ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MAI DUY PHƯỚC
THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MAI DUY PHƯỚC
THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ
NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
Bộ Tư pháp
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA
THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý và yêu cầu điều chỉnh
pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh
1.1.2. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật và các trường hợp được
miễn trừ trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý và yêu cầu điều chỉnh
pháp luật đối với các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của thỏa thuận ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.2.2. Hậu quả pháp lý của thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh và yêu cầu điều chỉnh pháp luật
1.2.3. Các căn cứ để xác định các thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát và xử lý
1.3. Kinh nghiệm pháp luật của một số nước trong việc
điều chỉnh các thỏa thuận về giá nhằm hạn chế cạnh tranh
1.3.1. Kinh nghiệm của pháp luật Hoa Kỳ
1.3.2. Kinh nghiệm của pháp luật các nước Châu Âu
1.3.3. Kinh nghiệm của pháp luật Nhật Bản
Chương 2 : THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI CÁC THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN
CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định pháp luật điều chỉnh các thỏa
thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
2.1.1. Khái niệm và căn cứ xác định các thỏa thuận ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
2.1.2. Các hình thức xử lý đối với thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật để điều chỉnh các
thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
1
7
7
7
16
19
19
23
25
29
29
33
37
42
42
42
44
49
2.2.1. Thực trạng các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh trên thị trường Việt Nam thời gian qua
2.2.2. Thực trạng xử lý các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh
2.3. Một số nhận xét về thực trạng điều chỉnh pháp luật
đối với các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở
Việt Nam
2.3.1. Về các quy định của pháp luật cạnh tranh
2.3.2. Về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật cạnh
tranh
Chương 3 : MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ĐỂ ĐIỀU CHỈNH HIỆU QUẢ CÁC THỎA THUẬN ẤN
ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
3.1. Những định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp
luật để điều chỉnh hiệu quả các thỏa thuận ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
3.1.1. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
phải gắn liền với chính sách cạnh tranh phù hợp, hiệu quả
3.1.2. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với việc đảm bảo quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực
3.1.3. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với việc đảm bảo sự công bằng lợi ích giữa Nhà nước,
người tiêu dùng và doanh nghiệp
3.1.4. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với cơ chế kiểm soát giá cả độc quyền
3.1.5. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với mối quan hệ với các quy định pháp luật khác
3.2. Kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
49
57
65
65
69
73
73
73
74
75
76
77
78
86
88
1
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vậy, pháp luật
được xem là một trong những công cụ hiệu quả nhất trong tay Nhà nước
nhằm quản lý và điều tiết vĩ mô các hoạt động của nền kinh tế, góp phần
ổn định thị trường, đảm bảo trật tự và công bằng xã hội.
Cùng với hệ thống pháp luật kinh tế được xây dựng và ngày
càng hoàn thiện nhằm điều tiết hiệu quả các quan hệ kinh tế trong điều
kiện kinh tế thị trường, pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam được ra đời đã
góp phần quan trọng trong việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng
và lành mạnh trong kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng và xã hội.
Thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh là một trong các
hành vi được Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định và thực hiện kiểm soát
trong những trường hợp có thể gây ra hậu quả làm giảm, cản trở hoặc sai
lệch việc cạnh tranh trên thị trường, tiến tới xóa bỏ cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp bằng sự thống nhất cùng hành động, các doanh nghiệp
đang từ đối thủ cạnh tranh, nhưng khi thực hiện các thỏa thuận ấn định
giá, thì giữa họ không còn cơ chế cạnh tranh với nhau nữa.
Tuy nhiên, không phải các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh đều gây hại cho cạnh tranh nói riêng và nền kinh tế nói chung,
những thỏa thuận ấn định giá đôi khi cũng có lợi cho nền kinh tế khi các
bên thực hiện chiến lược liên doanh, hợp tác phát triển, chiến lược xây
dựng các tiêu chuẩn thống nhất và góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp hoặc năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các
trường hợp này cũng đã được pháp luật cạnh tranh dự liệu và cho phép
được làm các thủ tục để miễn trừ trách nhiệm pháp lý.
