BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TỐNG ĐỨC DUY
KIỂM SOÁT HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM
HẠN CHẾ CẠNH TRANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TỐNG ĐỨC DUY
KIỂM SOÁT HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM
HẠN CHẾ CẠNH TRANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ
từ Giảng viên hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Anh. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giải thu thập từ các
nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn
sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ
chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất
cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như
kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016
Tác giả
Tống Đức Duy
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
Viết tắt
Nghĩa Tiếng Việt
HCCT
Hạn chế cạnh tranh
JFTC
LCT
PP-BL
QLCT
RPM
SX-CC
TTHCCT
XHCN
WB
WTO
Uỷ ban thương mại lành mạnh Nhật Bản
Luật cạnh tranh
Phân phối - bán lẻ
Quản lý cạnh tranh
Ấn định giá bán lại
Nhà sản xuất - cung cấp
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh
Xã hội chủ nghĩa
Ngân hàng thế giới
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH
Trang
Bảng 1. Bảng số liệu thống kê số vụ việc hạn chế cạnh tranh
giai đoạn 2006 - 2015
53
Bảng 2. Bảng chi tiết về chương trình khoan dung tại Nhật Bản
63
Bảng 3. Quy trình xử lý vụ việc ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh
Phụ lục 01
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH
MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
4
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
5
8. Bố cục của luận văn
6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1.
Khái quát về hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
7
7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh
1.1.2. Các dạng hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.2.
7
13
Khái quát pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh
15
1.2.1. Sự cần thiết phải kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh
15
1.2.2. Khái quát pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh
17
1.2.3. Pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh của một số nước trên thế giới
21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI
ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.1.
29
Quy định pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam
2.1.1. Các loại hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
29
29
2.1.2. Chủ thể tham gia hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh...........................................................................................................35
2.1.3. Quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam
2.2.
38
Thực trạng thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
51
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong thực thi pháp luật về hành vi ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
51
2.2.2. Những hạn chế trong thực thi pháp luật về hành vi ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh
55
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH
TRANH Ở VIỆT NAM
3.1.
67
Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm
soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
67
3.1.1. Pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh phải phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường và hướng tới
mục đích đảm bảo duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh
67
3.1.2. Pháp luật về kiểm soát hành vi hành vi ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh phải gắn liền với việc đảm bảo quá trình mở cửa hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực
68
3.1.3. Pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh phải đảm bảo sự độc lập của bộ máy thực thi và sự đồng bộ với các
lĩnh vực pháp luật
3.2.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi
ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.
3.3.
69
71
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm
soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
75
3.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước nhằm kiểm soát hành
vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
75
3.3.2. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật nhằm kiểm soát hành vi ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh một cách hữu hiệu
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
80
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập nền kinh tế thế giới, cũng có nghĩa
là phải chấp nhận "luật chơi" của quốc tế, trong đó có cạnh tranh. Cạnh tranh
là một động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế vì nó là một trong ba
cột trụ của nền kinh tế thị trường (bao gồm cạnh tranh, sở hữu tư nhân và
quyền định đoạt cá nhân)1. Ở Việt Nam, từ sau 1986 thì nền kinh tế Việt Nam
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cho
nền kinh tế bao cấp, và trong nền kinh tế thị trường là nơi tồn tại của cạnh
tranh. Khi các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì cạnh tranh về giá là dạng
cạnh tranh phổ biến nhất. Người tiêu dùng thì luôn đứng vị trí trung tâm của
nền kinh tế thị trường sẽ lựa chọn sản phẩm có giá thành rẻ hơn với hai sản
phẩm họ đánh giá là như nhau. Vì vậy, nếu như cạnh tranh trong quá trình lâu
dài, các doanh nghiệp giảm giá thì ít nhiều họ sẽ phải chịu thua lỗ. Thế nên
thay vì cách cạnh tranh lành mạnh về giá, các doanh nghiệp có thể liên kết
thoả thuận với nhau xoá bỏ cạnh tranh và giữ ở một giá để thu lợi nhuận tốt
nhất. Điều đó dẫn tới xoá bỏ cạnh tranh lành mạnh và người tiêu dùng hoặc
những đối tượng mua hàng không được hưởng những lợi ích về việc lựa chọn
giá, về chất lượng sản phẩm và còn ảnh hưởng tới doanh nghiệp kinh doanh
chân chính. Đó là biểu hiện cho một hành vi thuộc nhóm hành vi ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh. Vì vậy pháp luật cạnh tranh cần phải kiểm soát
nhóm hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
Để kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh, Nhà nước
đã sử dụng rất nhiều biện pháp; trong đó biện pháp cơ bản là ban hành các
văn bản pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, các quy định về kiểm soát hành vi
ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh và chưa có
tính thực thi cao.
