng mối đoàn
kết nội bộ. Nó được thể hiện ở mối quan hệ giữa BGH, BCH Công Đoàn và đội
ngũ giáo viên, nhân viên. Đó là sự gần gũi, cảm thông, là sự góp ý chân thành,
cởi mở, không mang tính áp đặt trên - dưới. Các đ/c làm công tác quản lí cần
biết nắm bắt tâm tư nguyện vọng của CBGV trong trường. Khi phân công công
13


việc hay giải quyết những thắc mắc không để gây ức chế đối với giáo viên. Sự
thoải mái trong tư tưởng sẽ khiến con người ta nhiệt tình và yêu mến công việc
hơn.
- Một vấn đề hết sức quan trọng trong việc xây dựng mối đoàn kết nội bộ
là phát huy tinh thần dân chủ trong trường học, sự thải mái về tư tưởng, về tinh
thần, về động lực. Ngoài ra tạo sự công bằng đối với mỗi cá nhân trong tập thể
và sự minh bạch về tài chính.
3.2.2. Đổi mới hoạt động công tác quản lí
BGH cùng đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học đã
được xây dựng, trên hết BGH cần:
- Quyết đoán mọi công việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trước tập thể và cấp trên. Đánh giá đúng thực trạng chất lượng và các điều kiện
đảm bảo chất lượng của nhà trường, phân tích tìm ra nguyên nhân của các điểm
mạnh và những hạn chế để đề ra cách giải quyết hợp lí nhất nhằm đạt mục tiêu
trong từng giai đoạn cụ thể, biết chấp nhận "hi sinh" để đạt được cái lớn hơn.
Biết lựa chọn và ưu tiên thực hiện các giải pháp có trọng tâm để đạt được mục
tiêu chính. Xây dựng chiến lược, sách lược và mục tiêu phấn đấu của nhà trường
phù hợp và khả thi trong trong điều kiện hiện tại, có tầm nhìn cho tương lai.
- Xây dựng một ngôi trường thân thiện mà ở đó mọi người biết thương
yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Để mỗi cán bộ giáo viên cảm được sự nhân ái, thân
thiện, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Từ đó luôn yên tâm công tác và
luôn coi ngôi trường là mái nhà thứ hai, mà mỗi ngày đến trường là một ngày

vui vì khi đến trường được chia sẻ những tâm tư, tình cảm riêng tư và giúp đỡ
nhau, chia sẻ những kinh nghiệm về giảng dạy, về công tác chủ nhiệm, về công
tác quản lí giáo dục học sinh…
- Phân công giáo viên đúng chuyên môn nghiệp vụ.
- Minh bạch thu chi tài chính của nhà trường.
- Quy định chức năng và quyền hạn của mỗi thành viên trong nhà trường.
- Không độc đoán, chuyên quyền, không trù dập, biết lắng nghe và tôn
trọng những ý kiến đóng góp của mọi người. Làm sao giáo viên xem trường như
là "ngôi nhà của chung" của mình thì họ mới an tâm công tác lâu dài. Cố gắng
tìm cách cải thiện đời sống tinh thần và vật chất cho giáo viên, nhân viên.
- Phổ biến, quán triệt đầy đủ các chủ trương, chính sách, giải pháp giáo
dục, các văn bản pháp quy, hướng dẫn của các cấp các ngành để toàn thể cán bộ
giáo viên thấy rõ thực trạng để từ đó đề ra các giải pháp cụ thể cho hoạt động
giáo dục của mình.
- Xây dựng kế hoạch năm học cụ thể, linh hoạt, thông báo cho giáo viên
biết được nhiệm vụ và yêu cầu của năm học này là gì.
- Phân tích cho giáo viên nhận thức rõ thực trạng của nhà trường các mặt
mạnh, mặt yếu những tồn tại cần khắc phục, để tạo sự đồng thuận từ tập thể, từ
đó thống nhất đưa ra các giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm của nhà trường,
14


phù hợp với đối tượng học sinh, BGH và giáo viên cùng bàn giải pháp để tháo
gỡ những khó khăn.
3.2.3/ Xây dựng quy chế thi đua – khen thưởng phù hợp với đặc điểm tình
hình của nhà trường. Từ đó tạo động lực, khí thế, tinh thần phấn đấu, sự
cống hiến, làm việc và dạy học bằng cả trái tim. Đây là một trong những
yếu tố quan trọng trong nâng cao chất lượng
- Xây dựng quy chế nội bộ về việc đánh giá, xếp loại thi đua trong đơn vị
để từ đó mỗi thành viên trong nhà trường biết rõ từng tiêu chí. Đặc biệt trong