Trên thực tế, đã có nhiều hoạt động của các chủ thể kinh tế ở thị
trường nước ta vi phạm các quy định của Luật Canh tranh nhưng chưa
được xử lý một cách nghiêm khắc, triệt để, gây ra nhiều bất ổn trong hoạt
động của nền kinh tế, ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp
khác và người tiêu dùng xã hội. Cụ thể, hai vụ việc hạn chế cạnh tranh
điển hình được nhắc đến nhiều nhất là Công ty Xăng dầu Hàng không
Việt Nam (Vinapco) ngừng cung cấp xăng dầu cho Công ty Pacific
Airlines (PA) với lý do Công ty Pacific Airlines không đồng ý với mức
giá về cung ứng xăng dầu do Vinapco đề xuất. Ở vụ thứ hai, các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã ký biên bản thỏa thuận ấn định phí
trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới. Mới đây, sau khi Ngân hàng
Techcombank nâng lãi suất huy động tiền gửi lên 17%/năm, các ngân
hàng thương mại trong Hiệp hội Ngân hàng đã thỏa thuận nhau đưa ra
mức lãi suất 14%/năm cũng là vi phạm các quy định của Luật Cạnh
tranh. Có thể nói, hoạt động của các hiệp hội trong một số ngành (Bảo
hiểm, Thép, Ngân hàng) thực tế đã có những hành vi làm hạn chế cạnh
tranh. Ngành Ngân hàng đã có dấu hiệu vi phạm khi ấn định trần lãi suất
tiền gửi. Ngành Thép công khai thỏa thuận ấn định giá bán thép. Thời
gian qua, có dấu hiệu thỏa thuận ấn định giá bán mặt hàng sữa bột nhãn
hiệu nước ngoài nhập khẩu. Tuy nhiên, ngoài Hiệp hội Ngân hàng đã xin
rút thỏa thuận nói trên, vụ việc của Hiệp hội Thép đã không bị xử lý.
Với mong muốn thực hiện nghiên cứu để làm rõ bản chất, cũng
như các hình thức biểu hiện của những thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh dưới cả hai góc độ tích cực và tiêu cực, cũng như thực
trạng áp dụng các quy định về vấn đề này của pháp luật cạnh tranh Việt
Nam, đồng thời, dựa trên cơ sở tham khảo một số quy định của pháp luật
cạnh tranh các nước tiên tiến, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và mạnh
dạn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện
hành, góp phần vừa bảo vệ quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp,
vừa bảo vệ các lợi ích công cộng, nên tác giả đã lựa chọn đề tài “Thỏa
thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam” để nghiên
cứu và làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo để nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường phát triển, đã có một số công trình nghiên cứu bước đầu về pháp
luật cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vấn đề độc
quyền và kiểm soát độc quyền, như: “Chuyên đề về cạnh tranh, chống
cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc quyền” của tác giả Đặng Vũ
3
4
Huân đăng tải trên Thông tin Khoa học pháp lý, tháng 11 năm 1996 của
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp; “Tiến tới xây dựng
pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở
Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát – ThS. Bùi Nguyên Khánh,
Nxb. Công an nhân dân năm 2001; “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” sách tham khảo do PGS.TS. Nguyễn
Như Phát và PGS.TS. Trần Đình Hảo làm chủ biên, Nxb. Công an nhân
dân năm 2001; “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh
và kiểm soát độc quyền kinh doanh” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
trung ương (CIEM) năm 2002; “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” sách tham khảo của TS.
Đặng Vũ Huân, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2004
Ngoài ra, còn có một số bài báo khoa học được đăng trên các tạp
chí chuyên ngành như: “Cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh hiện nay”
của GS.TS. Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2000;
“Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 9 năm 2000; “Pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam: Nhu cầu, khả năng và
một vài kiến nghị” của TS. Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 11 năm 2000
Sau khi Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành, một số công
trình nghiên cứu đã tiếp tục đi sâu nghiên cứu và luận giải các quy định
của pháp luật cạnh tranh như: “Tìm hiểu về Luật Cạnh tranh” của tác giả
Trần Minh Sơn, Nxb. Tư pháp năm 2005; “Bình luận khoa học Luật
Cạnh tranh” của TS. Lê Hoàng Oanh, Nxb. Chính trị Quốc gia năm
2005; “Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh
tranh” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb.