1 Bài viết : "Tầm quan trọng của Luật cạnh tranh" trong Hội thảo kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh
của Úc tháng 8/2015 - GS.TS. Tăng Văn Nghĩa
10
Vì vậy, việc nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định pháp luật về kiểm soát
hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh, từ đó kiến nghị các giải pháp
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi là vấn đề hết sức cấp bách.
Trên cơ sở những nhận định trên, tác giả quyết định lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh theo
pháp luật Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn tìm hiểu các
quy định pháp luật, đánh giá thực trạng về pháp luật cạnh tranh Việt Nam
hiện hành từ đó tìm ra những điểm còn chưa phù hợp và đề xuất các giải pháp
giúp hoàn thiện các quy định này, góp phần nâng cao hiệu kiểm soát hành vi
ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật Cạnh tranh là một trong những đạo luật quan trọng trong hệ thống
pháp luật về kinh tế, được gọi là "bản hiến pháp của nền kinh tế thị trường",
tuy nhiên ở Việt Nam, Luật này mới chỉ ra đời và có hiệu lực hơn mười năm.
Vì thế điều chỉnh pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh là vấn đề còn khá mới ở nước ta.
Về vấn đề chung của hạn chế cạnh tranh, có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học, các sách chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài viết trong các
tạp chí pháp luật của các luật gia : Đặng Vũ Huân, "Pháp luật về kiểm soát độc
quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam", Luận văn tiến sĩ
Luật học; Vũ Đặng Hải Yến, “Một số vấn đề về thoả thuận hạn chế cạnh
tranh”, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 6/2006; Đồng
Ngọc Giám (2006), “Kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh - Những vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Nguyễn Thị Bảo Nga (2012) "Kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường theo luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay", Luận
văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Về các cuốn sách chuyên khảo của thoả thuận hạn chế cạnh có trình bày
các kinh nghiệm của nước ngoài : TS. Nguyễn Thị Nhung (2012) “Pháp luật
11
điều chỉnh các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay (Sách
chuyên khảo), Nxb. Chính trị - hành chính, Hà Nội có nêu ra các vụ án lệ của
Hoa Kỳ, cũng như các nguyên tắc cơ bản của Luật cạnh tranh ; Cuốn sách Luật
chống độc quyền Nhật Bản và kinh nghiệm thực thi, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương (2007) giới thiệu về Luật
chống độc quyền Nhật Bản trong đó có nêu ra các quy định pháp luật của Nhật
Bản về kiểm soát hành vi ấn định giá và kinh nghiệm thực thi đóng góp những
bài học quý báu cho Việt Nam.
Về vấn đề kiểm soát hành vi ấn định giá, có công trình của ThS Mai
Duy Phước "Thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh", luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội (2012) . Công trình này
trình bày quy định pháp luật về thoả thuận ấn định giá, nhưng chưa đề cập tới
kiểm soát những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền để ấn định
giá.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận pháp luật về
kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở những phạm vi và
mức độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào đi
sâu nghiên cứu, phân tích những nội dung pháp lý về kiểm soát ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh. Do đó, tác giả thấy việc nghiên cứu, đánh giá để
góp phần cùng các công trình trước đây hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt
Nam là cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm pháp lý liên quan
đến việc xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, kiểm soát hành vi ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh và các văn bản pháp luật của Việt Nam cũng như
một số nước trên thế giới về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích, đánh giá
các quy định pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
12
tranh theo Luật cạnh tranh Việt Nam và thực tiễn áp dụng vào việc kiểm soát
hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn pháp luật về kiểm soát ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh, từ
đó đưa ra những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn
đề này.
Để thực hiện mục đích đó, mục tiêu đặt ra cho luận văn là:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm, đặc điểm liên quan đến ấn định
giá, hành vi hạn chế cạnh tranh và kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến những
nội dung cơ bản của kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
- Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên đưa ra một số kiến nghị về định
hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung những câu hỏi sau về vấn đề kiểm soát hành vi ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam :
Thứ nhất, tại sao phải đặt ra vấn đề kiểm soát bằng pháp luật hành vi ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh?
Thứ hai, việc kiểm soát có phù hợp với thực tiễn Việt Nam không và
có cần hoàn thiện thêm không?
