Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Tuyển tập trinh tiết và đặc trưng truyện ngắn akutagawa ryunosuke

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.06 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Kim Ngân

TUYỂN TẬP TRINH TIẾT
VÀ ĐẶC TRƯNG TRUYỆN
NGẮN AKUTAGAWA
RYUNOSUKE
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số

: 60 22 02 45

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công
bố trong bất kì công trình nào khác.
Người viết luận văn
Lê Thị Kim Ngân


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn:
- Cô hướng dẫn, TS. Nguyễn Thị Bích Thúy


- Các thầy cô tổ Văn học Nước ngoài, phòng Sau đại học trường Đại học
Sư Phạm TPHCM
- Ban giám hiệu trường THPT Chuyên Bình Long, thị xã Bình Long,
Bình Phước
- Gia đình và bạn bè
đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình góp ý, giúp đỡ, động viên cho tôi trong
suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
TP.HCM, Ngày

tháng 02 năm 2014

Người viết luận văn

Lê Thị Kim Ngân
Lớp Cao học VHNN khóa 22


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cám ơn
Mục lục
DẪN NHẬP...................................................................................................... 1
Chương 1. TRUYỆN NGẮN NHẬT BẢN ĐẦU THẾ KỈ XX VÀ “BẬC
THẦY TRUYỆN NGẮN” AKUTAGAWA RYUNOSUKE........8
1.1. Đặc điểm truyện ngắn Nhật Bản đầu thế kỉ XX..................................... 8
1.1.1. Tình hình xã hội Nhật Bản đầu thế kỉ XX....................................... 8
1.1.2. Đời sống văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX................................... 10
1.1.3. Tiến trình truyện ngắn Nhật Bản đầu thế kỉ XX............................16
1.2. “Bậc thầy truyện ngắn” Akutagawa Ryunosuke...................................30
1.2.1. Cuộc đời bất hạnh..........................................................................30

1.2.2. Tầm vóc một nhà văn lớn.............................................................. 33
1.3. Tuyển tập truyện ngắn Trinh tiết...........................................................38
Chương 2. TUYỂN TẬP TRINH TIẾT VÀ NỖI BUỒN VỀ “SỰ THẤT
BẠI CỦA LÍ TRÍ”....................................................................... 43
2.1. Sự bất tương đồng giữa lí trí và hiện thực............................................ 43
2.1.1. Lí trí không phản ánh đúng hiện thực............................................43
2.1.2. Lí trí không thể lí giải bí ẩn đời sống............................................ 50
2.2. Sự khuất phục của lí trí trước hoàn cảnh và dục vọng..........................53
2.2.1. Hoàn cảnh quyết định lí trí............................................................ 53
2.2.2. Dục vọng điều khiển lí trí.............................................................. 58
2.3. Hành trình sáng tạo nghệ thuật............................................................. 71
2.4. Hành trình tìm kiếm giá trị nhân bản....................................................74


Chương 3. TUYỂN TẬP TRINH TIẾT VÀ NHỮNG CÁCH TÂN
NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN..............................................82
3.1.“Truyện cổ tích của thời hiện đại”.........................................................82
3.1.1. Phong vị cổ tích.............................................................................82
3.1.2. Sắc màu hiện đại............................................................................85
3.2. Sự thể nghiệm kết cấu và sự ứng dụng kĩ thuật viết.............................88
3.2.1. Các dạng thức kết cấu....................................................................88
3.2.2. Kĩ thuật viết hiện đại..................................................................... 94
3.3. Giọng điệu đa thanh............................................................................100
3.3.1. Giọng điệu hài hước, châm biếm.................................................101
3.3.2. Giọng điệu hoài niệm, ám ảnh.....................................................106
3.3.3. Giọng điệu triết lí, u buồn............................................................109
KẾT LUẬN.................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................117



6

DẪN NHẬP
Văn học xứ Phù Tang nổi tiếng thế
1. Lí do chọn đề tài

giới với thơ haiku đẫm ý vị Thiền và những
tiểu thuyết tâm lí đặc sắc. Đồng thời, thể loại
truyện ngắn góp phần hoàn chỉnh diện mạo
nền văn học Nhật Bản hiện đại. Trong số
các nhà văn tiên phong của thời kì này,
Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) là một
phong

cách

văn

chương

độc

đáo:

“Akutagawa Ryunosuke vụt qua trên nền trời
văn học Nhật Bản như một ngôi sao băng,
thật sáng nhưng cũng thật ngắn ngủi. Người
ta trầm trồ ca ngợi tài năng ông và người ta
tiếc thương cho số phận ông” [2, tr.9].
Tuy hiện diện chỉ hơn mười năm

nhưng Akutagawa đã cống hiến cho sự
nghiệp văn học dân tộc nhiều thành tựu. Giải
thưởng văn chương mang tên ông đến nay
vẫn là một danh dự cao quý đối với những
nhà văn Nhật Bản. Cùng với Natsume
Soseki và Mori Ogai, Akutagawa được đánh
giá là một trong những nhân tố cơ bản của
nền văn học Nhật Bản hiện đại. Sáng tác của
ông rất đa dạng với các thể loại truyện ngắn,
tiểu thuyết, tự truyện, tiểu luận phê bình.
Trong đó, truyện ngắn chiếm vị trí quan trọng
và gặt hái được nhiều thành công hơn cả.
Các tác phẩm thuộc thể loại này không chỉ
khẳng định sự nghiệp sáng tác của nhà văn
mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển văn học Nhật Bản.


Để tìm hiểu
về Akutagawa và
diện mạo của nền
văn học Nhật Bản
hiện đại, đề tài của
luận

văn

đến

mục


nghiên

hướng
tiêu

cứu

một

cách có hệ thống
những đặc trưng
thể

loại

truyện

ngắn trong tuyển
tập Trinh tiết. Sở
dĩ chúng tôi lựa
chọn như vậy vì
tuyển tập này đáp
ứng

những

điều

kiện cần thiết để

triển khai đề tài.
Từ đó luận văn tìm
ra những đặc trưng
truyện

ngắn

Akutagawa
thấy

được

để
đóng

góp của nhà văn
trong

tiến

trình

hiện đại hóa văn
học Nhật Bản.

