Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 164 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KHUYÊN

t­ t­ëng hå chÝ minh vÒ ®¹o ®øc c«ng chøc
vµ vËn dông t­ t­ëng ®ã trong x©y dùng ®¹o ®øc
c«ng chøc ë viÖt nam hiÖn nay
Chuyên ngành

: Đạo đức học

Mã số

: 9 22 90 06

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN PHÚC

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, tư liệu trong luận án đều được khai
thác từ các tài liệu có nguồn gốc rõ ràng; những phát
hiện nêu trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả
luận án.
Tác giả luận án



Nguyễn Thị Khuyên


MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

5

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức

5

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam hiện nay

9

1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả của
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong
xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay


17

1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục làm
rõ trong luận án
Chương 2: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC

24
27

2.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức công chức, đạo đức công chức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức

27
41

2.3. Nội dung cơ bản của đạo đức công chức và những nguyên tắc
xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh

52

2.4. Giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức

65

Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÔNG CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG
CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ

NGUYÊN NHÂN

70

3.1. Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức hiện nay

70


3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay

79

Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC CÔNG CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC
CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

118

4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức vị trí tầm
quan trọng, nội dung của giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
về công chức cho đội ngũ công chức hiện nay

118

4.2. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cải cách, tinh giảm,

làm trong sạch bộ máy công chức hiện nay

128

4.3. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công
dân, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường vai trò
giám sát phản biện của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với
hoạt động của bộ máy hành chính các cấp

134

4.4. Nâng cao tính tự giác học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh

142

KẾT LUẬN

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

152


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vĩ đại khi Người bàn về đạo đức và càng vĩ
đại khi Người thực hành đạo đức. Tư tưởng đạo đức và tấm gương trong sáng
của Người là giá trị tinh thần vô giá của các thế hệ người Việt Nam học tập, noi
theo. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức để xây dựng
đạo đức công chức hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự
nghiệp trồng người của Đảng. Trong đó cán bộ công chức vừa là đối tượng vừa
là chủ thể của quá trình này.
Đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam là bộ phận rường cột của hệ thống
chính trị, vì thế, đạo đức của họ góp phần quan trọng, quyết định khả năng vận
hành của bộ máy nhà nước và tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối
với Nhà nước.
Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về
quy chế công chức, bước đầu xác định các vấn đề cơ bản về đội ngũ, vị trí, vai
trò, nhiệm vụ và những yêu cầu năng lực, phẩm chất đối với đội ngũ cán bộ công
chức trong xã hội mới.
Từ đó, đội ngũ cán bộ công chức đã phát huy được vai trò của mình cùng
toàn thể nhân dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến - kiến quốc, làm nên những
kỳ tích vẻ vang của dân tộc Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XX. Bước sang thời kỳ
đổi mới, ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ công chức
trong nền hành chính quốc gia, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh cán bộ công
chức và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua, Chủ tịch nước ký Lệnh
công bố ngày 9 tháng 3 năm 1998, và sửa đổi năm 2000, 2003. Luật Cán bộ công
chức đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ
họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008.
Sau hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ công
chức vừa có đức, vừa có tài, tư duy năng động và sáng tạo đã hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Tuy nhiên, trước một thực tế hiện nay, một bộ phận cán bộ công
chức đã không giữ vững được đạo đức cách mạng, thiếu ý thức chấp hành pháp
luật, thiếu ý thức tự giác học tập đạo đức, từ đó đi đến độc đoán, chuyên quyền,