Tư pháp năm 2006; “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam” của các tác giả
TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb. Tư
pháp năm 2006; “Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng
hoà Pháp của Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2007; “Tiêu chí đánh giá
tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số nước và một số bình luận về
Luật Cạnh tranh của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cương, năm
2006; “Hành vi hạn chế cạnh tranh – Một số vụ việc điển hình của Châu
Âu” - tài liệu tham khảo thuộc Dự án hỗ trợ thương mại đa biên
(MULTRAP) và Bộ Công Thương Việt Nam phối hợp thực hiện năm
2009; “Chính sách cạnh tranh từ góc độ quốc gia đang phát triển” của
tác giả Bùi Nguyễn Anh Tuấn, năm 2010; “Điều chỉnh pháp luật đối với
các thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” - Luận án Tiến
sĩ của tác giả Nguyễn Thị Nhung, năm 2011
Nhìn chung, các công trình khoa học này đều đã tiếp cận nghiên
cứu pháp luật cạnh tranh ở những phạm vi, mức độ và các khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận cũng như cơ sở pháp lý của việc xác định và điều chỉnh những thỏa
thuận ấn định giá làm hạn chế cạnh tranh, thực trạng áp dụng các quy
định pháp luật cạnh tranh để xử lý các trường hợp này trong thời gian
qua ở Việt Nam.
Cùng với việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước
thực hiện điều chỉnh các thỏa thuận này, Luận văn đưa ra các nhận xét,
đánh giá và kiến nghị để có thể hoàn thiện các quy định của pháp luật
cạnh tranh nhằm điều chỉnh vấn đề này một cách hiệu quả hơn.
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
gồm:
Thứ nhất: Nghiên cứu các vấn đề lý luận của pháp luật cạnh
tranh về thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai: Phân tích các quy định của pháp luật cạnh tranh Việt
Nam hiện nay điều chỉnh các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh và thực tiễn áp dụng.
Thứ ba: Xuất phát từ nghiên cứu các vấn đề lý luận, từ thực tiễn
quá trình áp dụng pháp luật cạnh tranh Việt Nam và tham khảo pháp luật
cạnh tranh một số nước tiên tiến, Luận văn đưa ra nhận xét và đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5
6
Pháp luật về cạnh tranh nói chung có phạm vi rất rộng và liên
quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế.
Bởi vậy, trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp cao học, với đề tài
đã lựa chọn, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu về bản chất, nội hàm của các
thỏa thận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh, những hậu quả pháp lý và
quá trình điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận này theo pháp luật
cạnh tranh của Việt Nam, đồng thời, có thực hiện nghiên cứu so sánh
pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh
nghiệm và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với loại thoả thuận này trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn cũng sử dụng các phương
pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp, đánh
giá, thống kê, v.v để thực hiện những nội dung nghiên cứu đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu và các đề xuất, kiến nghị của luận văn có ý
nghĩa góp phần hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh và nâng cao hiệu quả
điều chỉnh pháp luật đối với các thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn cũng có thể sử dụng làm tư liệu nghiên cứu, giảng dạy
về chuyên ngành Luật Cạnh tranh.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về thoả thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh
Chƣơng 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với các thoả
thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
Chƣơng 3: Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh
hiệu quả các thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN
ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ VÀ YÊU CẦU
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC THOẢ THUẬN HẠN
CHẾ CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thị trường là nơi trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở sự ưng
thuận giữa các bên tham gia trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Quan hệ trao đổi
hàng hóa, dịch vụ trên thị thường được gọi là quan hệ thị trường. Thị
trường có ba yếu tố chủ yếu là: (i) Người bán (người cung cấp hàng hóa,
dịch vụ cho thị trường hay còn gọi là bên cung); (ii) Người mua (người
có nhu cầu mua hàng hóa, dịch vụ hay còn gọi là bên cầu); (iii) Hàng
hóa, dịch vụ được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Trong kinh tế học, thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh được
hiểu là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt
hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một
cách độc lập giữa các đối thủ. Theo Từ điển Chính sách Thương mại
Quốc tế, cartel là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để
đạt được kết quả có lợi cho các hãng có liên quan nhưng có thể có hại
cho các bên khác.