7


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những công trình nghiên cứu về Akutagawa có tính chất giới thiệu về

cuộc đời, sự nghiệp sáng tác cũng như các tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn.
Về thể loại truyện ngắn, các tác giả đã khái quát những nét cơ bản.
Các nhà nghiên cứu đều đánh giá chung về toàn bộ sự nghiệp sáng tác
của Akutagawa. Trong bài viết “Các khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa
trong văn học Nhật Bản nửa đầu thế kỉ XX”, Khương Việt Hà nhận định
Akutagawa là thủ lĩnh của trường phái Tân hiện thực đồng thời là cây bút kiệt
xuất với trên 140 truyện ngắn. Bài viết “Một đôi nét về Akutagawa và truyện
ngắn của ông” của tác giả Phong Vũ cũng khẳng định Akutagawa là một
trong những hiện tượng văn học phức tạp, mâu thuẫn, song lại hết sức hấp dẫn
trong văn học Nhật đầu thế kỉ XX. Nhà văn Nhật Bản hiện đại này được công
nhận là bậc thầy ưu tú ở thể loại truyện ngắn.
Ở công trình Tổng quan văn học Nhật Bản của Nguyễn Nam Trân,
Akutagawa và Shiga được đánh giá là hai đỉnh cao về thể loại truyện ngắn.
Hữu Ngọc trong tác phẩm Dạo chơi vườn văn Nhật Bản cũng thống nhất quan
điểm với các tác giả trên khi khẳng định Akutagawa là nhà văn Nhật hiện đại
đầu tiên nổi tiếng nhất ở phương Tây.
Trong số những công trình nghiên cứu về văn học Nhật Bản hiện đại,
Những cây bút kiệt xuất trong văn học Nhật Bản hiện đại của Nguyễn Tuấn
Khanh là tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về 9 nhà văn hiện đại được đánh
giá cao tại Nhật. Trong đó, Akutagawa được xem là nhân vật văn học nổi bật
nhất trong mười lăm năm của thời đại Taisho. Các truyện ngắn của nhà văn
cho đến nay vẫn được xếp vào hàng kinh điển.
Về phương diện đề tài, quan điểm của các tác giả Khương Việt Hà,
Nguyễn Tuấn Khanh, Nguyễn Nam Trân, Hữu Ngọc, Phong Vũ… đều thống
nhất khi nhận định truyện ngắn của Akutagawa mở rộng đề tài trên nhiều


phương diện. Đặc biệt, hầu hết các truyện ngắn nổi tiếng sáng tác trong thời
kì đầu đều đề cập tới quá khứ. Theo Nguyễn Tuấn Khanh, giai đoạn lịch sử ưa
thích nhất của Akutagawa là thế kỉ XII, khi Kyoto bị các thảm họa ụp xuống

phá hủy; kế đến là thế kỉ XVI, khi ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo đã đạt đến
đỉnh cao ở Nagazaki và buổi đầu kỉ nguyên Minh Trị. Sở dĩ nhà văn bị những
thời gian và địa điểm cách xa thu hút vì “chúng có khả năng xử lí những vấn
đề bất thường, siêu nhiên, hoặc kì diệu” [36, tr.198]. Vào những năm tháng
cuối đời, Akutagawa đã chuyển hướng sáng tác “từ phê phán sự không hoàn
thiện cá nhân tới sự không hoàn thiện của xã hội” [1, tr.11].
Về cốt truyện và nhân vật, tác giả Nguyễn Tuấn Khanh cho rằng những
sáng tác của Akutagawa gây được hiệu quả sinh động nhờ những tình tiết phát
hiện ra từ truyện cổ. Nhà văn luôn day dứt trong việc tạo ra ấn tượng sống
động bằng cách bổ sung những tình tiết- thường là khắc nghiệt hoặc độc áclấy trực tiếp từ các tác phẩm như Konjaku Monogatari. Các cốt truyện đều có
đặc điểm chung là “dựa trên lịch sử xa xưa của Nhật Bản nhưng lại được
trình bày dưới một hình thức hiện đại” [36, tr.191]. Nhà văn thường đầu tư
xây dựng bố cục rất chặt chẽ. Nguyễn Nam Trân cũng chỉ ra rằng khi xây
dựng truyện dã sử, Akutagawa đã “chuẩn bị chu đáo như Gogol từ cấu trúc
đến các tình tiết tính toán kĩ lưỡng để có hiệu năng tối đa” [58, tr.394].
Ở phương diện xây dựng nhân vật, Phong Vũ nhận định rằng tuy
Akutagawa hầu như không thay đổi gì cốt truyện vay mượn nhưng nhà văn
đặt nhân vật vào những hoàn cảnh khác thường và tạo nên một màu sắc hoang
đường nào đó để nghiên cứu tính cách con người. Mục đích của ông là vạch
rõ những vận động tâm hồn của mỗi nhân vật, từ đó khám phá ra bản chất của
họ. Thông qua tác phẩm, Akutagawa đã “đặt ra những vấn đề đức đạo đức,
thẩm mĩ hiện đại” [1, tr.11]. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Nam Trân cũng cho
rằng Akutagawa có sự học hỏi từ các nhà văn tiền bối. Như Mori Ogai với


thái độ khô khan, lạnh lùng khi trực diện với nhân vật, sự tình hoặc chủ đề
“sự ích kỉ của người đời” được gợi ý từ các sáng tác của Natsume Soseki.
Bên cạnh đó, Akutagawa cũng là một trong những tác giả tiên phong tiếp
nhận kĩ thuật viết văn phương Tây. Theo Nguyễn Tuấn Khanh: “Akutagawa
chịu ảnh hưởng nhiều qua việc đọc các tác phẩm văn học châu Âu trong việc