1


hách dịch lên mặt "quan cách mạng", tạo bè tạo cánh lợi dụng địa vị, chức quyền
để mưu cầu lợi ích riêng. Họ đã trở thành sâu mọt của dân, vì thế việc xây dựng
đạo đức cách mạng, đạo đức công chức cho đội ngũ này theo tư tưởng Hồ Chí
Minh để họ hoàn thành tốt trách nhiệm của mình trước nhân dân là một yêu cầu
bức thiết. Hơn nữa, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
trong xây dựng đội ngũ này không chỉ xuất phát từ sự suy thoái đạo đức lối sống
của một bộ phận cán bộ công chức hiện nay mà còn định hướng phát triển lâu
dài trong tương lai với tầm nhìn, hành động, chiến lược.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu, yêu cầu cải cách hành
chính và rộng hơn là yêu cầu đổi mới chính trị đòi phải có được đội ngũ công
chức phát triển toàn diện vừa "hồng" vừa "chuyên", nhân cách phong phú, đáp
ứng được yêu cầu hết sức nặng nề nhưng hết sức vẻ vang mà đất nước đang đặt
lên vai họ. Ở đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức là cơ sở thế giới
quan, phương pháp luận, là kim chỉ nam định hướng trong công tác xây dựng
đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó
đặc biệt là tư tưởng đạo đức của Người là điều cần thiết, ở đó có những giá trị
đạo đức mà cán bộ, công chức hiện nay nên biết tới, học tập và vận dụng trong
việc lựa chọn quan điểm sống và phong cách sống của mình.
Người cán bộ công chức phải luôn là một gương sáng về đạo đức. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khái quát đạo đức ấy ở 8 chữ "cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư". Mỗi cán bộ nếu nhận thức đúng vị trí của mình, giữ đúng phẩm chất
cách mạng và chuẩn mực đạo đức sẽ làm cho bộ máy tổ chức luôn có được sự
trong sạch, đoàn kết, vững mạnh, ở đó không có chỗ để những quốc nạn như
quan liệu, tham nhũng, lãng phí có thể tồn tại.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu về đạo đức công chức nói chung và
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đạo đức công chức

trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy,
tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam
hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học của mình.
2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng và thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức ở Việt Nam. Luận án đưa ra một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, luận án đã khái
quát tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Thứ hai, làm rõ một số nội dung cơ bản xung quanh tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức công chức.
Thứ ba, phân tích thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay và
nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức
công chức ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: đối tượng nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt
Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Luận án nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
+ Thời gian khảo sát tính từ năm 1986 đến nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam
về đạo đức, công chức và đạo đức công chức. Đồng thời luận án có kế thừa một
3


số thành tựu của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan
đến luận án.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp luận chung
nhất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic,
thống kê, đối chiếu, so sánh… ngoài ra luận án còn sử dụng kết quả nghiên cứu
điều tra xã hội học của các công trình đã công bố liên quan đến đề tài.
5. Cái mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ cơ sở hình thành, nội dung và giá trị lý luận, ý
nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
- Luận án chỉ ra thực trạng xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện
nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần nâng cao việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền
hành chính nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục

vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy vấn đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức công chức, xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 14 tiết.

4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Công chức là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công của công
cuộc cải cách nền hành chính Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đạo đức công chức luôn là vấn đề được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm hàng đầu nhằm đảm bảo hoàn thiện nền hành chính và là
giải pháp hữu hiệu xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Những vấn đề này đã được các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực
tiễn nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau tùy theo từng mục đích đặt ra. Có
thể hệ thống hóa một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
ở một số vấn đề cơ bản sau:
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức
Ở nước ta, trong thời gian vừa qua có nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học, các nhà quản lý liên quan đến vấn đền này. Điển hình phải kể đến
các công trình nghiên cứu sau:
Tác giả Đức Vượng: "Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ" Nxb Chính
trị quốc gia Hà Nội, 1995 [115]. Tác giả đã trình bày quan điểm, tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, vấn đề dùng người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự

nghiệp cách mạng và đối với công tác xây dựng Đảng bởi "cán bộ là cái gốc của
mọi công việc". Vì vậy, chúng ta phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
người có ích cho công việc chung của chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải thực sự trung thành với Tổ quốc
và nhân dân; kiên quyết làm đúng chính sách, nghị quyết của Đảng; cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, trung thực, khiêm tốn, giản dị, gương mẫu trước
nhân dân, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, đi sâu đi sát thực tế, gần gũi
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đủ năng lực phụ
5