quy chế có những điểm thưởng cho những người làm tốt, hiệu quả công việc
cao; bên cạnh đó cũng có những điểm trừ cho những người vi phạm như đi
chậm, muộn, bỏ, làm việc hiệu quả công tác không cao. Qua quy chế này mỗi
thành viên đều luôn cố gắng để đạt được những điểm thi đua cao nhất.
- Xây dựng quy chế khen thưởng và chi tiêu nội bộ: minh bạch, rõ ràng.
Từ đó kích thích được tinh thần làm việc nhiệt tình của anh chị em cán bộ giáo
viên, nhân viên nhà trường
3.2.4. Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá
- Đánh giá chất lượng giáo dục gồm nhiều vấn đề, trong đó hai vấn đề cơ
bản là đánh giá chất lượng dạy của thầy và đánh giá chất lượng học của trò.
Đánh giá thực chất sẽ tạo được động lực nâng cao chất lượng dạy và học.
- Đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên: quan điểm đánh giá là hiệu
quả công việc - đó là xếp hạng chất lượng học sinh lớp mình phụ trách trên sân
chung là các đợt kiểm tra học kì và khảo sát chất lượng của toàn huyện, đánh giá
sự tiến bộ của cả lớp và của mỗi học sinh đợt sau so với đợt trước; chứ không
coi trọng kết quả thi giáo viên giỏi hay kết quả dự giờ. Do vậy giáo viên phải tập
trung bằng mọi cách để có được chất lượng thật tốt nhất. Qua kết quả của các
đợt thi khảo sát chung toàn huyện và kiểm tra chung toàn trường. BGH lập bảng
kết quả để so sánh, phân tích, đối chiếu giữa các lớp, các khối, giữa các cá nhân
HS và điều quan trọng nhất là chất lượng giảng dạy của từng thầy cô giáo.
- Tổ chức kiểm tra đánh giá, khảo sát chất lượng định kì học sinh: thực
hiện theo đúng hướng dẫn của Phòng GD&ĐT là coi chấm chéo và nghiêm túc;
đảm bảo đánh giá đúng thực chất chất lượng học sinh trường mình đang ở mức
nào, không vì thành tích xếp hạng trước mắt để rồi lớp cuối cấp ngã ngửa vì chất
lượng các lớp dưới là ảo. Kết quả khảo sát được thông báo kịp thời về gia đình
và đăng trên trang web nhà trường và gửi tin nhắn đến cha mẹ học sinh nắm
được. Nhờ làm tốt việc tổ chức coi chấm nghiêm túc, thông báo kịp thời đã có
tác dụng thiết thực. Từ đó giáo viên phải biết dạy như thế nào, học sinh phải cố
gắng học ra sao, bố mẹ cần quan tâm động viên con như thế nào. Năm học trước
phòng giáo dục tổ chức khảo sát chất lượng qua 05 lần khảo sát với 03 bộ môn

(Toán, Ngữ Văn, Tiếng Anh) thì nhà trường tổ chức kiểm tra chung toàn trường
với các bài kiểm tra từ 45’ còn lại của 03 môn Toán – Văn – Anh; ngoài ra kỳ 2
tiến hành kiểm tra chung với hai môn nữa là Địa Lí và Sinh học với tinh thần
15


cũng nghiêm túc. Đề khảo sát được nhà trường thuê giáo viên trường khác, thậm
chí là huyện khác ra đề để đánh giá chất lượng khách quan hơn.
3.2.5. Tăng cường phụ đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh giỏi cấp
trường, cấp huyện, điền kinh
3.2.5.1/ Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp
Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
Cùng với nâng cao nhận thức về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cho cán
bộ, giáo viên, việc xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ thể, thiết thực với từng bước đi
thích hợp là vô cùng quan trọng. Kế hoạch xây dựng phải thể hiện rõ mục tiêu,
thời gian, chương trình, cơ sở vật chất, thiết bị đồ dùng, nội dung bồi dưỡng, các
lực lượng tham gia bồi dưỡng, chỉ tiêu, số lượng của đội tuyển. Quản lý chương
trình, kế hoạch giảng dạy tức là đưa ra các biện pháp quản lý, yêu cầu giáo viên
căn cứ vào kế hoạch đã đề ra để thực hiện nghiêm túc. Ban giám hiệu (Phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn) dự thảo kế hoạch hoạt động bồi dưỡng học sinh
giỏi thông qua hội đồng nhà trường, trên cơ sở đó các giáo viên dạy đội tuyển
xây dựng kế hoạch cho từng môn học và hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch
cho bản thân giúp các em có hướng học tập tốt hơn.
Đầu tư thỏa đáng
Để tăng hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi, nhà trường cần đầu tư thoả
đáng cho việc mua sắm tài liệu; đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, đồ dùng thiết
bị dạy học cốt yếu, cần thiết hỗ trợ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Đặc biệt
kinh phí chi trả cho mỗi buồi bồi dưỡng
Tìm kiếm đội ngũ bồi dưỡng học sinh giỏi
Tuyển chọn giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi phải là giáo viên có phẩm

chất chính trị, đạo đức tốt; có trình độ năng lực chuyên môn và sư phạm giỏi.
Đồng thời, phải có trách nhiệm cao, nhiệt tình say mê với công việc, có kiến
thức và hiểu biết sâu rộng. Có kinh nghiệm và phương pháp dạy phù hợp bộ
môn và là người biết tạo cho học sinh động cơ thái độ học tập đúng đắn, tạo
niềm say mê yêu thích và niềm hứng thú trong học tập cho học sinh. Bồi dưỡng
giáo viên theo các nội dung: Nhận thức về tư tưởng chính trị, phẩm chất nghề
nghiệp; năng lực chuyên môn; năng lực sư phạm; kinh nghiệm thực tế và bồi
dưỡng các kiến thức hỗ trợ. Với những nội dung trên, ngay từ đầu năm học căn
cứ vào điều kiện thực tế đội ngũ và năng lực tay nghề của mỗi giáo viên, Ban
giám hiệu nhà trường nghiên cứu phân công giáo viên đã được công nhận là
giáo viên giỏi các cấp, có chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề mến trẻ,
tâm huyết với các công việc dạy bồi dưỡng các đội tuyển học sinh giỏi. Tổ chức
các chuyên đề phục vụ cho nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng bồi dưỡng
học sinh giỏi giúp giáo viên học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Tổ chức
các buổi trao đổi, tọa đàm nêu kinh nghiệm bồi đưỡng học sinh giỏi để đạt được
kết quả cao để giáo viên khác học tập. Tạo điều kiện cho giáo viên đi học nâng
chuẩn, nâng cao năng lực chuyên môn phục vụ có hiệu quả cho công tác giảng
dạy đặc biệt là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
16