phân tích tâm lí nhân vật” [36, tr.192].
Các nhà nghiên cứu đều đề cao kĩ thuật viết của Akutagawa. Theo
Khương Việt Hà, đó là “sự phản ánh thực tại trong dòng lãng mạn buông thả
nhằm tái tạo một hiện thực mới” còn văn phong thì “mỉa mai gợi tả sâu sắc
theo khuynh hướng Tân hiện thực” [25, tr.127]. Truyện ngắn của Akutagawa
đã phản ánh sự nhạy cảm nội tâm cũng như chiều sâu tri thức của nhà vănmột người am hiểu văn chương phương Đông lẫn phương Tây. Theo Nguyễn
Tuấn Khanh, nét nổi bật của bút pháp Akutagawa là “lập dị và hài hước, đôi
lúc sa vào chủ nghĩa duy cảm” [36, tr.127]. Hữu Ngọc nhận định văn chương
Akutagawa “pha trộn giữa hiện thực và huyền ảo, hoa mỹ nhưng súc tích, bố
cục chặt chẽ” [47, tr.26].
Lối hành văn của Akutagawa được Nguyễn Nam Trân đánh giá là sự
“liên kết trí thông minh và chất thơ” tạo nên những tác phẩm “chứa đầy tình
huống cực đoan, nhuốm màu hài hước lẫn chua cay”. Và “văn chương ông
hàm chứa một sự mơ hồ để ai muốn hiểu sao thì hiểu như khi ông nói “núi Lư
Sơn có thể nhìn từ nhiều góc cạnh khác nhau” [58, tr.394].
Về triết lí văn chương của Akutagawa, Nguyễn Nam Trân nhấn mạnh:
“nhà văn đã thể hiện trong sáng tác của mình một nhân sinh quan yếm thế,
luôn day dứt vì không lựa chọn được: nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật
vị nhân sinh” [58, tr.395].
Bài viết “Những cách tân nghệ thuật theo hướng hiện đại hóa trong
truyện ngắn của Akutagawa” của tác giả Hoàng Thị Xuân Vinh đưa ra những


nhận định khá mới mẻ về truyện ngắn của nhà văn tài hoa. Tác giả nhận định
truyện ngắn của Akutagawa đã xóa nhòa lằn ranh thể loại, sử dụng các kiểu
kết cấu như mảnh vỡ, mờ hóa, ảo hóa; hòa lẫn giữa các ngôn ngữ như giễu
nhại, nghịch dị, chất hài hước đen và yếu tố kì ảo. Bài viết đi đến kết luận lối
viết của Akutagawa nếu xóa tên tác giả, đất nước và thời đại có thể sẽ khiến
độc giả nghĩ rằng đó là cách viết hậu hiện đại. Đây là cách nhìn khá mới mẻ
cần xem xét thấu đáo hơn.

* Nhận xét chung
Qua việc khảo sát lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi rút ra một số
nhận xét như sau:
Thứ nhất, các nhà nghiên cứu đều thống nhất khi khẳng định tài năng ở
lĩnh vực truyện ngắn và khuynh hướng sáng tác của Akutagawa. Tuy nhiên,
các tác giả chưa đặt truyện ngắn Akutagawa vào bối cảnh văn học Nhật Bản
đương thời để thấy rõ hướng đi riêng của nhà văn. Do đó những nhận định
còn mang tính khái quát và chưa thật sự thuyết phục.
Thứ hai, về đặc trưng truyện ngắn của Akutagawa, các nhà nghiên cứu
đã khái quát từng tác phẩm thuộc nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết, tự
thuật) nhưng chưa nghiên cứu đặc trưng truyện ngắn trong một hệ thống. Do
đó, vấn đề này vẫn chưa được nhìn nhận đầy đủ.
Với đề tài nghiên cứu, luận văn bước đầu tìm hiểu theo hệ thống đặc
trưng của truyện ngắn Akutagawa Ryunosuke trong tuyển tập Trinh tiết và
một số truyện ngắn khác của ông. Từ đó, luận văn đi đến khẳng định đặc
trưng truyện ngắn và vị trí của Akutagawa trong nền văn học Nhật Bản hiện
đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà đề tài nghiên cứu là Tuyển tập Trinh tiết và đặc trưng
truyện ngắn Akutagawa Ryunosuke. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là 30


truyện ngắn được in trong tuyển tập Trinh tiết do Đinh Văn Phước tuyển
chọn, được Nxb Văn học phát hành năm 2006.
Ngoài ra, luận văn còn khảo sát tuyển tập Trong rừng trúc do Phong Vũ
dịch và các tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản hiện đại khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cấu trúc và hệ thống là phương pháp được sử dụng để xác lập nguyên tắc tư
duy nghệ thuật của nhà văn.
- Phương pháp loại hình nhằm xác lập đặc trưng loại hình tư duy nghệ thuật

truyện ngắn.
- Phương pháp so sánh đối chiếu để làm nổi rõ đặc trưng nghệ thuật truyện
ngắn của Akutagawa trong mối tương quan với các nhà văn khác.
Ba phương pháp này sẽ được chúng tôi sử dụng ở chương hai và ba để
chỉ ra những đặc trưng truyện ngắn của Akutagawa.
- Phương pháp phê bình tiểu sử giúp chúng tôi có những nhận định đầy đủ và
khách quan hơn về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả sẽ được sử dụng ở
chương một của luận văn.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn hướng đến mục tiêu:
- Qua tuyển tập Trinh tiết và các truyện ngắn của Akutagawa để bước đầu
tìm hiểu đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Akutagawa, phân tích những
biểu hiện cụ thể và giá trị các đặc trưng ấy nhằm chỉ ra sự thống nhất chặt chẽ
giữa tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của nhà văn này.
- Xác lập vị thế Akutagawa trong tiến trình phát triển của văn học Nhật Bản
hiện đại ở thể loại truyện ngắn.
- Tạo dựng cơ sở ban đầu để nghiên cứu về phong cách truyện ngắn
Akutagawa.