trách, giải quyết những công việc được giao phó; tích cực học tập, rèn luyện,
không ngừng nâng cao trình độ và năng lực công tác.
Vấn đề đạo đức công vụ cũng thu hút sự quan tâm của tác giả Trần Văn
Phòng (2003), Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 [81]. Tác giả cho rằng tiêu chuẩn cán bộ được xác
định tùy thuộc vào nhiệm vụ chính trị của từng thời kì.Mỗi thời kỳ sẽ có những
tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể. Với nhiệm vụ chính trị của Đảng ta hiện nay, trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, lãnh đạo xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì
tiêu chuẩn chung của cán bộ là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng. Có đạo đức, lối
sống lành mạnh, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Có
tư duy đổi mới, sáng tạo. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nắm chắc
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Có kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý
thức tổ chức kỷ luật. Có phong cách làm việc khoa học, gắn bó với nhân dân.
Tác giả Thành Duy và Lê Quý Đức (2007) "Học tập tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh - Xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay", Nxb Lý luận Chính trị,
Hà Nội [21]. Các tác giả đã hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và khẳng
định: Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp

giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; đạo đức Hồ Chí
Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Tác giả Hoàng Trung (2010) "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua các
phạm trù mà Người sử dụng", Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
[106], tác giả đã chỉ ra những phạm trù đạo đức cơ bản mà Hồ Chí Minh sử dụng,
vận dụng và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Từ đó, tác giả nhấn mạnh mỗi người Việt Nam cần phải tiếp tục
tuyên truyền, giáo dục và thực hiện ngày càng sâu rộng trong các phạm trù đạo đức
mà Người đã sử dụng, thường xuyên đấu tranh chống lại các biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân.
6


Cũng nghiên cứu về vấn đề này, các tác giả Nguyễn Đăng Thành, Võ Kim Sơn
(chủ biên, 2012) giáo trình "Đạo đức công vụ" Nxb Lao động [95], gồm 7 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đạo đức, tác giả cũng đề cập đến mối
quan hệ giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác; những khía cạnh liên
quan đến đạo đức cá nhân; đạo đức tổ chức và đạo đức xã hội.
Chương 2: Đạo đức người làm việc cho nhà nước và tư tưởng Chủ tịch Hồ
Chí Minh về đạo đức. Các tác giả cho rằng, đạo đức người làm việc cho nhà nước
phải trở thành tấm gương; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước; chấp hành
một cách tự giác những nét biểu hiện văn hóa đạo đức được xã hội tôn trọng.
Chương 3: Đạo đức nghề nghiệp. Tác giả cho rằng: Đạo đức nghề nghiệp
chính là tập hợp tất cả những hành vi được coi là phù hợp với các nhân viên,
người lao động trong một công ty, doanh nghiệp.
Chương 4: Đạo đức thực thi công vụ của công chức, đạo đức thực thi công
vụ của công chức. Tác giả đã nhấn mạnh các yếu tố đạo đức công vụ là công
việc và con người thực thi công việc đó. Đạo đức công vụ trước hết được hình
thành từ đạo đức cá nhân của công chức; đạo đức công vụ được hình thành từ
khía cạnh đạo đức xã hội của công chức, đạo đức công vụ là đạo đức nghề

nghiệp đặc biệt - công vụ của công chức….đạo đức thực thi công vụ là sự hài
hóa của các giá trị.
Chương 5: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thực thi công vụ: Đạo đức
công vụ trước hết là đạo đức cách mạng: trung với nước, hiếu với dân; cần,
kiệm, liêm, chính; chí công vô tư, nhân, nghĩa, trí, dũng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng đề cập một nội dung mới, phản ánh đạo
đức cao rộng hơn là "trung với nước hiếu với dân". Đó là một cuộc cách mạng
trong quan niệm đạo đức. Nội dung chủ yếu của "trung với nước" là: trong mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng,
của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết; Quyết tâm phấn đấu thực
hiện mục tiêu cách mạng; Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
7