Thứ ba, thực tế triển khai có hiệu quả và mang lại lợi ích cho xã hội
không, có khó khăn, vướng mặc cần khắc phục không?
13
Thứ tư, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực, hiệu quả
thực thi pháp luật ra sao?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp luận của triết
học Mác – Lê nin. Trên nền tảng các phương pháp đó, tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích – tổng hợp ở chương I và chương
II, lịch sử kết hợp với các phương pháp như thống kê ở chương II, so sánh
luật học ở chương I giữa những kinh nghiệm của các nước phát triển Luật
cạnh tranh như Mỹ, Canada, Nhật Bản với Luật cạnh tranh của Việt Nam…để
giải quyết nội dung khoa học của luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về lý luận
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh. Những đóng góp của luận văn thể hiện tập trung ở những nội
dung sau:
- Luận văn đã trình bày khái quát những vấn đề lý luận về kiểm soát
hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh qua đó cho thấy sự cần thiết
phải có sự kiểm soát của pháp luật đối với hành vi này. Ngoài ra, luận văn có
trình bày khái quát pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh một số nước trên thế giới, rút ra những nét chung trong pháp luật
về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở những nước đó
làm kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam.
- Luận văn phân tích sâu, bình luận các quy định của pháp luật Việt
Nam về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh, từ đó đưa ra
những đánh giá về thực trạng thực thi các quy định pháp luật về kiểm soát
hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
14
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở
Việt Nam
8. Bố cục của luận văn
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và
phương pháp nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài
liệu tham khảo kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
15
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
SOÁT HÀNH VI ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. Khái quát về hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hành vi ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm ấn định giá
Khái niệm ấn định giá không được quy định trong bất kì văn bản pháp
luật nào ở Việt Nam. Có thể hiểu ấn định giá dưới các góc độ khác nhau.
Dưới góc độ ngôn ngữ, ấn định giá theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là
định ra một cách chính thức điều cụ thể (thường là mức độ hoặc ngày giờ) về
một việc chung và quan trọng, giá được hiểu là một danh từ biểu hiện giá trị
bằng tiền hoặc là tổng thể nói chung phải bỏ ra, tiêu phí, mất đi cho một việc
làm nào đó.2 Tóm lại, dưới góc độ ngôn ngữ có thể hiểu ấn định giá một là
thuật ngữ dùng chỉ những hành động chung của doanh nghiệp trên thị trường
làm ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hoặc là định ra một cách cụ thể tổng chi
phí cho một sản phẩm, dịch vụ.
Dưới góc độ kinh tế học, có thể hiểu ấn định giá là một thoả thuận hoặc
sự đồng ý giữa các chủ thể tham gia trên cùng thị trường giống nhau hoặc liên
quan với nhau để mua, bán, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ, hàng hoá ở một
mức giá cố định, hoặc duy trì các điều kiện thị trường để kiểm soát giá tại
nguồn cung và cầu của loại hình sản phẩm, dịch vụ đó3. Mục đích của ấn định
giá để đẩy giá lên mức cao nhất có thể gia tăng lợi nhuận cho người bán hoặc
cũng có thể vì các mục tiêu khác như ấn định, kiểm soát tỉ giá, kiểm soát giảm
giá hoặc bình ổn giá. Các đặc tính của của ấn định giá là bất kỳ sự đồng ý thoả
thuận về giá cả một cách công khai hoặc ngầm hoá4
2 Theo Từ điển tiếng việt - Viện Ngôn Ngữ học - Nhà xuất bản từ điển bách khoa 2010
3 ngày truy cập 5/7/2016
4 Lược dịch từ website />
16
Dưới góc độ pháp lý, Luật cạnh tranh Việt Nam và Luật giá không đưa
ra định nghĩa về ấn định giá. Luật giá có khái niệm định giá là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất quy định giá cho hàng
hoá, dịch vụ.5 Việc định giá hàng hoá là quyền tự do của tổ chức, cá nhân kinh
doanh cho việc xác định giá trị của hàng hoá, dịch vụ đó trừ mặt hàng mà nhà
nước quy định giá.
Hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh là hành vi mang tính đặc
đặc thù của pháp luật cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh phải kiểm soát những
hành vi này. Luật cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm hành vi ấn
định giá và chỉ liệt kê những hành vi ấn định giá.