6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
trình bày theo ba chương chính:
Chương 1: Truyện ngắn Nhật Bản đầu thế kỉ XX và “bậc thầy
truyện ngắn” Akutagawa Ryunosuke
Chương 2: Tuyển tập Trinh tiết và nỗi buồn về “sự thất bại của
lí trí”
Chương 3: Tuyển tập Trinh tiết và những cách tân nghệ thuật
truyện ngắn



Chương 1. TRUYỆN NGẮN NHẬT BẢN ĐẦU THẾ KỈ XX
VÀ “BẬC THẦY TRUYỆN NGẮN”
AKUTAGAWA RYUNOSUKE
1.1. Đặc điểm truyện ngắn Nhật Bản đầu thế kỉ XX
1.1.1. Tình hình xã hội Nhật Bản đầu thế kỉ XX
Đầu thế kỉ XX, Nhật Bản diễn ra nhiều sự kiện quan trọng. Cuộc cách
mạng Minh Trị (1868) làm thay đổi diện mạo đất nước một cách toàn diện.
Trước đó, Nhật Bản kém phát triển do chính sách bế quan tỏa cảng của
chính quyền Mạc phủ. Sợ hãi trước sự bành trướng của Thiên Chúa giáo và
tham vọng xâm lược của chủ nghĩa thực dân, chính phủ Nhật Bản ngăn cấm
giao lưu thương mại trong nước và bên ngoài. Chính sách này đã làm cho
Nhật Bản vốn dĩ cách biệt với thế giới lại càng trở nên biệt lập.
Tuy nhiên, tình trạng này không kéo dài. Xu thế phát triển chung buộc
Nhật Bản không thể đi chệch qui luật. Dưới áp lực quân sự của Mĩ, Nhật Bản
đã lần lượt kí kết các hiệp ước, mở đầu là Kanagawa (1854), đánh dấu sự sụp
đổ của Mạc phủ và bắt đầu thời kì hiện đại hóa. Sau gần ba thế kỉ, quyền cai
trị đất nước được trao lại cho Thiên hoàng. Năm 1868, cuộc cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Minh Trị Thiên hoàng đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ Mạc phủ.
Từ đây, Nhật Bản mở cửa và giao lưu với bên ngoài sau thời kì bế quan tỏa
cảng. Đây cũng là con đường chung của các nước trong khu vực giai đoạn
giữa thế kỉ XIX. Ví dụ như cuộc chiến tranh nha phiến năm 1842 chính thức
báo hiệu cuộc xâm lăng của phương Tây vào Trung Hoa, năm 1858 chiến
hạm Pháp và Tây Ban Nha tấn công vào bán đảo Sơn Trà của Việt Nam…
Sau khi nắm quyền, Thiên hoàng tiến hành nhiều cải cách quan trọng
như xóa bỏ chế độ đẳng cấp khắt khe, sự phân biệt giới tính, địa vị; Âu hóa
đời sống xã hội về nhiều mặt… Cụ thể là bốn tầng lớp trong xã hội gồm võ sĩ,
nông dân, thợ thủ công, thương nhân được xem như bình đẳng. Do tầng lớp



võ sĩ bất bình nên chính phủ dùng tiền để xoa dịu, dẫn đến việc hình thành
giai cấp võ sĩ quí tộc tư sản. Chủ trương xây dựng đất nước theo con đường
quân sự của họ là nguyên nhân khiến Nhật trở thành đế quốc phong kiến quân
phiệt sau này.
Bên cạnh đó, việc tuyển chọn cán bộ cũng có thay đổi. Nguồn gốc không
còn là ưu tiên hàng đầu mà năng lực cá nhân mới được xem trọng. Thời kì
này, nhiều phái đoàn Nhật được cử sang phương Tây để học hỏi về hành
chính và kĩ thuật. Giáo trình đại học qui định nội dung giảng dạy phải đề cập
đến các thành tựu mới về khoa học kĩ thuật. Quân đội được huấn luyện, tổ
chức theo mô hình phương Tây như lục quân Đức, hải quân Anh… Ngoài ra,
giảng viên nước ngoài được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt để ra sức cống hiến.
Mức lương họ nhận cao gấp mười lần so với công chức Nhật đương thời.
Những chính sách trên tạo nên cuộc cách mạng toàn diện trong xã hội
Nhật. Sự tiến bộ vượt bậc của Nhật là một kì tích khiến thế giới kinh ngạc.
Đất nước Nhật Bản do đó tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, rút
ngắn thời gian công nghiệp hóa và chuyển sang giai đoạn đế quốc quân phiệt.
Khi Thiên hoàng qua đời thì triều đại Minh Trị kết thúc. Nhật Bản bước
vào thời kì lịch sử mới với hai triều đại Taisho (1912-1926) và Showa (19261989). Thời kì Taisho, các trào lưu dân chủ phát triển, tạo điều kiện thuận lợi
cho những hoạt động của giới trí thức. Lượng sách báo xuất bản tăng vọt.
“Vào giữa thập niên 1920, đã có ba tờ báo Nhật phát hành từ một triệu đến
một triệu rưỡi số mỗi ngày” [36, tr.13]. Đây là một tín hiệu cho thấy sự phát
triển đời sống tinh thần của toàn xã hội.
Giai đoạn đầu thế kỉ XX được đánh dấu bởi nhiều cuộc chiến tranh như
Trung- Nhật (1894-1895), Nga- Nhật (1904-1905), chiến tranh thế giới II.
Đây là chặng đường phát triển không bình thường nhất của nước Nhật hiện
đại.


10


Một cố vấn quân sự Nhật từng nhận định rằng Triều Tiên như một mũi
dao chỉ thẳng vào trái tim nước Nhật. Sự hiện diện của bất kì cường quốc
quân sự nào tại Triều Tiên là mối đe dọa phải loại bỏ. Do đó, Nhật Bản kiên
quyết chấm dứt ảnh hưởng của Trung Quốc lên bán đảo này. Khi chiến tranh
Trung Nhật (1894-1895) nổ ra, nước Nhật thắng trận. Kết quả này càng khẳng
định thành công của công cuộc Duy Tân.
Chiến tranh Nga- Nhật (1904-1905) là cuộc đại chiến đầu tiên của thế kỉ
XX. Xung đột xảy ra giữa hai nước nhằm giành quyền kiểm soát Mãn Châu
và Triều Tiên. Kết quả là Nhật Bản lại chiến thắng. Tham vọng bành trướng
chủ nghĩa quân phiệt của Nhật do đó tiếp tục được nuôi dưỡng.
Thắng lợi liên tiếp khiến Nhật Bản nảy sinh ý đồ chiếm Trung Quốc và
các nước lân cận. Nguồn tài nguyên dồi dào ở các nước này luôn khiến đất
nước ít được thiên nhiên ưu đãi như Nhật thèm khát. Khi thế chiến thứ hai nổ
ra, Nhật Bản nhanh chóng bị cuốn vào chiến tranh. Tuy nhiên, do không đủ
thế và lực để đương đầu với lực lượng của Mỹ cũng như Đồng Minh, Nhật
Bản thảm bại nặng nề. Hơn hai triệu người chết, buộc phải kí kết các hiệp ước
bất bình đẳng, đất nước bị tàn phá… là bài học xương máu mà Nhật không
thể quên.
Bối cảnh lịch sử trên đây đã có tác động to lớn đến đời sống xã hội nói
chung tình hình sáng tác văn học của Nhật Bản nói riêng.
1.1.2. Đời sống văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX
Đối với các nước nằm trong khu vực văn hóa chữ Hán, mặc dù nhu cầu
đổi mới văn học đã có từ giai đoạn hậu kì trung đại, nhưng nếu không bị
phương Tây xâm lăng thì thời đại mới trong văn học chưa thể bắt đầu. Do đó
việc đổi mới văn học của Nhật Bản nói riêng và các nước trong khu vực nói
chung không phải là quá trình tiệm tiến, hình thành từ những yếu tố nội sinh
mà là sự chuyển biến đứt gẫy sang mô hình văn học hiện đại.