Một phẩm chất đạo đức nữa luôn gắn liền với những hoạt động hàng ngày
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và luôn được đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất là
Cần Kiệm - Liêm Chính - Chí Công - Vô Tư. Hồ Chí Minh đã sử dụng những
khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo
đức truyền thống Việt Nam.
Chương 6: Pháp luật về đạo đức công vụ. Tác giả đưa ra những nguyên tắc
chung để xây dựng pháp luật về đạo đức công vụ:
Chương 7: Pháp luật về đạo đức của một số nước lựa chọn như: Trung Quốc,
Liên Bang Nga, Thái Lan, và đạo đức công vụ của các nước thuộc khối OECD.
Tác giả Vũ Khiêu (2014) - một học giả lớn đã có nhiều công trình, bài viết
về tư tưởng Hồ Chí Minh cho ra đời cuốn "Học tập đạo đức Bác Hồ", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội [48]. Cuốn sách trình bày ngắn gọn, súc tích nhưng
vô cùng sâu sắc về tấm gương, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, về vấn đề học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của nhân dân
ta ngày nay. Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập, phân tích sâu sắc, minh

chứng rõ ràng về nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong một số lĩnh vực,
đó là: Đạo đức trong lao động, đạo đức trong chiến đấu, đạo đức trong học tập…
Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, "Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
sử dụng cán bộ" Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2013 [20]. Tác giả đã chỉ ra quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách sử dụng cán bộ như: phải khéo dùng
cán bộ. Trong công tác cán bộ phải "khéo dùng", là phải dùng đúng người, đúng
việc, đúng năng lực, sở trường, làm cho cán bộ vui vẻ, thoải mái, yên tâm công
tác và hăng hái thi đua cống hiến sức mình cho sự nghiệp cách mạng. Phải tin
tưởng, yêu thương, giúp đỡ cán bộ. Tin tưởng cán bộ là sự tôn trọng phẩm chất,
năng lực của cán bộ. Tin tưởng trao việc cho họ, "thả cho họ làm", "thả cho họ
phụ trách", không bao biện làm thay. Có như vậy, họ mới phấn khởi, mạnh dạn,
tin vào năng lực của mình, dám làm dám chịu trách nhiệm.
Phải kết hợp giữa cán bộ lớn tuổi và cán bộ trẻ, lớp cán bộ cũ và cán bộ
mới, tạo nguồn cán bộ kế cận để bảo đảm sự chuyển giao công việc, phải bồi
8


dưỡng cán bộ cách mạng cho đời sau vượt qua khó khăn để vươn lên hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Trong công tác cán bộ, cần phải chú trọng thực hiện việc luân
chuyển cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
của cán bộ. Thông qua thực tiễn để rèn luyện, thử thách cán bộ, làm cho cán bộ
thích ứng với nhiệm vụ Đảng giao, phát huy năng lực của mình ở mức cao hơn
trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Qua việc luân chuyển cán bộ, phát hiện được
điểm mạnh, điểm yếu của họ về năng lực và phẩm chất để từ đó bổ nhiệm công
tác phù hợp hơn.
Trách nhiệm của công chức là phạm trù quan trọng trong đời sống xã hội,
từ trách nhiệm đối với bản thân, đối với cộng đồng xã hội mà mỗi cán bộ, công
chức đều phải đảm trách một công việc nhân danh công quyền, nhất định phải
thực hiện và gánh vác.
Như vậy, các công trình trên đã nghiên cứu đạo đức công chức ở những

khía cạnh khác nhau nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết của
thực tiễn đạo đức công chức trong nền công vụ Việt Nam và góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn của đạo đức công chức ở nước ta hiện
nay. Những công trình này ở một mức độ nhất định đã đề cập đến một số
phương diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Những công
trình đó đã gợi mở cho tôi nhiều ý tưởng quan trọng, đồng thời là nguồn tư
liệu quý báu trong quá trình tôi thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, những
công trình trên do khuôn khổ và mục đích riêng, chưa làm sáng tỏ được tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức, cũng như chưa vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức trong
điều kiện hiện nay.
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt
Nam hiện nay
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, vấn đề văn hóa, tư tưởng, đạo đức, đạo đức công chức cũng
9


được quan tâm cả trên lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn. Điển hình là các công trình
nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức:
Cuốn sách "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán
bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Cuốn
sách được biên soạn trên cơ sở hội thảo khoa học: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay". Các tham luận đã
đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản như: cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, công tác đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí, sử dụng và chính sách cán bộ… các ý kiến tham luận đã làm rõ thêm
sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay đồng thời đưa ra những giải pháp, những kiến nghị nhằm góp phần đổi mới