Khác với pháp luật Việt Nam, ấn định giá được pháp luật cạnh tranh của
Hoa Kỳ quy định trong những văn bản hướng dẫn về luật chống độc quyền :
"Ấn định giá là một thỏa thuận hoặc là sự đồng ý (bằng văn bản, bằng lời nói,
hoặc suy ra từ hành vi của các doanh nghiệp trên thị trường) làm thay đổi giá
cả hoặc điều kiện cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên
quan hoặc hành vi đơn phương của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh, doanh nghiệp độc quyền với mục đích ấn định giá bất hợp lí trong
việc cung ứng hàng hoá dịch vụ.6 "
Theo tác giả, hành vi ấn định giá có thể hiểu là hành vi đơn phương của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền, nhóm doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc hành vi thoả thuận giữa ít nhất từ hai doanh
nghiệp trở lên trên cùng thị trường liên quan quyết định một mức giá cụ thể
trong việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ.
1.1.1.2. Đặc điểm của hành vi ấn định giá
Từ nghiên cứu về khái niệm ấn định giá dưới góc độ pháp lý cho thấy
hành vi ấn định giá sẽ có những đặc điểm sau đây :
5 Khoản 5 điều 4 Luật giá 2012
6 Khái niệm price fixing trên website của Uỷ ban thương mại liên bang Hoa Kỳ từ những hướng dẫn của đạo
luật chống độc quyền />
17
Thứ nhất, về chủ thể, ấn định giá được thực hiện trong hai nhóm hành
vi hạn chế cạnh tranh đó là thoả thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh cho thấy đối tượng chủ thể
rất rộng và đa dạng : bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị
trường liên quan hoặc không ; doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường;
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống thị trường; doanh nghiệp có vị trí độc
quyền.
Thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh được diễn ra giữa các
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau hoặc không là đối thủ cạnh tranh
của nhau trên thị trường. Điều này có nghĩa là chúng phải hoạt động độc lập
với nhau, các doanh nghiệp không phải cùng tập đoàn kinh doanh hay trong
cùng một tổng công ty. Những hành động thống nhất của các công ty trong
tổng công ty hoặc tập đoàn hoặc công ty mẹ với công ty con không phải thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, bởi vì suy cho cùng các thành viên này được hợp
thành một chủ thể thống nhất. Còn đối với hành vi ấn định giá của doanh
nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí
độc quyền thì sẽ có những tiêu chí để xác định ra doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và doanh nghiệp độc quyền.
Thứ hai, các doanh nghiệp đã có sự thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh
tranh hoặc doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp lợi dụng vị trí thống lĩnh hoặc
độc quyền của mình ấn định giá nhằm phản cạnh tranh.
Thỏa thuận hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để ấn định
giá là một trong những hình thức hạn chế cạnh tranh điển hình. Dưới góc độ
xem xét đến các hành vi hạn chế cạnh tranh, ấn định giá ở đây bao gồm sự
thoả thuận sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp tìm
được ý chí chung và mục đích của việc tìm kiếm ý chí chung này là hạn chế
cạnh tranh hoặc doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, doanh
nghiệp độc quyền tự mình ấn định giá bằng giá áp đặt giá tối thiểu, áp đặt giá
tối đa hoặc áp đặt giá bất bình đẳng. Do đó, có thể hiểu sự việc ấn định giá
này là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng của các doanh nghiệp
18
với nhau liên quan đến nội dung cụ thể có khả năng gây suy giảm, bóp méo
hoặc thủ tiêu cạnh tranh trong các hành vi thoả thuận ấn định giá hoặc là
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đồng thời áp đặt giá bất hợp lí (mà
không có sự liên hệ về ý chí) hoặc một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc
độc quyền tự mình ấn định giá bất hợp lí cho doanh nghiệp khác hoặc người
tiêu dùng.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp các doanh nghiệp không thoả thuận một
cách trực tiếp với nhau mà “gián tiếp” đạt được sự thoả thuận thông qua quyết
định của Hiệp hội mà các doanh nghiệp là thành viên. Sở dĩ chúng ta vẫn coi
đó là sự thoả thuận bởi lẽ khi doanh nghiệp tham gia hiệp hội, chấp nhận các
cam kết chung của hiệp hội, trong đó chấp nhận cho phép hiệp hội được đưa
ra các quyết định và mình tuân theo, thì đây cũng chính là sự thoả thuận của
doanh nghiệp, hình thức thoả thuận này gần như là sự “uỷ quyền quyết định”
cho hiệp hội và bất luận như thế nào thì doanh nghiệp cũng đồng ý. Ngoài ra,
sự thoả thuận này còn có thể thể hiện dưới dạng các cam kết đáp ứng các yêu
cầu của một bên hoặc các bên tham gia. Trên thực tế, có trường hợp các
doanh nghiệp có các hành vi giống nhau thì cũng chưa thể kết luận là các
doanh nghiệp này có sự thoả thuận được bởi lẽ có thể đó là sự ngẫu nhiên trên
cơ sở tính toán, xác định của doanh nghiệp. Chỉ coi sự giống nhau về hành vi
biểu hiện của doanh nghiệp là sự thoả thuận khi các doanh nghiệp này có sự
thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, hay nói cách khác các doanh nghiệp tìm
kiếm được ý chí chung mà không bị tác động bởi bất cứ lý do nào. Trong
những trường hợp này, nếu đồng loạt thực hiện hành vi ấn định giá của từ hai
đến bốn doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hình thành nhóm doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh, thì cơ quan điều tra có thể nghi ngờ là có hành vi ấn định giá
của một nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh.