17


Có thể nhận thấy rằng, đầu thế kỉ XX là giai đoạn hình thành nền văn
học Nhật Bản hiện đại. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều thống nhất
rằng nền văn học này bắt đầu từ sau cách mạng Minh Trị (1868), đúng hơn là
khoảng hai thập kỉ sau đó- từ những năm 1888. Khi ấy, những cải cách đã dần
đi vào đời sống. Sự tiếp thu ảnh hưởng phương Tây cũng như tìm tòi giá trị
truyền thống đã bắt đầu mang lại kết quả.
Theo các nhà nghiên cứu, có nhiều cách phân chia các thời kì văn học
Nhật Bản hiện đại. Cách thứ nhất cho rằng có ba giai đoạn gồm thời Duy Tân
Minh Trị (1868-1912), Taisho (1912-1926) và Showa (1926-1989). Cách thứ
hai thì xem kỉ nguyên Showa có giai đoạn trước chiến tranh (1926-1941) và
giai đoạn sau chiến tranh (1941-1989) [36, tr.16]. Cách thứ ba cho rằng thời
tiền cận kim, cận kim của văn học Nhật Bản lồng vào hai triều đại là Minh Trị
(1868-1912), Taisho (1912-1926) [58, tr.306]. Cách thứ tư xem văn học hiện
đại Nhật Bản bắt đầu từ thời Minh Trị, còn văn học đương đại thì từ năm
1945 [47, tr.21]…
Như vậy, sự phân chia các giai đoạn văn học Nhật Bản hiện đại có khác
biệt vì dựa trên những tiêu chí khác nhau. Nếu xem xét những truyện ngắn
của Akutagawa- được xem là một trong những nhà văn khởi đầu văn học
Nhật Bản hiện đại- thì chúng ta sẽ khảo sát trong giai đoạn nào? Việc lựa
chọn mốc thời gian này có ý nghĩa quan trọng để thấy được vị trí và những
đóng góp của Akutagawa.
Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) chính thức xuất hiện với truyện
ngắn đầu tay Tuổi già (1914). Ông liên tục sáng tác đến năm 35 tuổi và được
đánh giá là nhân vật nổi bật nhất trong mười lăm năm của thời đại Taisho
(1912-1926). Do đó, nếu xem xét truyện ngắn Akutagawa trong văn học Nhật
Bản đầu thế kỉ XX, giai đoạn từ sau cải cách Minh Trị 1868 cho đến trước
năm 1945 thì đối tượng khảo sát để so sánh là những truyện ngắn của các tác



giả trong cùng thời kì.
Các nhà văn gồm Mori Ogai (1862-1922), Natsume Soseki (1867-1916),
Arishima Takeo (1878-1923), Shiga Naoya (1883-1971), Tanizaki Junichiro
(1886-1965), Yokomitsu Riichi (1898-1947), Kawabata Yasunnari (18991972), Dazai Osamu (1909-1948). Xuất phát từ những đặc điểm nổi bật của
thể loại truyện ngắn trong giai đoạn này, chúng ta sẽ có căn cứ để đánh giá
được vị thế và tầm vóc của Akutagawa.
Luận văn chọn khoảng thời gian từ 1868-1945 vì đây là thời kì đầu của
văn học Nhật Bản hiện đại, tính chất mở đường, thể nghiệm thể hiện rõ trong
các sáng tác. Từ sau thảm bại chiến tranh thế giới lần hai, xã hội Nhật Bản
đau thương và kiệt quệ. Theo đó, văn học đã có sự chuyển hướng, mang màu
sắc và âm hưởng khác biệt giai đoạn trước. Có hai khuynh hướng chính hầu
như đối lập là kế tiếp và đoạn tuyệt với quá khứ. Kế tiếp để gìn giữ một
truyền thống đã có từ nhiều thế kỉ, đoạn tuyệt để xóa sạch tàn tích của thời
quân phiệt và xây dựng một nền văn học thích nghi với xã hội mới. Do đó,
khoảng thời gian nói trên là tương đối để nhìn nhận đặc trưng thể loại truyện
ngắn của Akutagawa.
Khảo sát giai đoạn từ 1868-1945, chúng tôi nhận thấy những đặc điểm
nổi trội của văn học Nhật Bản như sau:
Dưới sức ép từ bên ngoài, Nhật Bản đã hiện đại hóa, phương Tây hóa về
mọi phương diện. Đội ngũ nhà văn vừa am hiểu văn học truyền thống vừa là
những trí thức Tây học thời đại “khai sáng”. Họ tiếp cận các tác gia lớn, các
luồng tư tưởng, sự cách tân kĩ thuật viết từ những tác phẩm văn học hiện đại
của phương Tây như Đức, Anh, Pháp… Những tác phẩm đầu tiên được dịch ở
Nhật Bản là Robinson Crusoe (Daniel Defoe), Tám mươi ngày vòng quanh
thế giới (Jules Verne), Bá tước Monte Cristo (A.Dumas), Nhật kí người đi săn
(Turgeniev), Tội ác và hình phạt (Dostoievski), Nỗi đau của chàng Werther