công tác tổ chức và đào tạo cán bộ trong thời gian tới.
Tác giả Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên, 1999) "Sự biến đổi thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới chi cán bộ quản
lý ở nước ta hiện nay" Nxb Chính trị quốc gia [75], gồm ba phần:
Phần 1, Đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường
Phần 2, Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Phần 3, Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị
trường phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới, tác giả
đưa ra yêu cầu đối với cán bộ quản lý trong đó có công chức: tác giả đã phân tích sự
thoái hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh hưởng đến
uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, tổn thương mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân, hạ thấp sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những biểu hiện rõ nhất của sự thoái hóa về đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý là chủ nghĩa
cá nhân, cục bộ, thực dụng, đang có xu hướng gia tăng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ về tác hại của chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa cá nhân đẻ trăm thứ bệnh
nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí...
10


Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên, 2003),
"Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội [14]. Cuốn sách gồm ba phần:
Phần 1: Những tác động của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức. Các tác
giả đã phân tích những tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội Việt
Nam hiện nay và khẳng định kinh tế thị trường đang có những tác động tích cực
và tiêu cực tới đời sống đạo đức xã hội Việt Nam. Tác động tích cực của kinh tế
thị trường là làm cho con người chủ động, tích cực, ý thức trách nhiệm của mỗi
cá nhân không ngừng được nâng lên. Những tác động tiêu cực của nền kinh tế

thị trường đến đời sống đạo đức xã hội Việt Nam như: lối sống chạy theo đồng
tiền, thực dụng, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng; điều đó cũng tác động đến
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức. Kinh tế thị trường đòi hỏi
và tạo điều kiện cho công chức thực hiện công vụ tốt hơn. Nhưng mặt trái của
kinh tế thị trường cũng khiến nhiều công chức sa ngã, chạy theo lợi ích cá nhân,
tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức.
Phần 2: Vai trò của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. Các tác giả
đã lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển
kinh tế - xã hội, yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức mới thích ứng với
kinh tế thị trường.
Phần 3: Xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay. Các tác giả phân tích những giải pháp kinh tế, xã hội và những giải pháp
giáo dục trong việc xây dựng đạo đức vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị ụ một cách liêm chính. Lượng tiền này không
được trả thường xuyên cho công chức, mà nó được tích luỹ cho đến khi nào công
chức không còn tham gia phục vụ nền công vụ (về hưu, bệnh tật, thôi việc hợp
pháp,...) mới được trả.
Việc cải cách cơ bản hệ thống thang, bảng, ngạch, bậc lương công chức
phải chú trọng đến kết quả đầu ra của hoạt động công vụ; phân biệt rõ đặc điểm,
tính chất của từng loại hình công vụ; đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng. Có thực hiện
tốt nguyên tắc này thì tiền lương mới thực sự có tác dụng thúc đẩy công chức
phấn đấu nâng cao năng lực thực thi công vụ hơn là chỉ phấn đấu để có bằng cấp
cao nhưng chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ lại yếu kém.
Cùng với chính sách tiền lương hợp lý, cần xây dựng chế độ tiền thưởng
thường xuyên và đột xuất thỏa đáng, đối với công chức hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
145