Thứ ba, mục đích của sự thoả thuận ấn định giá hoặc lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền để thực hiện hành vi ấn định giá là nhằm hạn chế
cạnh tranh.
19
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được thể hiện ở dạng thoả thuận
theo chiều ngang hoặc thoả thuận theo chiều dọc. Về nội dung, các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh rất đa dạng, điều này tùy thuộc vào sự sáng tạo của nhà
kinh doanh, tuy nhiên, dù thế nào thì nó cũng sẽ làm triệt tiêu tính cạnh tranh
giữa các nhà kinh doanh tham gia thỏa thuận trên thị trường. Biểu hiện cụ thể
của các thoả thuận này được thể hiện thông qua các thoả thuận về giá, về
phân chia thị trường và cung ứng dịch vụ; thoả thuận về chất lượng, số lượng;
thoả thuận về loại bỏ khỏi thị trường hoặc ngăn cản các doanh nghiệp tiềm
năng...
Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để thực hiện hành vi ấn
định giá là hành vi lợi dụng vị thế có lợi của mình để áp đặt hoặc ấn định giá
tối thiểu cho khách hàng nhằm mục đích gây phản cạnh tranh. Dạng hành vi
này cũng có mục đích nhằm hạn chế cạnh tranh. Đặc biệt đối với trường hợp
nhóm doanh nghiệp thực hiện một hành vi ấn định giá bất hợp hoặc ấn định
giá tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng. Nhóm doanh nghiệp này bao gồm
các doanh nghiệp cùng hành động hành vi nhằm gây hạn chế cạnh tranh như
hành vi ấn định giá như hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên, ba
doanh nghiệp có tổng thị phần trên từ 65% trở lên, bốn doanh nghiệp từ 75%
trở lên. Trong nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, chỉ cần có hành vi
cùng hành động nhằm hạn chế cạnh tranh và có đủ yếu tố thị phần quy định
thì có thể đó đã là hành vi ấn định giá của nhóm doanh nghiệp có vị trí thống
trí thống lĩnh như vụ việc ba nhà mạng ở Việt Nam ấn định giá 3G bất hợp lí
có thể nghi ngờ đó là hành vi ấn định giá của nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh. Trong luật chống độc quyền của Nhật, hành vi ấn định giá của
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thì người ta gọi là hành vi độc quyền
tư nhân để ấn định giá, và hành vi độc quyền tư nhân bao gồm lạm dụng vị trí
thống lĩnh của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp, vị trí độc quyền của
doanh nghiệp.
20
Thứ tư, về hình thức, các hành vi ấn định giá bao gồm thoả thuận ấn
định giá hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền thị trường để ấn định giá
phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.
Về hình thức biểu hiện, các hành vi thoả thuận ấn định giá là việc cùng
hành động giữa các doanh nghiệp hoặc một doanh nghiệp, một nhóm doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp độc quyền công khai hoặc bí
mật. Để chứng minh cho hành vi của các doanh nghiệp, cơ quan có thẩm
quyền phải chứng minh giữa các doanh nghiệp đã tồn tại một hợp đồng, bản
ghi nhớ, biên bản họp về một thỏa thuận công khai hoặc ngầm nhằm đồng ý
về giá, về sản lượng, phân chia thị trường, tức là, có chứng cứ để chứng minh
các nhà quản lý doanh nghiệp đã bàn bạc, thống nhất về nội dung cùng hành
động nhằm hạn chế cạnh tranh... Trên thực tế, việc xác định hình thức thể
hiện của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc điều tra và xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm - mặc
dù hình thức pháp lý của một thoả thuận không ảnh hưởng gì đến hậu quả
pháp lý nếu xác định được sự thoả thuận.