(Goethe)… Có thể thấy “Văn học dịch đã đem đến một mô hình mới, thị hiếu
thưởng thức mới, đồng thời đáp ứng được nhu cầu thể hiện tình cảm mới- tự

do, phóng khoáng, ít bị câu thúc hơn” [20, tr.19]. Qua công việc dịch thuật và
sáng tác, các nhà văn trở thành những người “dịch văn hóa” ý thức sâu sắc về
sứ mệnh thúc đẩy nền văn học Nhật đang tụt hậu nhanh chóng hội nhập với
phương Tây. Họ là lực lượng nòng cốt góp phần hình thành nên các tư trào
lớn trong văn học Nhật thời kì này.
Bên cạnh đó, việc dịch các tác phẩm mới cũng nhận được sự ủng hộ
mạnh mẽ, hình thành văn hóa đọc nổi tiếng của Nhật Bản. Như trường hợp
quyển sách Bàn về Tự do (On Liberty) của John Stuart Mill. Sách được xuất
bản ở Anh năm 1859, cùng năm với Thuyết tiến hoá của Charles Darwin. Bàn
về Tự do là một quyển sách rất có ảnh hưởng ở phương Tây và ngày nay vẫn
còn tiếp tục được đọc. Khi dịch sang tiếng Nhật, sách bán được trên một triệu
bản. Đây là con số “khủng” nếu ta biết rằng thời kì này dân số Nhật Bản chỉ
khoảng trên 30 triệu! Tất cả xuất phát từ ý thức dân tộc mạnh mẽ- không thể
yêu nước trong sự vô minh. Người Nhật lên cơn sốt đọc với khao khát nhanh
chóng nắm được bí quyết của phương Tây nhằm thực thi câu khẩu hiệu thời
kì này: “Hãy làm giàu cho đất nước, hãy làm cho quân đội hùng mạnh” [52,
tr.356].
Bên cạnh sự hiện đại hóa, phương Tây hóa, âm hưởng chiến tranh của
giai đoạn này tác động mạnh mẽ đến văn học. Sau chiến tranh Nga- Nhật
(1904-1905), Nhật Bản phải trả giá đắt. Chiến thắng mang đến nhiều lo âu và
sự vỡ mộng cho giới văn nhân trí thức. Giai đoạn cuối thời kì Minh Trị và
những năm đầu thời Taisho được gọi tên là “thời vỡ mộng” hay “thời tự thú”
của văn học Nhật. Trong bối cảnh đó, một tư trào văn học lớn nổi lên. Đó là
chủ nghĩa tự nhiên với khuynh hướng phát huy “cái tôi” đậm màu sắc lãng
mạn; chọn lối miêu tả khách quan, lí trí và bộc lộ suy nghĩ của mình. Đây là


dòng “văn học hiện thực quan chiếu”- “nhìn ngắm sự vật kề bên theo cách
nó thể hiện ra”, xem “nghệ thuật là thực tế” [58, tr.333]. Tuy các nhà văn thế
hệ sau tỏ ra lãnh đạm và chống đối chủ nghĩa tự nhiên nhưng họ không thể

phủ nhận ảnh hưởng to lớn của nó trong văn học Nhật.
Chuyển sang những năm đầu thời Taisho, các khuynh hướng phản tự
nhiên chủ nghĩa nổi lên. Chúng tạo nên bức tranh văn học hiện đại vô cùng
sống động. Đây cũng là một thời kì tương đối phức tạp trong lịch sử phát triển
văn học. Có một số khuynh hướng chính sau:
Cao sang (yoyuha) sử dụng lối văn chan chứa tình cảm, để lại cảm xúc
sâu lắng trong lòng người, đặt trọng tâm vào việc làm giàu kiến thức. Khuynh
hướng này chống lại tính chất nội quan không màu sắc cũng như tư tưởng bi
quan của chủ nghĩa tự nhiên. Các nhà văn chủ trương trở về với xúc cảm và
cái đẹp- ngọn nguồn của sáng tác văn học. Đại diện là Mori Ogai, Natsume
Soseki, Masaoka Shiki… Tác phẩm nổi bật của Natsume Soseki là Tôi là con
mèo với hình tượng một con mèo nằm lắng nghe các nhà khoa học tranh cãi,
Cỏ ngu mĩ nhân thể hiện phong cách đẹp và chân dung hoàn hảo nhất về lớp
trẻ thời đại. Mori Ogai góp mặt với các tiểu thuyết phê phán chính sách của
chính phủ như Pháo đài tĩnh lặng hoặc tiểu thuyết với đề tài những trải
nghiệm tình yêu- Vũ nữ…
Chủ nghĩa Duy mĩ chống lại lối hành văn khô khan không màu sắc của
chủ nghĩa tự nhiên, đề cao giá trị thẩm mĩ và nhục cảm. Tiêu biểu là Tanizaki
Junichiro, Nagai Kafu… Tác phẩm nổi bật của Nagai Kafu là tiểu thuyết Đua
tranh kể về ba nàng geisha tranh giành khách, Okamezasa châm biếm chua
cay những kẻ có thế lực thường lui tới với gái giang hồ… Tanizaki gây ấn
tượng mạnh với truyện ngắn Bàn chân Fumiko kể về ông già có khuynh
hướng bái vật giáo- say mê đôi chân cô gái trẻ, tiểu thuyết Chìa khóa kể về
đời sống tình dục khác thường của vị giáo sư già. Tác giả đã làm nổi bật sự