việc quyết định chi tiền thưởng cho công chức dưới quyền. Chuyên viên cao cấp,
chuyên viên chính nhưng chỉ làm được việc của chuyên viên, chỉ được hưởng
lương chuyên viên và ngược lại? Do đó, tất yếu phải xây dựng cơ cấu công chức
của nền công vụ theo vị trí công việc, mỗi loại vị trí công việc tương ứng với
một mức lương phù hợp.
Như vậy, bên cạnh việc đòi hỏi công chức phải đạt được những tiêu chuẩn
về đạo đức, năng lực thì cần phải có những điều kiện để công chức yên tâm, tận
tụy làm việc kể cả các điều kiện về kinh tế, điều kiện được học tập nâng cao
nghiệp vụ. Ngoài việc đảm bảo mức lương thoả đáng cho công chức mà Nhà
nước ấn định nên có thêm những mức lương mềm khuyến khích cho những
người thực sự có tài, có đóng góp đặc biệt, đột xuất như: sáng kiến đem lại
hiệu quả cao trong công việc, cải cách cơ chế quản lý có hiệu quả về mặt kinh
tế, xã hội.
4.4.2. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng người cán bộ công chức phát
triển toàn diện vừa hồng vừa chuyên
Đạo đức cán bộ của người công chức được hình thành và phát triển đó là
sự thống nhất giữa những nhân tố tác động bên ngoài và sự vận động bên trong
của mỗi cá nhân, giữa chủ quan và khách quan, giữa cá nhân công chức và xã
hội. Môi trường xã hội thuận lợi cùng những tác động tích cực của Đảng, Nhà
nước, các đoàn thể và nhân dân tới đạo đức người cán bộ công chức chỉ có tác
động tích cực khi bản thân họ tự giác tiếp thu, rèn luyện và làm theo. Vì thế, để
các chuẩn mực đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành những
nhân tố trong cấu trúc bên trong trong nhân cách đạo đức người công chức thì
việc tự giác rèn luyện của chính đội ngũ công chức có ý nghĩa quyết định trực
tiếp. Để nâng cao tính tự giác rèn luyện của đội ngũ công chức, cần thực hiện
một số biện pháp sau:
Một là; nâng cao nhận thức cho cán bộ công chức về tầm quan trọng của
việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và sự cần thiết cảu
việc quán triệt tư tưởng đó trong quá trình thực tthi công vụ

146


Hai là; cần đẩy mạnh việc tự giác học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức
công chức cho cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là; coi trọng và sử dụng thường xuyên vũ khí phê bình và tự phê bình,
việc phê bình và tự phê bình phải được triển khai một cách đúng đắn nghiêm túc,
thường xuyên, có lý có tình. Người cán bộ công chức có hy vọng nâng cao, giác
ngộ trình độ đạo đức công chức của mình cần phải nghiêm túc tự giác phê bình
và tự phê bình, đây là một trong những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
của Hồ Chí Minh.
Bốn là; cần tổ chức tốt các phong trào tôn vinh, phát huy các giá trị văn hóa,
lối sống, đạo đức công chức, phát hiện những nhân tố mới, điển hình trong công tác
giáo dục đạo đức cho đội ngũ công chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Năm là; thường xuyên đấu tranh phê phán với các hiện tượng phản giá
trị, lối sống thực dụng cá nhân, tha hóa, xa rời với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Kết luận chương 4
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng
đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, nhất là trong bối cảnh đạo đức xã hội như hiện nay. Từ thực trạng vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của việc vận dụng này:
Một là, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, công chức về việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng nền hành
chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh có hiệu lực, hiệu quả; Hoàn
thiện và nâng cao vai trò của pháp luật trong việc thực thi công vụ góp phần nâng
cao hiệu quả của xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ
máy công chức.
147


Ba là, phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân,
năng lực làm chủ, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường vai trò giám
sát phản biện của các tổ chức xã hội đối với hoạt động của bộ máy hành chính
các cấp
Bốn là, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi công chức tự rèn
luyện phấn đấu nâng cao đạo đức trong thực thi công vụ.
Có thể thấy, những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở
Việt Nam kể trên có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau. Vì vậy
chúng cần được thực hiện một cách triệt để và đồng bộ. Có như vậy mới khắc
phục được tình trạng suy thoái đạo đức lối sống của cán bộ công chức, để tiếp
tục xây dựng những phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, công chức
trong giai đoạn phát triển đất nước trên con đường "vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội".

148


KẾT LUẬN
Ở nước ta những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về đạo
đức công chức. Tuy nhiên, những công trình này đề cập đến vấn đề đạo đức
công chức dưới những góc độ, khía cạnh khác nhau. Trên cơ sở tổng quan các
tài liệu nghiên cứu liên quan đến đạo đức công chức, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nghiên cứu đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và
vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay

mang ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết thực trạng vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong công cuộc cải cách hành chính vẫn
còn nhiều khoảng trống cần nghiên cứu thấu đáo hơn. Trong quá trình thực thi
công vụ đã xuất hiện nhiều tấm gương công chức tiêu biểu điển hình cho lối
sống giản dị, liêm khiết trong công cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu
cực của xã hội. Tinh thần thái độ của công chức trong phục vụ người dân có
nhiều chuyển biến tích cực dựa trên những cơ sở pháp lý ngày một khoa học, đây
chính là điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cũng còn
tồn tại những yếu kém của công chức trong thực thi công vụ. Biểu biện của sự
hạn chế, yếu kém là tình trạng quan liêu ngày càng gia tăng, tệ tham nhũng xảy
ra nghiêm trọng, thủ đoạn tham nhũng ngày càng trắng trợn, lợi dụng sơ hở hoặc
chưa đầy đủ của cơ chế, chính sách, pháp luật, sự buông lỏng của quản lý, kiểm
tra của cơ qua nhà nước. Điều này đã phản ánh sự yếu kém của đội ngũ công
chức trong việc giải quyết công việc của cá nhân, của tổ chức. Muốn khắc phục
một cách có hiệu quả những yếu kém này và phát huy những thành tựu đã đạt
được trong thời gian qua chúng ta cần nhận thức rằng việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức để xây dựng đội ngũ công chức trong bối cảnh
hiện nay là tất yếu khách quan nhằm xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp
149


với đội ngũ công chức vừa có đạo đức, vừa có trình độ chuyên môn để phục vụ
nhân dân ngày càng hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân dân
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng và rèn
luyện đạo đức công chức theo những chuẩn mực của Người đòi hỏi mỗi cán bộ,

công chức phải có khả năng tiếp thu và thực hành những chuẩn mực đạo đức
chung trong thực thi công vụ. Trong bối cảnh hiện nay mỗi cán bộ, công chức trong
quá trình thực hiện công việc của mình phải thực hiện tốt những chuẩn mực cơ bản
trong đạo đức nghề nghiệp đó là: trung thực, tôn trọng pháp luật, tận tụy với công
việc, tiết kiệm, thực hiện liêm, chính, có lương tâm trong sáng, không ngừng học
tập sáng tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và cải thiện điều kiện làm việc, giúp
đỡ đồng chí, đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công việc.
Xây dựng đạo đức công chức gắn liền với yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, chú trọng đến việc rèn luyện đạo đức
cho đội ngũ công chức trong đời sống hàng ngày góp phần quan trọng trong việc
lấy lại niềm tin của nhân dân vào đội ngũ công chức nhằm xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân đại diện cho nguyện vọng, ý chí và quyền
lực của nhân dân. Tri thức là sức mạnh, sự thống nhất giữa tri thức khoa học và
tình cảm cách mạng là yêu cầu tất yếu của người cán bộ công chức. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất chú ý đến giáo dục rèn luyện đức và tài cho cán bộ đảng viên, trong
đó đức là gốc. Cán bộ của Đảng và Nhà nước không phải là "quan" cách mạng,
đứng trên quần chúng, cho nên phải rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính, trí công vô tư
để hoàn thiện nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao cho. Tư tưởng đạo
đức của Hồ Chí Minh mãi mãi là chân lý, là kim chỉ nam soi sáng quá trình giáo
dục, tự giáo dục và xây dựng đạo đức của người cán bộ công chức hiện nay.

150


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.

Nguyễn Thị Khuyên (2017), "Nâng cao đạo đức công chức nhằm đáp ứng

yêu cầu cải cách hành chính", Tạp chí Quản lý nhà nước, (257), tr.47-51.

2.

Nguyễn Thị Khuyên (2017), "Xây dựng chuẩn mực đạo đức công chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Giáo dục, (410), tr.1-3, 9.

3.

Nguyễn Thị Khuyên (2017), "Tình cảm đạo đức - cơ sở cho sự phát triển
nhân cách con người", Tạp chí Mặt trận, (166-167), tr.115.

4.

Nguyễn Thị Khuyên (2018), "Những nguyên tắc xây dựng đạo đức công
chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn", Tạp
chí Lao động và Công đoàn, (643), tr.40-41

5.

Nguyễn Thị Khuyên (2018), "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - sự kết hợp
giữa truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại", Tạp chí Giáo dục và Xã
hội, Số 90(151), tr.80-84

151


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Hoàng Anh (Chủ biên) (2009), Mãi mãi học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2.

Phạm Ngọc Anh (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội

3.

Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2015), Phong cách làm việc Hồ Chí Minh giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

4.

Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã
hội mới - giá trị lí luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

5.