Phát hiện và tuyển chọn học sinh giỏi
Việc phát hiện học sinh giỏi của nhà trường được thông qua các tiết dạy,
dựa trên nền kiến thức học sinh đại trà. Giáo viên theo dõi sự nhạy bén của học
sinh đối với từng môn học thông qua những câu trả lời trên lớp, quan tâm đến
những học sinh có nhận thức tư duy thể hiện tính linh hoạt, sáng tạo mềm dẻo
khi giải quyết nhiệm vụ học tập. Ngoài ra, việc phát hiện học sinh giỏi còn được
kết hợp với các bài kiểm tra khảo sát chất lượng, với việc phỏng vấn để tìm ra
những học sinh thông minh, trí tuệ, có khả năng sáng tạo, tinh thần say mê ham
học. Để tuyển chọn đúng đối tượng học sinh giỏi, Ban giám hiệu chỉ đạo giáo

viên dạy các đội tuyển xây dựng các căn cứ cơ bản để tuyển chọn học sinh giỏi
và BGH là trọng tài giúp cho thầy cô dạy đội tuyển chọn được những HS trong
đội tuyển mình một cách khách quan, công bằng nhất và cả 08 đội tuyển đều có
cơ hội ngàng nhau, cụ thể: Ưu tiên cho đội tuyển Toán – Văn – Anh được chọn
01 HS trong đội mình trước vì đã được cho HS ôn năm trước; sau đó cho các đội
còn lại bốc phiếu theo thứ tự lần 01, khi chọn xong lần 01 quay lại chọn lần hai
nếu đội nào bốc phiếu ở vị trí cuối cùng ở lần một sẽ được bốc đầu tiên ở lần
hai, cứ như vậy cho đến khi chọn đủ số lượng HS ở đội mình
Trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển đi thi học sinh giỏi vòng huyện,
trường tổ chức thi vòng xét duyệt (ít nhất 3 lần) để chọn học sinh có đủ điều
kiện đi thi đạt kết quả cao.
Danh sách học sinh trong các đội tuyển được nhà trường, tổ chuyên môn
quan tâm để có hướng động viên, kiểm tra đôn đốc, nhắc nhở. Có thể bổ sung
vào danh sách này những học sinh giỏi của các lớp khác mà qua quá trình dạy
học phát hiện thêm. Biện pháp bồi dưỡng, phát triển học sinh giỏi
Để học sinh được chuẩn bị tốt nhất khi tham gia các kì thi học sinh giỏi,
nhà trường phải đảm bảo cho các em được học đầy đủ những kiến thức cơ bản
của chương trình giáo dục theo chuẩn kiến thức kỹ năng và kiến thức nâng cao.
Những công việc cần làm là: Thành lập ban chỉ đạo xây dựng chương
trình bao gồm Ban giám hiệu, các tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn
Thành lập các nhóm biên soạn tài liệu giảng dạy các môn Toán học, Vật
lý, Hóa học, Sinh học, Tin học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý và Tiếng Anh gồm tổ
trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, giáo viên cốt cán. Tiến hành thẩm định trong
tổ chuyên môn.
Việc thực hiện bồi dưỡng các đội tuyển được tiến hành thường xuyên ở
các khối lớp, được mang tính kế thừa trong cả khóa học. Các đội tuyển thường
được tổ chức bồi dưỡng ngay sau khi chọn xong đội tuyển các môn (từ tuần 3
hàng năm).
Về phía giáo viên dạy bồi dưỡng, soạn giáo án theo các phương thức đã
được thống nhất và ký hàng tuần như giáo án dạy chính khóa.

Lưu ý các biện pháp khích lệ
Để giáo viên bồi dưỡng các đội tuyển học sinh giỏi của nhà trường nhận
thức sâu sắc hơn trọng trách của mình, đồng thời phấn khởi, say mê hơn với
17