đối lập giữa một bên là cái chết như một tiến trình đi tới sự cứu rỗi ở miền
cực lạc và một bên là thú vui xác thịt để tìm sự thỏa mãn nơi trần thế.
Trường phái Shirakaba nhìn thấy mâu thuẫn giữa cuộc sống sung túc
của giai cấp mình và những bất công xã hội xung quanh nên đã sáng tác và

thực hiện những công trình xã hội có tính chất không tưởng. Các tác giả bao
gồm Arishima Takeo, Shiga Naoya… Tác phẩm Một người đàn bà (Arishima
Takeo) xây dựng hình tượng người phụ nữ đẹp thuộc tầng lớp trung lưu đấu
tranh quyết liệt để bảo vệ tình yêu nhằm chống lại thói đạo đức giả trong xã
hội. Tiểu thuyết khác của nhà văn này- Tình yêu thả sức giành giật- khẳng
định tình yêu lãng mạn vướn đến đỉnh điểm là cái chết trong sự hòa hợp.
Hành trình là tác phẩm sáng giá nhất của Shiga Naoya, xây dựng hình tượng
một con người hoàn toàn độc lập và không bị quấy nhiễu bởi kiến trúc thượng
tầng của xã hội.
Chủ nghĩa Tân hiện thực dùng khả năng lí trí để phán đoán một cách
lạnh lùng, khách quan những dữ kiện xã hội dù thuộc về hiện tại hay đã lui
vào quá khứ. Nó dung hòa được tinh hoa lí trí của chủ nghĩa tự nhiên và sắc
màu lãng mạn phóng túng của chủ nghĩa duy mĩ. Nhà văn nổi bật nhất được
nhiều nhà nghiên cứu công nhận chính là Akutagawa Ryunosuke- thủ lĩnh của
văn phái. Các tác phẩm của ông sẽ được giới thiệu chi tiết trong những phần
sau của luận văn.
Vào những năm cuối thời Taisho, một cao trào văn học nổi lên và lấn át
tất cả. Đó chính là văn học vô sản. Biến cố lớn lao này tác động mạnh mẽ đến
các nhà văn hiện đại nói chung và Akutagawa nói riêng. Bị dao động trước
cao trào, ông không thể tiếp tục sáng tác theo con đường cũ. Vì không dung
hòa được mâu thuẫn cộng với những lí do riêng tư khác, Akutagawa tự sát
năm 35 tuổi.
Như vậy, Akutagawa sáng tác trong một thời kì đầy biến động của văn


học Nhật Bản khi sự xung đột giữa cái cũ và cái mới, phương Đông và
phương Tây trở nên gay gắt. Giữa bối cảnh đó, để định hình phong cách và
xác định hướng đi riêng góp phần phát triển nền văn học Nhật Bản chậm tiến
là một sứ mệnh cao cả.
Với những góc nhìn mang tính tổng quát trên đây, chúng ta có hình dung

ban đầu về sự phong phú và phức tạp của văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX.
Có thể thấy những khuynh hướng trên đã chi phối quá trình sáng tác của nhà
văn ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Nghiên cứu truyện ngắn
Nhật Bản đầu thế kỉ XX giúp nhận ra diện mạo truyện ngắn Akutagawa trong
bức tranh chung của văn học.
1.1.3. Tiến trình truyện ngắn Nhật Bản đầu thế kỉ XX
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “truyện”, “truyện ngắn” và
khởi nguồn của nó trong văn học Nhật Bản. Khái niệm “monogatari” là tên
gọi mà từ xưa người Nhật dùng cho mọi loại văn tự sự- từ cổ tích đến truyện
lịch sử, xã hội, truyện ngắn, truyện dài, kể cả truyền kì và tiểu thuyết… Tác
phẩm đầu tiên thuộc thể loại này được xác định vào khoảng thế kỉ X, có tên
Truyện người đẵn tre (Trúc thủ vật ngữ) hay Tiểu thư Ánh Trăng.
Truyện kể về hai ông bà lão đốn tre nhặt được cô gái tí hon trong thân
tre. Vô cùng mừng rỡ, họ đem cô bé về nuôi và đặt tên “Kaguya hime”“công chúa Ánh Trăng”. Càng lớn cô càng xinh đẹp, duyên dáng. Các chàng
trai tranh nhau cầu hôn. Vì không thể từ chối, cô ra điều kiện là họ phải mang
đến những lễ vật quí giá và khó tìm. Tuy nhiên, do bất tài nên các chàng trai
chỉ mang đến đồ giả hòng lừa gạt khiến cô gái tràn ngập thất vọng. Khi đêm
xuống cô ngồi ngắm trăng với đôi mắt u sầu, khao khát. Cô thổ lộ ước muốn
trở về cung trăng nơi mình sinh ra. Ông bà lão rất đau buồn, hết lời ngăn cản.
Đêm rằm tháng tám, ông lão nhờ một nghìn samurai lực lưỡng canh gác
quanh nhà. Bất chấp những mũi tên đầy uy lực của võ sĩ, ánh trăng huyền ảo


xuyên thấu và khiến mọi vật bất động. Cỗ xe ngựa có cánh hiện ra từ quầng
sáng mang công chúa Ánh Trăng về trời. Màu sắc kì ảo của câu chuyện cùng
với cốt lõi hiện thực vừa bi vừa hài khiến cho Tiểu thư Ánh Trăng được độc
giả say mê ca ngợi.
Thể loại truyện ngắn xuất hiện ở Nhật vào thế kỉ XI, được tập hợp trong
cuốn Tsutsumi chunagon monogatari (Đê trung nạp ngôn vật ngữ). Tuyển tập
gồm mười truyện với đề tài hiện thực và giọng điệu trào lộng mang màu sắc

hiện đại. Hầu hết các truyện đều gợi lên những khoảnh khắc của đời thường
như Phấn đen, Người hái hoa đào, Cô gái yêu sâu bọ, Cuộc thi vỏ sò, Những
điều vô nghĩa… Truyện ngắn Cô gái yêu sâu bọ kể về một tiểu thư vì chán
ghét thói đời giả dối nên không muốn làm đẹp. Cô không yêu những con
bướm sặc sỡ mà lại thích những con sâu xấu xí. Theo cô, cái đẹp mà con
bướm có được bắt nguồn tự xấu xí khi còn là một con sâu. Nếu con sâu càng
xấu xí bao nhiêu thì khi là bướm nó sẽ càng đẹp đẽ bấy nhiêu. Do đó, cái đẹp
hiện tại của bướm là hình thức chứ không phải bản chất. Cuối cùng, có một
chàng trai đã thổ lộ sự cảm mến đối với cô. Truyện Cô gái yêu sâu bọ đã gợi
nên suy ngẫm về mối quan hệ giữa hình thức và bản chất và “xứng đáng được
gọi là tập truyện ngắn đầu tiên của thế giới. Bởi vào thế kỉ XI, XII, trên thế
giới không có tập sách nào tương tự mà nhiều thế kỉ sau cũng khó tìm thấy”
[11, tr.77].
Sang thời Edo (1600-1868), các truyện ngắn (monogatari) trở nên phổ
biến trong giới thị dân. Các tác giả lừng danh như Ihara Saikaku (1641-1693)
với Người đàn ông đa tình, Năm người đàn bà đa tình…, Chuyện kể từ tỉnh lẻ
của Ueda Akinari (1734-1809)… Văn chương thời Edo thể hiện nhân sinh
quan gói gọn trong hai chữ “phù thế” (ukiyo)- nghĩa gốc là thế giới vô
thường, phù du. Sang thời Edo, khái niệm này chỉ sự đam mê, tận hưởng từng
giây phút quí giá trong cuộc đời ngắn ngủi. Ihara Saikaku là người mang lại ý