Mặc dù việc xác định hình thức pháp lý của các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh không phải là tiêu chí bắt buộc khi đánh giá tính hợp pháp của một
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và vì thế, từ phương diện pháp luật tố tụng
cạnh tranh, các hình thức kể trên đều có thể được chấp nhận. Đáng lưu ý là,
hầu hết các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều tồn tại dưới hình thức thoả
thuận ngầm, nên việc nhận dạng, đấu tranh và phát hiện chúng bằng việc thu
thập những chứng cứ thông thường như: bản hợp đồng, biên bản cuộc họp,
hoá đơn điện thoại, bản fax, nội quy... là hết sức khó khăn. Bởi vậy, trên thực
tế, cơ quan quản lý cạnh tranh ở các nước còn sử dụng các thông tin nghiệp
vụ của các lực lượng chức năng (an ninh, tình báo kinh tế), thông tin chuyên
môn của các cơ quan thống kê, thuế, hải quan... để chuyển hóa chứng cứ
trong quá trình xử lý.
Thứ năm, về hậu quả, các hành vi ấn định giá đã làm cản trở cạnh tranh
trên thị trường.
21
Về hậu quả của nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch
và cản trở cạnh tranh trên thị trường, hay nói cách khác, nhóm hành vi hạn
chế cạnh tranh sẽ xóa bỏ cạnh tranh giữa các đối thủ, giữa các doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận bằng sự thống nhất hành động. Các doanh nghiệp là đối
thủ của nhau sẽ tạo ra những thỏa thuận chung, những tiêu chuẩn chung về
giá, về kỹ thuật, về công nghệ, về điều kiện giao dịch và những đối thủ này
không còn chạy đua nhau trong cạnh tranh trên các lĩnh vực nêu trên, những
đối thủ này dường như không còn bị sức ép về cạnh tranh mà trong điều kiện
bình thường các đối thủ này phải bỏ công sức, vốn cho việc đầu tư đổi mới để
tồn tại trên thương trường. Bằng cách thức như vậy, các đối thủ có thể bóc lột
những bạn hàng, đối tác thương mại của mình(người tiêu dùng, nhà cung cấp
nguyên vật liệu đầu vào, nhà phân phối sản phẩm), giúp tối đa hóa lợi nhuận
trên thị trường. Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều
bị coi là bất hợp pháp và bị xử lý theo pháp luật. Theo nguyên tắc Rule of
Reason, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đó phải vượt “ngưỡng đáng kể” –
mang lại những hậu quả xấu nhiều hơn những lợi ích cho thị trường. Còn đối
với lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thì sẽ không được hưởng miễn
trừ theo nguyên tắc Per se Rule - nguyên tắc mặc nhiên cấm.
1.1.2. Các dạng hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.1.2.1. Thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
Thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh được coi là dạng thoả
thuận hạn chế cạnh tranh phổ biến nhất. Ở một số quốc gia trên thế giới như
Mỹ, Úc ... thì những thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh đều bị coi
là những thoả thuận cấm tuyệt đối và không được hưởng miễn trừ , và gọi thoả
thuận ấn định là hardcore cartel. Trong nền kinh tế thị trường, dưới sức ép của
cạnh tranh, các doanh nghiệp phải cố gắng giảm giá thành để cạnh tranh với
nhau và người tiêu dùng thì được hưởng lợi về giá. Tuy nhiên, những thoả
thuấn ấn định giá xuất phát từ chính bản chất các doanh nghiệp không muốn
cạnh tranh với nhau nữa, bởi khi cạnh tranh liên tục thì rõ ràng các doanh
nghiệp ít hoặc nhiều cũng bị thiệt hại về tài chính. Vì vậy, những thoả thuận ấn
định giá nhằm xoá bỏ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, và họ sẽ thu lại lợi
22
nhuận nhiều hơn, vì lợi nhuận có thể coi là mục đích quan trọng nhất của các
nhà kinh doanh.