công việc được giao, nhà trường cần luôn đổi mới, cải tiến chế độ, chính sách thi
đua, khen thưởng kịp thời, công bằng, khách quan, dựa trên những tiêu chí cụ
thể, phù hợp.
Ví dụ, khuyến khích động viên giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi như trừ
giờ, đánh giá thi đua, thưởng tiền những đội đạt giải cao theo các mức khác
nhau. Với học sinh, nhà trường gặp mặt động viên, tuyên dương dưới cờ và
thưởng bằng hiện vật và bằng tiền như quy định.
3.2.5.2/ Tăng cường phụ đạo học sinh yếu
Sau khi đã ổn định nền nếp học sinh ngay từ đầu năm học; việc quan
trọng tiếp theo đó là làm thế nào để chất lượng đại trà được đảm bảo. Trong đó
việc quan tâm tới đối tượng học sinh yếu là nhiệm vụ rất quan trọng; bởi không
chú ý và không quan tâm tới đối tượng này thì chất lượng đại trà của nhà trường
khó lòng có thể có kết quả cao.
- Lựa chọn HS, thành lập lớp phụ đạo:
Căn cứ vào kết quả của năm học trước và kết quả khảo sát đầu năm, giáo
viên lập danh sách các học sinh yếu để thành lập mỗi khối 1 lớp học phụ đạo 2
môn Ngữ văn và Toán gồm các em có điểm môn Ngữ văn và Toán dưới 5,0 nộp
về Ban giám hiệu nhà trường, mỗi lớp khoảng 10 em. Danh sách này được phổ
biến đến giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn cùng nắm được. Danh sách
này được điều chỉnh thêm bớt vào thời điểm đầu học kì 2 sau khi có kết quả của
học kì 1.
- Phân công chuyên môn, giao nhiệm vụ cho GV, tổ chức dạy phụ đạo:
+ Vì hầu hết giáo viên chưa đủ định mức giờ dạy quy định (tổng số giờ
của nhà trường còn thiếu gần 50 tiết), để khai thác triệt để hơn nhà trường bố trí

phân công giáo viên dạy phụ đạo môn Ngữ văn và Toán theo định mức cố định
là 2 tiết/tuần (01 tiết Toán, 01 tiết Ngữ Văn). Lịch dạy phụ đạo được xây dựng
và gắn cố định vào TKB học chính khóa
+ Lịch học này được bố trí cố định trên thời khóa biểu ngày từ đầu năm
và duy trì trong suốt năm học. Nếu cuối năm giáo viên nào vượt giờ mới được
thanh toán.
- Theo dõi học sinh:
+ Việc theo dõi sĩ số lớp phụ đạo này cũng được thực hiện kiểm diện
thường xuyên hàng tuần, Ban giám hiệu kiểm tra và điện thoại trực tiếp về gia
đình kịp thời vào đầu buổi học để thông báo và kiểm tra xác minh lí do vắng mặt
của học sinh.
+ Việc theo dõi sự tiến bộ của học sinh do giáo viên bộ môn và giáo viên
chủ nhiệm cùng đảm nhiệm ở 2 tiêu chí là nhận thức của các em có tiến bộ
không và điểm số của các em thay đổi tăng - giảm sau mỗi lần khảo sát chất
lượng đề chung toàn trường hay toàn huyện. Qua đó giáo viên sẽ biết phải dạy
các em cái gì và dạy như thế nào để điểm khảo sát lần sau cao hơn lần trước.

18


3.2.6. Sử dụng đội ngũ và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên
- Nhà trường thực hiện việc phân công chuyên môn, xếp thời khóa biểu
theo phương án tối ưu nhất, vì mục tiêu chất lượng, có lợi nhất cho học sinh,
đảm bảo theo nguyên tắc công bằng, khách quan, có quan tâm đến năng lực sở
trường và điều kiện cụ thể của từng người để tạo điều kiện cho mỗi người đều có
điều kiện phát huy hết khả năng của mình, tạo lên sức mạnh tổng hợp của tập thể
nhà trường. Với quan điểm quan tâm đầu tư giáo viên tốt cho lớp cuối cấp và
đầu cấp.
- Ở đây tôi chỉ đề cập đến việc sử dụng đội ngũ giáo viên Ngữ văn, Toán;
Tiếng Anh không bố trí giáo viên Ngữ văn, Toán dạy cả khối mà dạy song song

để tạo sự thi đua tích cực giữa 2 giáo viên trong khối, ai cũng muốn lớp mình có
chất lượng cao, không kém lớp bạn.
- Việc xây dựng kế hoạch dạy tự chọn cũng đã được thực hiện đồng thời
với giải pháp tạm bỏ phòng Tin học, nhà trường chuyển học tự chọn Tin học
sang học theo chủ đề bám sát môn Toán, Ngữ văn.
- Tôi chỉ đề cập đến việc bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên. Có nhiều biện pháp để phát triển đội ngũ giáo viên. Với đặc điểm tình
hình riêng của nhà trường và vận dụng các nguyên tắc bồi dưỡng phát triển, cụ
thể:
3.2.6.1. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và lòng nhân ái sư phạm
- Trong quá trình bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, phẩm chất đạo
đức của người thầy phải được coi trọng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào người thầy
cũng phải xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Vì vậy lãnh đạo
nhà trường khi xây dựng phong cách người thầy phải chú ý tới hai mặt. Đó là
thái độ đối với công việc và cách ứng xử trước những vấn đề, tình huống trong
quan hệ với cấp trên, với đồng nghiệp, với học sinh hoặc tình huống của thế thái
nhân tình. Người thầy muốn làm tốt công tác giáo dục phải có tác phong mẫu
mực, tôn trọng và công bằng trong đối xử với học sinh, phải xây dựng uy tín
trước học sinh, nhân dân và xã hội. Dù trong hoàn cảnh nào cũng không làm
hoen ố danh dự người thầy. Phải xây dựng thói quen làm việc có kỷ cương, nền
nếp, lương tâm, trách nhiệm. Thông qua bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho thầy
cô giáo thêm tự hào, gắn bó với nghề, với trường để tạo động lực phát triển nhà
trường.
- Lòng nhân ái sư phạm đội ngũ giáo viên là nội dung quan trọng trong
công tác bồi dưỡng chất lượng giáo viên. Lòng nhân ái - tình yêu thương con
người là cái gốc của đạo lý làm người. Với giáo viên thì tình yêu thương ấy là
cốt lõi, là cội nguồn sâu xa của lý tưởng nhân văn, là đặc trưng của giáo dục.
Tình thương yêu học sinh là điểm xuất phát của mọi sự sáng tạo sư phạm và làm
cho giáo viên có trách nhiệm cao với công việc. Tình yêu thương học sinh thể
hiện trong các hoạt động dạy học và giáo dục, đó cũng là điểm xuất phát của