nghĩa đầy đủ nhất cho khái niệm “ukiyo”- không còn là cảm thức bi quan mà
là niềm vui sống hết mình trong cuộc đời đẹp đẽ lẫn đắng cay. Truyện của
ông xoay quanh hai đề tài tình và tiền, nhân vật có khi đa tình đến mức cực
đoan. Tác phẩm của Saikaku là những bức tranh muôn màu về đời sống xã
hội thị dân Nhật Bản thời kì này: “Có thể ông thiếu chiều sâu tâm lí mà tác
phẩm của Murasaki đã cho ta thấy, nhưng ông đã nói lên tiếng nói đầu tiên
chân thật và tài tình về những con người bình thường. Ông cũng là tấm
gương của thời đại mình, một tấm gương không đẹp nhưng có thực” [11,

tr.155].
Vào cuối thế kỉ XIX, văn chương Nhật nói chung và đặc biệt là thể loại
tự sự hầu như lâm vào bế tắc vì cạn kiệt đề tài cũng như cảm hứng sáng tác.
Những tác phẩm có giá trị rất ít còn sách báo nhảm nhí, mua vui thì tràn lan.
Vì vậy văn học phương Tây khi vào đến Nhật đã được đón nhận một cách
mạnh mẽ. Có thể thấy, những năm đầu thế kỉ XX là khoảng thời gian quan
trọng trong sự phát triển của văn học Nhật Bản nói chung và truyện ngắn nói
riêng. Văn học tìm được nguồn cảm hứng mới để sáng tác và có những cách
tân ở nhiều phương diện. Thể loại truyện ngắn phát triển mạnh khi văn học
bước vào thời kì hiện đại. Khởi đầu của tiến trình này không tránh khỏi việc
mô phỏng, lấy ý tưởng từ các sáng tác của nước ngoài. Ví dụ truyện Xé rào
(Shimazaki Toson) có nhân vật người thầy giáo che giấu thân phận thấp hèn.
Cho đến một ngày, vì cương quyết chống lại thành kiến bất công trong xã hội,
thầy đã để lộ thân phận. Cốt truyện này ảnh hưởng từ Xưng tội (Confessions)
của Jean-Jacques Rousseau và Tội ác và hình phạt (Dostoievski). Hoặc nhân
vật người phụ nữ trong Một người đàn bà (Arishima Takeo) là hình ảnh Anna
Karenina trong tiểu thuyết cùng tên của Lep Tolstoi.
Dần dần, sau những bước đi chập chững, truyện ngắn Nhật đã khởi sắc
với những đặc trưng mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.


Ngoài Akutagawa, một số tác gia lớn của văn học Nhật Bản hiện đại có
những sáng tác truyện ngắn trong giai đoạn 1868-1945 là Mori Ogai (18621922), Natsume Soseki (1867-1916), Arishima Takeo (1878-1923), Shiga
Naoya (1883-1971), Tanizaki Junichiro (1886-1965), Yokomitsu Riichi
(1898-1947), Kawabata Yasunnari (1899-1972), Dazai Osamu (1909-1948)…
Trong số những nhà văn trên, Shiga Naoya cùng với Akutagawa
Ryunosuke được đánh giá là “hai đỉnh cao về truyện ngắn” [58, tr.397]. Tuy
nhiên, xét về tầm vóc thì Akutagawa vẫn nổi trội hơn hẳn. Số lượng tác phẩm
lớn, đề tài phong phú, kĩ thuật viết độc đáo cũng như những thể nghiệm mới
lạ là những yếu tố quyết định sự vượt trội đó. Ngoài hai tác giả trên, truyện

ngắn không phải là ưu tiên hàng đầu trong sự nghiệp sáng tác của các nhà
văn. Đó chỉ là khởi điểm khi họ bước chân vào con đường văn chương. Tác
phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp của các nhà văn hầu hết là tiểu thuyết. Ví dụ
Mori Ogai chuyên viết tiểu thuyết lịch sử, Natsume Soseki thành công với
tiểu thuyết tâm lí, Tanizaki quan tâm tiểu thuyết lịch sử phong tục, Dazai
Osamu gắn bó với tiểu thuyết tự thuật… Nhìn chung, truyện ngắn chiếm số
lượng ít trong sự nghiệp của họ.
Có thể nhận thấy một số đề tài nổi bật của truyện ngắn thời kì này. Thu
hút được nhiều sự quan tâm là đề tài hiện thực đời sống với những xung đột
văn hóa khi văn minh phương Tây xâm nhập Nhật Bản. Chủ trương của văn
học thời kì này là: “Văn học phải gắn bó với hiện thực- hiện thực ngoài xã
hội và hiện thực trong lòng người, văn học chủ yếu viết về cái hiện tại, về con
người bình thường, cái đời thường với một nhãn quan khoa học” [20, tr.17].
Các truyện tiêu biểu gồm Seibei và quả bầu (1912), Cái chết của vợ người
phóng dao (1913), Vị thần của thằng nhỏ giúp việc (1920)- Shiga Naoya;
Truyện trong lòng bàn tay- Kawabata (1916-1945); Hanako (1910), Đang
trùng tu (1910)- Mori Ogai; Một chùm nho (1920)- Arishima Takeo; Con ruồi


×