Các dạng hành vi thoả thuận ấn định giá thì thường dưới các hình thức
trực tiếp hoặc gián tiếp để đạt được múc đích thống nhất về giá, và thường
được thực hiện dưới các dạng hành vi sau : Áp dụng thống nhất mức giá của
một số hoặc tất cả khách hàng; tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể; áp dụng
công thức tính giá chung; duy trì tỉ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan;
không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất; dành hạn
mức tín dụng cho khách hàng; không giảm giá nếu không thông báo cho các
thành viên khác các thoả thuận; sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các
cuộc đàm phán về giá bắt đầu; đưa ra thị trường những sản phẩm được chào
bán ở mức giá thấp nhằm hạn chế nguồn cung và giữ giá cao; thỏa thuận về
việc tuân theo mức giá đã được công bố; thỏa thuận không bán, trừ khi các
điều khoản về giá cả được thỏa thuận và đáp ứng; thỏa thuận sử dụng mức giá
đồng bộ tại thời điểm khởi đầu của cuộc đàm phán
1.1.2.2.Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để ấn định giá được hiểu là
hành vi của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc
quyền lợi dụng cái vị trí có sức mạnh thị trường để thực hiện một trong hai
hành vi ấn định giá bao gồm : Áp đặt giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ bất
hợp lí hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.
Việc áp đặt giá mua, giá bán hàng hoá dịch vụ bất hợp lí hoặc ấn định
giá bán lại tối thiểu đều hướng tới dạng hành vi ấn định giá bán lại. Ấn định
giá bán lại (resale price maintenance: RPM) có thể hiểu là việc một nhà sản
xuất (hay một nhà cung cấp) thỏa thuận hoặc chỉ định giá với các nhà phân
phối (hay các nhà bán lẻ) nhằm kiểm soát mức giá của sản phẩm mà các nhà
phân phối-bán lẻ (PP-BL) bán lại cho khách hàng sau khi mua sản phẩm đó từ
nhà sản xuất-cung cấp (SX-CC). Ấn định giá bán lại có thể diễn ra dưới ba
dạng cơ bản, đó là: ấn định giá bán lại cố định (fixed RPM), ấn định giá bán
lại tối đa (maximum RPM), và ấn định giá bán lại tối thiểu (minimum RPM).
23
Lần lượt theo các hình thức ấn định giá bán lại này, các nhà PP-BL chỉ
được phép bán lại sản phẩm cho khách hàng theo một mức giá ( cụ thể không
đổi, hoặc không cao hơn hay không thấp hơn một mức giá xác định mà nhà
SX-CC đã ấn định. Ngoài ra, các bên có thể sử dụng một hình thức kết hợp
giữa ấn định giá bán lại tối đa và tối thiểu, tức giá bán lại chỉ được phép dao
động giữa mức giá tối đa và tối thiểu được ấn định trước. Hình thức kết hợp
này có thể dẫn đến dạng ấn định giá bán lại cố định khi chênh lệch giữa mức
giá tối đa và tối thiểu là không đáng kể. Mặt khác, có thể coi ấn định giá bán
lại cố định là một dạng đặc biệt của ấn định giá bán lại tối thiểu.7
1.2. Khái quát pháp luật về kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
1.2.1. Sự cần thiết phải kiểm soát hành vi ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thông dụng “kiểm soát” được hiểu là kiểm
tra, xem xét nhằm ngăn ngừa những sai phạm.8 Thực tế, có những dạng hành
vi mang tác động gây hại cho lợi ích chung của toàn xã hội lớn hơn so với
những lợi ích thiết thực mà nó mang lại cho một nhóm (lợi ích nhóm) đòi hỏi
nhà nước cần phải kiểm soát chúng bằng các quy định pháp luật với những
chế tài đủ mạnh nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi này.
Đầu tiên, sự phát triển cạnh tranh về giá và chất lượng sản phẩm dịch
vụ sẽ sự phát triển nền kinh tế thị trường. Hoạt động cạnh tranh trên thị trường
ngày được coi là cuộc đua lôi kéo khách hàng về phía mình bằng cách nhanh
nhất là giảm giá, tuy nhiên liên tục cạnh tranh về giá sẽ tạo ra các thua lỗ nhất
định cho doanh nghiệp. Điều này gây ra các thoả thuận ấn định giá hoặc lợi
dụng vị trí thống lĩnh độc quyền để ấn định giá, nhằm tạo ra những lợi nhuận
từ việc ít phải cạnh tranh về giá hoặc xoá bỏ cạnh tranh về giá. Và trong các
7 Trích hành vi ấn định giá bán lại theo Pháp luật Cạnh tranh - Nguyễn Thanh Tú - NCS Đại học Lund Thuỵ Điển
8 Đại Từ điển Tiếng Việt thông dụng (1996), Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
24
hành vi phản cạnh tranh thì TTHCCT là hiện tượng khách quan tồn tại trong
đời sống kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Song nếu để tự do diễn ra thì
những thỏa thuận này sẽ là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng độc quyền nhóm
và việc lạm dụng vị trí thống lĩnh. Do đó, cần thiết phải nhận diện hành vi này
và kiểm soát nó bằng pháp luật.