tình yêu nghề nghiệp. Ý thức, thái độ và tình yêu nghề nghiệp thể hiện ở việc
không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức để trở thành tấm gương sáng, gây
19


niềm tin đạo đức trước học sinh và nhân dân. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đặt yêu cầu về đạo đức của người thầy lên hàng đầu là "Dĩ nhân như giáo, dĩ
ngôn như giáo". Phải làm cho mọi giáo viên thấm nhuần khẩu hiệu "Tất cả vì
học sinh thân yêu".
3.2.6.2. Bồi dưỡng năng lực sư phạm
- Bồi dưỡng năng lực sư phạm là một yêu cầu cơ bản, quan trọng trong
công tác bồi dưỡng giáo viên. Năng lực sư phạm bao gồm năng lực tổ chức quá
trình dạy học và tổ chức quá trình giáo dục. Tri thức khoa học sâu rộng là nền
tảng của năng lực sư phạm. Người giáo viên phải có tri thức khoa học sâu rộng,
vững chắc để từ đó phát triển năng lực sư phạm. Do vậy cần tập trung bồi dưỡng
những nội dung cơ bản sau:
+ Thường xuyên cung cấp cho giáo viên những điều chỉnh, hoặc đổi mới
trong nội dung hoặc phương pháp giáo dục và dạy học của từng mặt giáo dục,
của từng môn học trong chương trình. (Ví dụ: Thực hiện tích hợp, lồng ghép
giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, giáo dục môi trường, giáo dục pháp
luật…). Hoặc đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Bồi dưỡng cho giáo viên năng lực thiết kế giáo án môn học, năng lực ra
đề thi, chấm thi, trả bài.
+ Bồi dưỡng cho giáo viên năng lực ứng xử các tình huống trong giảng
dạy và giáo dục.
+ Đối với giáo viên chủ nhiệm cần bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt
động tập thể, năng lực thuyết phục, cảm hoá học sinh.
+ Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng quản lý toàn diện
các hoạt động giáo dục trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm là người cố vấn trong tập

thể học sinh, là người trực tiếp giáo dục học sinh, trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra,
đánh giá công bằng, khách quan quá trình rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng của học
sinh trong lớp, là người trực tiếp làm việc với cha mẹ học sinh. Do đó giáo viên
chủ nhiệm cần rèn luyện kỹ năng vận dụng các tri thức khoa học giáo dục vào
thực tiễn sinh động và đa dạng trong quá trình giao tiếp, giáo dục học sinh của
mình.
3.2.6.3. Bồi dưỡng năng lực chuyên môn
*) Bồi dưỡng thông qua hoạt động của tổ nhóm chuyên môn:
Đây là một hoạt động mang tính thường xuyên, một hoạt động chính để
nâng cao hiệu quả giảng dạy. Cụ thể trong các hoạt động này các nhóm tổ
chuyên môn, tổ chức giải đề thi học sinh giỏi huyện, học sinh giỏi tỉnh của
những năm học trước; trao đổi, thảo luận những vướng mắc trong phương pháp
dạy, những vấn đề khó trong từng bài dạy để mọi giáo viên tham gia và cùng
thống nhất phương cách hay nhất, tối ưu nhất. Dự giờ thăm lớp, rút kinh
nghiệm, tổ chức hội giảng nhân dịp các ngày lễ lớn như: 20/11; 22/12; 03/02;
26/3; ... Sau mỗi tiết giảng nhóm, tổ họp đóng góp ý kiến rút kinh nghiệm, chỉ ra
những hạn chế, thiếu sót trong cách dạy, cách truyền thụ kiến thức, tác phong,
20


trình bày bảng và đánh giá, xếp loại tiết dạy theo các tiêu chuẩn đã được quy
định của mới của Sở GD&ĐT. Thông qua các hoạt động này, trình độ chuyên
môn của giáo viên được điều chỉnh, bổ sung và được nâng lên rõ rệt.
*) Tự bồi dưỡng:
Hàng năm nhà trường đã trang bị cho mỗi giáo viên các loại sổ: Sổ điểm
cá nhân, sổ dự giờ, sổ ghi kế hoạch giảng dạy, ... Đồng thời mua sắm thêm tài
liệu, sách tham khảo, khuyến khích giáo viên mua thêm sách tham khảo quý,
hiếm cho nhà trường; nhà trường sẽ thanh toán kinh phí; giáo viên tự mua sách
tham khảo, báo chí; ghi chép những kiến thức mình thấy có ích và cần thiết cho
bản thân, các bài giảng, đề thi học sinh giỏi, ...