Ban Chỉ đạo Trung ương (2010), Tổng kết 4 năm triển khai cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Hà Nội.

6.

Ban Chỉ đạo cải cách hành chính Chính phủ (2016), Tài liệu hội nghị sơ kết
công tác cải cách hành chính giai đoạn 2011 -2015 và triển khai kế hoạch
cải cách hành chính giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.

7.


Vũ Đình Bách (2010), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8.

Hoàng Chí Bảo (2011), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
- Hành chính, Hà Nội.

9.

Bộ Chính trị (2015), Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị
về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, Hà Nội.

10. Ngô Thành Can (2010), "Xây dựng tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán
bộ công chức", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (4).
11. Ngô Thành Can (2017), "Chất lượng thực thi công vụ - Vấn đề then chốt
của cải cách hành chính", tại trang />News/71 /0/1010103/0/5625/Chat_luong_thuc_thi_cong_vu_Van_de_then_
chot_cua_cai_cach_hanh_chinh, truy cập ngày 16/4/2017.
12. Chính phủ (2011), Báo cáo tổng kết thực hiện chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và chương trình cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
152


13. Chính phủ (2016), Báo cáo số 289/BC-CP của Chính phủ về công tác
phòng chống tham nhũng năm 2016, Hà Nội.
14. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Đồng chủ biên) (2003), Mấy vấn đề
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Cao Minh Công (2011), "Đạo đức công chức là một bộ phận của đạo đức

học ứng dụng", Tạp chí Giáo dục lý luận, (10), tr.58-61.
16. Cao Minh Công (2012), Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước
ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Cao Minh Công (2013), Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công
chức trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo khoa học, Học
viện Hành chính, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Hồng Doan (2015), Vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù
cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Luận
án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Lê Đăng Doanh (2010), "Một số vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
ở Việt Nam", trong sách: Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Kim Dung (2013), "Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
sử dụng cán bộ", Tạp chí Lý luận chính trị, (6).
21. Thành Duy, Lê Quý Đức (2007), Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153


26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng xuất bản.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng
kết (2015), Báo cáo một số vấn đề lí luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
30. Trần Thị Anh Đào (2016), Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện "tự diễn biến" , "tự chuyển hóa" trong nội bộ thực trạng và giải pháp, Tham luận hội thảo, Hội đồng lý luận Trung ương,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
31. Nguyễn Trọng Điều (2003), "Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ
công chức đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (18).
32. Võ Nguyên Giáp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh quá trình hình thành và
phát triển, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo (2002), Đạo đức trong
nền công vụ, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
36. Phạm Minh Hạc (2012), Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi
mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Lương Đình Hải (2004), "Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán bộ,
đảng viên trong thời kì đổi mới", Tạp chí Triết học, (5), tr.7-12.
38. Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - sự
hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154


39. Lê Thị Hằng (2009), "Vấn đề nâng cao đạo đức công chức trong cải cách
hành chính ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (6).

40. Lê Thị Hằng (2014), Đạo đức công chức và vấn đề xây dựng đạo đức công
chức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
41. Vũ Gia Hiền, Nguyễn Hữu Hoạt (2007), Đạo đức trong quản lý hành chính
công, Nxb Lao động, Hà Nội.
42. Vũ Gia Hiền (2009), Đạo đức trong quản lý hành chính công, Nxb Lao
động, Hà Nội.
43. Vũ Quốc Hùng (2006), Tham luận về 5 suy thoái đạo đức, lối sống của
đảng viên, Hà Nội.
44. Trần Đình Huỳnh (2005), Hồ Chí Minh kiến trúc sư lỗi lạc của nền hành
chính nhà nước Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
45. Trần Đình Huỳnh (2016), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để góp
phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ - thực
trạng và giải pháp, Tham luận tọa đàm khoa học, Hội đồng Lý luận Trung
ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
46. Phan Kiều Thanh Hương (2010), "Đạo đức công vụ trong hoạt động quản
lý nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (15).
47. Nguyễn Hữu Khiển (2003), "Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức
công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết
học, (10).
48. Vũ Khiêu (2014), Học tập đạo đức Bác Hồ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Thế Kiệt (2005), Đạo đức người cán bộ chính trị hiện nay. Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Nguyễn Thế Kiệt (2011), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
155



×