Tiếp theo, do trong các vụ việc thoả thuận ấn định giá hoặc ấn định giá
của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp
độc quyền sẽ tước đoạt khả năng lựa chọn về giá cả của các doanh nghiệp
khác hoặc người tiêu dùng. Trong quyền lựa chọn sản phẩm, việc lựa chọn về
giá luôn là tiêu chí quan trọng lựa chọn sản phẩm, dịch vụ. Đó là lí do vì các
dịch vụ giá rẻ bùng nổ và phát triển ở Việt Nam và mọi nơi trên toàn thế giới,
như các hãng hàng không giá rẻ đe doạ doanh thu của các hãng hàng không
tiêu chuẩn, hay là dịch vụ Uber chuyên để gọi các xe ô tô con chở khách
không phải taxi đã lấn át thị trường taxi ở Việt Nam nói riêng và kể cả ở Hoa
Kỳ khi các lái xe taxi lo ngại việc các lái xe của Uber lấn át mình, vì dịch vụ
taxi giá thành đắt hơn so với Uber. Nguyên nhân là bản thân dịch vụ taxi
truyền thống đắt, việc cung cấp giấy phép cho hoạt động xe taxi ở Mỹ cũng
có chi phí cao. Rõ ràng, cạnh tranh về giá là cuộc cạnh tranh khốc liệt, và
hành vi ấn định giá làm giảm bớt hoặc huỷ bỏ cạnh tranh về giá. Vì vậy, việc
bắt tay giữa các bên huỷ bỏ cạnh tranh về giá dẫn đến việc không lựa chọn
được sản phẩm đúng với giá trị , đưa đến nhiều hệ lụy không những khiến
những nhà kinh doanh chân chính mất niềm tin vào cạnh tranh bình đẳng mà
còn dẫn đến thay đổi cấu trúc thị trường, huỷ bỏ cạnh tranh và sẽ không có có
sự lựa chọn giá cả trong những sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau trong
cùng một phân khúc thị trường. Thậm chí ở một số nước cho rằng hành vi ấn
định giá không khác gì những hành vi "trộm cắp" nhưng tinh vi và để lại hậu
quả rất lớn cho thị trường và người tiêu dùng.
Cuối cùng, pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội. Pháp luật
ghi nhận các quan hệ xã hội và điều chỉnh nó theo ý chí Nhà nước. Đặc biệt
với những quan hệ xã hội mang tính tiêu cực, cần phải loại bỏ khỏi đời sống
25
xã hội, pháp luật sẽ ghi nhận thành các hành vi vi phạm pháp luật và có những
chế tài xử lý tương ứng. Theo đó, hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh là dạng hành vi tiêu cực. Bởi vậy yêu cầu đặt ra là cần phải kiểm soát
bằng pháp luật với những biện pháp chế tài cụ thể nhằm kiểm soát hành vi ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh với mục tiêu tạo lập và duy trì môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp, bảo vệ lợi ích chung
của toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển của việc cạnh tranh công bằng về giá
trên thị trường.
1.2.2. Khái quát pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.2.2.1.Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về kiểm soát
hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
Thời kì trước đổi mới (trước đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm
1986), nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên
chưa có điều kiện cho sự tồn tại cạnh tranh. Trong thời kì này, nền kinh tế
không phải là nền kinh tế thị trường, vậy nên chưa có điều kiện để có sự cạnh
tranh tồn tại.
Từ sau thời kì đổi mới, đánh dấu bằng sự thành công của đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, nền kinh tế đất nước chuyển dần
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị
trường , đất nước đã có những chuyển biến mạnh về kinh tế, xuất hiện nhiều
thành phần trong nền kinh tế thị trường và các doanh nghiệp cạnh tranh khốc
liệt vì kiếm lợi nhuận, giành giật khách hàng về phía mình. Bên cạnh việc cạnh
tranh lành mạnh, xuất hiện các vấn đề về cạnh tranh không lành mạnh hoặc
hạn chế cạnh tranh để thủ tiêu cạnh tranh. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
những hành vi ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh xảy ra giữa các doanh
nghiệp, do đó cần phải có công cụ pháp lí hiệu quả để kiểm soát hành vi ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
Trước khi có sự ra đời của một đạo luật cụ thể để kiểm soát hành vi ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh thì đã có những quy định về nguyên tắc điều
chỉnh hoạt động cạnh tranh tạo nền tảng cho sự xuất hiện của một đạo luật