*) Hình thức bồi dưỡng tập trung:
+ Tạo điều kiện cho giáo viên đi dự các lớp tập huấn chuyên môn, học
chuyên đề do Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức. Sau đó tạp huấn tại trường cho tất cả
cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường về các điểm trọng tâm, điểm mới, tập
huấn cả sử dụng và khai thác web nhà trước hiệu quả nhất, tập huấn về phổ cập
giáo dục – xóa mù chữ rồi về sử dụng công nghệ thông tin theo thông tư 01…
+ Tạo mọi điều kiện về thời gian, về chế độ chính sách cho giáo viên có
trình độ cao đẳng đi học tiếp để đạt trình độ đào tạo trên chuẩn. Đồng thời chọn,
cử, khuyến khích, tạo mọi điều kiện về thời gian, đảm bảo chế độ chính sách
chonhững giáo viên có năng lực đi học cao học. Ngoài ra nhà trường rất coi
trọng xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán các môn cho đi học tập, rút kinh
nghiệm ở các trường bạn, đi thi giáo viên giỏi huyện, tỉnh. Tham gia bồi dưỡng
học sinh giỏi.
Với cách làm này, trong những năm qua một số giáo viên mới ra trường
đã thực sự trưởng thành, tay nghề được nâng lên, chuyên môn vững vàng, được
học sinh và tập thể giáo viên tín nhiệm, tin tưởng.
*) Tổ chức cho giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm:
Nội dung đề tài được cán bộ giáo viên đăng ký ngay từ đầu năm học, với
các chủ đề như: Về chuyên môn giảng dạy, về phát hiện và bồi dưỡng học sinh
giỏi, về các khía cạnh của giáo dục như về phương pháp giáo dục đạo đức, về
giải bài tập, về xây dựng tập thể lớp, về phương pháp giảng dạy,... Cuối năm Hội
đồng Khoa học của nhà trường sẽ tổ chức nghiệm thu, xếp loại sáng kiến kinh
nghiệm, chọn ra những sáng kiến xếp loại Tốt gửi về Phòng GD&ĐT để Phòng
xem xét, nghiệm thu và công nhận khen thưởng. Ngoài ra nhà trường còn tạo
điều kiện về kinh phí cho cán bộ giáo viên đi học vi tính – tin học trong hè. Nhờ
những biện pháp bồi dưỡng trên đây mà trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, nhân cách của người thầy được nâng lên một bước rõ rệt.
3.2.6.4. Bồi dưỡng năng lực công tác xã hội hoá giáo dục
- Đây là một trong các nhóm giải pháp để phát triển giáo dục của Đảng và
Nhà nước trong thời kỳ CNH, HĐH, thực hiện phương châm "Nhà nước và

nhân dân cùng làm". Chính nhờ chủ trương này mà nguồn lực đầu tư cho giáo
21


dục tăng lên và làm cho bộ mặt giáo dục nước nhà khởi sắc, tạo ra một phong
trào học tập rầm rộ và cả xã hội làm giáo dục.
- Trong những năm qua nhờ công tác này làm tốt góp phần cho nhà
trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tạo nên bước nhảy vọt về chất lượng. Do
đó cần phải tiếp tục bồi dưỡng cho giáo viên năng lực làm công tác xã hội hoá
giáo dục.
- Phải làm cho giáo viên nắm được nội dung, yêu cầu của xã hội hoá giáo
dục là "khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát
triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học
thường xuyên học suốt đời; tiến tới một xã hội học tập".
- Phải lập chương trình kế hoạch và tổ chức, chỉ đạo công tác này một
cách nghiêm túc, khoa học để giáo viên có cơ sở thực hiện. Giáo viên cũng phải
tự mình học tập, tự mình tạo mối liên hệ nhà trường - gia đình - xã hội trong
giáo dục học sinh. Phải phát huy vai trò người thầy trong việc phát triển giáo
dục.
3.2.6.5. Bồi dưỡng kiến thức khoa học bổ trợ
- Theo chủ trương và quy định chung của Bộ GD&ĐT, mỗi hạng giáo
viên cần đảm bảo về trình độ Ngoại Ngữ theo trình độ 06 mức theo tham chiếu
chung cho người Việt Nam và trình độ Tin học cơ bản đến nâng cao theo quy
định của Bộ Thông tin năm 2014. Đặc biệt khi cán bộ giáo viên, nhân viên đạt
được trình độ Tiếng Anh và Tin học trên sẽ rất thuận lợi trong nâng cao trình độ,
nghiệp vụ sư phạm, bên cạnh đó thuận lợi trong việc tiếp cận những tri thức mới
- Trước xu thế toàn cầu hoá, các nước đang mở rộng hợp tác và hội nhập,
đặc biệt bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và hội nhập
đang phát triển như vũ bão, Ngoại ngữ và tin học đang trở thành thứ vũ khí
không thể thiếu được đối với sự hợp tác và phát triển. Nước ta phong trào học

ngoại ngữ và tin học đang dấy lên rầm rộ.
- Cũng giống như nhiều nhà trường khác trong huyện, đội ngũ giáo viên
nhà trường đang gặp khó khăn về trình độ ngoại ngữ và tin học. Vốn ngoại ngữ
và tin học mà nghèo nàn sẽ là cản trở rất lớn trong việc nâng cao chất lượng
giảng dạy, giáo dục và nhiều hoạt động khác. Do đó phải tổ chức bồi dưỡng
năng lực ngoại ngữ và tin học cho giáo viên. Phải tổ chức cho giáo viên học
ngoại ngữ, đặc biệt là Tiếng Anh để giáo viên biết sử dụng ở mức độ cần thiết.
Phải bồi dưỡng cho giáo viên hiểu được tin học, biết sử dụng máy vi tính và các
thiết bị công nghệ hiện đại để hỗ trợ cho giảng dạy và các hoạt động giáo dục
khác.
3.2.7. Quan tâm, chia sẻ, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của học sinh.
Ban giám hiệu đã chỉ đạo cho mỗi giáo viên, cần đến với các em bằng tất
cả tình yêu nghề, mến trẻ, bằng tất cả tấm lòng vì đàn em thân yêu. Biết quan
tâm, lắng nghe, thấu hiểu học sinh. Từ đó nắm bắt được tâm sinh lí, hoàn cảnh
riêng, khả năng nhận thức, tiếp thu của cá nhân học sinh để có các phương pháp
dạy học tích cực, phù hợp.
22


3.2.7.1/ Đối với học sinh đã bỏ học một thời gian:
- Tiếp nhận học sinh bỏ học có nguyện vọng đi học lại, tổ chức kiểm tra,
phân loại học lực theo từng môn học, giáo viên bộ môn phối hợp với giáo viên
chủ nhiệm kèm cặp giúp đỡ các em theo kịp chương trình, có giải pháp giáo dục
đặc biệt để cảm hoá giáo dục học sinh hư, cá biệt.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp trực tiếp tiếp xúc với phụ huynh học sinh để
nắm chính xác nguyên nhân bỏ học, nguyện vọng của học sinh, phụ huynh từ đó
có cơ sở vận động, đề xuất biện pháp giải quyết giúp đỡ đối với từng trường
hợp.
- Hàng tuần, giáo viên chủ nhiệm phải trực tiếp báo cáo với BGH về tình
hình duy trì sĩ số học sinh, tên học sinh nghỉ học dài ngày, đi học không chuyên

cần để phối hợp với các ban ngành đoàn thể trong và ngoài nhà trường giải
quyết.
3.2.7.2/ Đối với học sinh yếu kém:
Dựa trên cơ sở khảo sát đầu năm, giáo viên bộ môn lập danh sách, xác
định mức độ và nguyên nhân yếu kém từng môn đối với mỗi học sinh từ đó xây
dựng và thực hiện kế hoạch phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu kém vươn lên trong
học tập. Giáo viên bộ môn lớp nào trực tiếp phụ đạo học sinh lớp đó để tiện việc
theo dõi sự tiến bộ của các em.
- Giáo viên chủ nhiệm xây dựng đôi bạn học tập để các em giúp đỡ nhau
trong học tập và rèn luyện, phân công học sinh có học lực khá giúp đỡ những
bạn học yếu, hàng tháng có nhận xét khen thưởng.
- Giáo viên chủ nhiệm tăng cường giám sát chuyên cần học tập của học
sinh, thường xuyên theo dõi sổ đầu bài, sổ gọi tên ghi điểm để nắm tình hình học
tập hoạt động của lớp. Thường xuyên liên hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh
yêu cầu họ phối hợp trong công tác giáo dục .
3.2.7.3/ Đối với học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn:
- Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu chính xác học sinh có hoàn cảnh gia đình
khó khăn, báo về BGH để có giải pháp hỗ trợ thiết thực, hiệu quả, không để tình
trạng học sinh bỏ học vì kinh tế gia đình khó khăn.
- BGH nhà trường báo cáo với chính quyền địa phương, kêu gọi sự hỗ trợ
của các tổ chức đoàn thể, hội khuyến học hỗ trợ học bổng và điều kiện học tập,
miễn giảm các khoản đóng góp cho các em thuộc đối tượng này.
3.2.7.4/ Đối với học sinh lười học, ham chơi, học sinh cá biệt:
Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên phối hợp với cha mẹ học sinh trong diện
này để thông báo tình hình học tập rèn luyện của từng học sinh và bàn biện pháp
giáo dục, đặc biệt để cảm hoá giáo dục; phối hợp với Hội phụ huynh; Đoàn
thanh niên, Đội thiếu niên, giúp đỡ các em trong học tập và hướng các em đến
việc gắn bó hơn với nhà trường...
3.2.8. Đổi mới phương pháp giảng dạy, quản lí và giáo dục học sinh
- Có thể phương pháp dạy chưa có phương pháp phù hợp với các đối

tượng học sinh có trình độ khác nhau, chưa thực sự quan tâm đến tất cả học sinh
23


trong cả lớp mà chỉ chú trọng một số em có năng khiếu; giáo viên chưa thật tâm
lý, chưa động viên khéo léo kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù nhỏ.
- Xem nhẹ dẫn đến không khắc sâu kiến thức cơ bản, các kĩ năng cần
thiết như: Kĩ năng tính toán, tính giá trị biểu thức, tóm tắt, viết lời giải...
- Không nắm chắc đối tượng dẫn tới đề cao quá mức đối với học sinh, dẫn
tới hiện tượng: Dạy lướt (nghĩ học sinh nắm được rồi), thích chữa bài tập khó bỏ
qua bài tập dễ, trung bình, mà không chú ý tới khắc sâu kiến thức cơ bản cho
học sinh.
- Chưa tạo được không khí học tập thân thiện vì yêu cầu cao của giáo
viên. Giáo viên chưa phối kết hợp tốt với đại diện cha mẹ học sinh. Để từ đó có
biện pháp khắc phục hợp lý và có hiệu quả.
- Chủ động gặp đại diện cha mẹ học sinh trao đổi về việc học tập của HS,
cùng với đại diện cha mẹ học sinh tìm biện pháp khắc phục.
- Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải có kế
hoạch dạy học cho những học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng. Kế hoạch
dạy học cho học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng phải phù hợp với trình
độ học sinh đó, không chỉ dạy những kiến thức của lớp đó mà có thể dạy kiến
thức của lớp dưới.
Ví dụ:
- Trong tiết tập đọc có em đọc chưa đạt chuẩn, không yêu cầu học sinh đó
đọc cả bài, cả đoạn mà có thể là từng câu sau đó nâng dần lên nhiều câu, từ nào
em đó hay đọc sai có thể đến bên em và yêu cầu đọc nhiều lần. Trong phần tìm
hiểu bài cũng cho các em học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng tham gia
bình thường nhưng chỉ hỏi những câu dễ và gần gũi các em để các em trả lời
được.
- Môn toán: phân loại bài tập dành riêng cho từng đối tượng học sinh.

Không yêu cầu học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng làm hết tất cả các
bài trong SGK
- HS hổng kiến thức ở đâu ta phải có kế hoạch ôn tập cho em ở đó: Ví dụ
khi tính giá trị biểu thức các em làm bài sai, hoặc không biết làm, GV phải cho
HS nhắc lại thứ tự thực hiện các phép tính trong một biểu thức, hoặc HS không
biết cách thực hiện phép nhân, chia chứng tỏ HS đó không thuộc bảng cửu
chương, GV phải yêu cầu học sinh đọc thuộc bảng cửu chương.
- Bố trí chỗ ngồi để GV dễ theo dõi, dễ quan sát
- Phân công HS có năng khiếu giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra các
nhóm học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ
năng.
- Thường xuyên kiểm tra bài cũ các em.
- Luôn ưu tiên các em chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng, mỗi khi các em
dơ tay xây dựng bài, đồng thời phải tuyên dương, động viên các em mỗi khi các
em trả lời đúng.
24


- Đối với các buổi hai giáo viên phải có kế hoạch giảng dạy cho học sinh
chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng, em nào chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng
chỗ nào cần phải bù cho em kiến thức cũng như cho các em tự luyện các dạng
bài tập thêm.
- Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng (2 tuần/lần) giáo viên chủ
nhiệm báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức
- kĩ năng cho Tổ trưởng và giáo viên cùng môn, từ đó giáo viên nào còn vướng
mắc thì được tập thể giáo viên trong nhóm chuyên môn góp ý bổ sung. Theo tôi,
Để nâng một em chưa đạt chuẩn kiến thức - kĩ năng lên đạt chuẩn kiến thức - kĩ
năng điều đó rất khó đòi hỏi sự tận tâm, nhiệt tình và không nản chí của giáo
viên.
- Mỗi giáo viên đều có nghệ thuật riêng của mình trong giảng dạy để tạo

sự lôi cuốn và hấp dẫn học sinh, ngoài phương pháp chung: Tự phát hiện - Tự
giải quyết - Tự chiếm lĩnh:
Bước 1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của HS (Làm xuất hiện vấn đề
và tạo cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu vấn đề đó)
Bước 2: Tổ chức các hoạt động học tập (theo cá nhân, theo nhóm hay cả
lớp)
Bước 3: Hướng dẫn học sinh trình bày ý kiến trước nhóm, trước lớp.
Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá, bổ sung.
Bước 5: Giáo viên hệ thống, kết luận vấn đề, hướng dẫn học sinh trình
bày (giáo viên chốt lại các vấn đề quan trọng).
Bước 6: Tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành, rèn các kĩ năng.
3.2.9. Tăng cường hiệu quả các hoạt động phối hợp giữa các tổ chức đoàn
thể, GVCN, GVBM…trong nhà trường và phát huy sức mạnh các lực
lượng giáo dục
3.2.9.1/ Phối hợp với tổ chức Đoàn đội – GVCN – GVBM – GV trực ban – phối
hợp với cha mẹ học sinh
- Ở nhà trường việc quản lí và thực hiện nền nếp giờ học chính khóa của
học sinh được giáo viên chủ nhiệm và Đoàn đội duy trì thực hiện khá tốt, nên
chúng tôi khá yên tâm. Điểm thi đua các lớp được cập nhật thường xuyên kịp
thời trên trang web nhà trường, được thông báo tại bảng tin và dưới cờ hàng
tuần. Để việc học bài trên lớp và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh được tốt Ban
giám hiệu yêu cầu Đoàn đội đưa nội dung kiểm tra sách giáo khoa, vở ghi, vở
chuẩn bị bài về nhà, đồ dùng học tập vào tiêu chí chấm thi đua hàng ngày. Do
vậy nền nếp học tập của học sinh đã tốt hơn, tiến bộ hơn rất nhiều. Chính vì vậy
mà phong trào hoạt động Đội và thanh thiếu niên của nhà trường năm học 2017 2018 đã được huyện đoàn về kiểm tra và đánh giá rất cao. Liên đội và đồng chí
giáo viên Tổng phụ trách đều được Tỉnh đoàn tặng giấy khen năm học 2017 2018.
25



×