Dưới giác độ pháp lý, mặc dù các văn bản pháp luật về canh
tranh ở trong và ngoài nước đều không đưa ra quy định khái niệm về thoả
thuận hạn chế cạnh tranh, song từ các quy định về hành vi của các thoả
thuận bị cấm đoán, có thể giải thích về nội hàm của các thoả thuận hạn
chế cạnh tranh như sau: “Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là sự thỏa thuận
phối hợp hành động với nhau giữa các doanh nghiệp độc lập để thủ tiêu
cạnh tranh giữa chúng, nâng cao vị thế của các thành viên tham gia thỏa
thuận, cản trở sự tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác
7
8
cũng như sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng mà không cần
phải có sự nỗ lực phấn đấu trên thương trường”
Trong cuốn “Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp
của một số nước và một số bình luận về Luật Cạnh tranh của Việt
Nam”, thì thoả thuận hạn chế cạnh tranh được định nghĩa là: “Sự thoả
thuận giữa các doanh nghiệp độc lập với nhau về lợi ích kinh tế có mục
đích hoặc tác động làm giảm hoặc bóp méo quá trình cạnh tranh trên thị
trường. Các doanh nghiệp tham gia thoả thuận có thể là đối thủ cạnh
tranh với nhau trên thị trường (thoả thuận ngang) hoặc các doanh nghiệp
thuộc các công đoạn khác nhau của quá trình kinh doanh từ sản xuất,
phân phối đến tiêu dùng. Mỗi quốc gia khác nhau thường có quan niệm
không hoàn toàn giống nhau về thoả thuận hạn chế cạnh tranh ”
Hay trong cuốn sổ tay với tiêu đề “Hành vi hạn chế cạnh tranh
- Một số vụ việc điển hình của Châu Âu” do Dự án hỗ trợ thương mại
đa biên (MULTRAP) và Bộ Công Thương Việt Nam phối hợp thực hiện,
thì thoả thuận hạn chế cạnh tranh được định nghĩa là: “Những thoả thuận
giữa các doanh nghiệp cạnh tranh nhằm ấn định giá hoặc sản lượng hoặc
phân chia thị phần, khách hàng - thường được biết đến dưới tên gọi cartel
- hoặc các thoả thuận theo đó các bên tham gia đấu thầu ấn định giá bỏ
thầu hoặc thoả thuận trước doanh nghiệp sẽ thắng thầu - thường được
biết đến dưới dạng đấu thầu thông đồng. Các thoả thuận hạn chế cạnh
tranh cũng bao gồm cả các thoả thuận dọc có tác động tiêu cực đến cạnh
tranh như thoả thuận ấn định giá bán lại một sản phẩm nhằm ngăn cản
nhà phân phối cung cấp ưu đãi cho khách hàng".
Qua các nghiên cứu ở trên, có thể đưa ra khái niệm tổng quát về
thoả thuận hạn chế cạnh tranh như sau:
“Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí giữa các
doanh nghiệp độc lập với nhau (gọi là các thành viên) để thực hiện các
hành vi nhằm mục đích thủ tiêu hoặc hạn chế sự cạnh tranh giữa chúng
và qua đó ngăn cản sự tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh
khác cũng như của các doanh nghiệp tiềm năng”.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các đối thủ thiết lập ở nhiều
quy trình khác nhau của quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông hàng
hóa và nó cũng diễn ra ở các chủ thể tham gia thỏa thuận có vị trí khác
nhau trong quá trình này. Dựa trên căn cứ đó, thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh có thể được chia là các loại sau đây:
(i) Thỏa thuận giữa những người bán với nhau (thỏa thuận ấn
định giá, phân chia thị trường tiêu thụ);
(ii) Thỏa thuận giữa những người mua (thông đồng đấu thầu);
(iii) Thỏa thuận theo chiều ngang là những thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau trong cùng ngành
hàng (thỏa thuận giữa những người bán, giữa các doanh nghiệp);
(iv) Thỏa thuận theo chiều dọc là những thỏa thuận giữa doanh
nghiệp ở các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, lưu thông hàng
hóa (thỏa thuận giữa doanh nghiệp với đại lý hoặc người bán lẻ hàng hóa
của doanh nghiệp);
1.1.1.2. Bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh
Nghiên cứu để thực hiện điều chỉnh một hiện tượng kinh tế với
hậu quả được xác định là đi ngược lại với các lợi ích của cạnh tranh, thì
điều quan trọng cần đi sâu tìm hiểu dó chính là bản chất pháp lý của các
thoả thuận hạn chế cạnh tranh, hay nói cách khác, đó là các đặc điểm cần
xem xét dưới giác độ pháp lý của thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Cũng từ
cơ sở nghiên cứu này, cho phép chúng ta xác định các trường hợp miễn
trừ, bởi lẽ, không phải thoả thuận hạn chế cạnh tranh nào cũng đưa đến
những hậu quả tiêu cực.
Nhằm xác định rõ bản chất pháp lý, một thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh cần được xem xét qua các yếu tố sau:
Thứ nhất, về chủ thể, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh là những đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường.
Thứ hai, các doanh nghiệp đã có sự thỏa thuận nhằm hạn chế
cạnh tranh.
Thứ ba, mục đích của sự thoả thuận là nhằm hạn chế cạnh tranh.
Thứ tư, về hình thức, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải
được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.
Thứ năm, về hậu quả, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh đã làm
cản trở cạnh tranh trên thị trường.
1.1.2. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật và các trƣờng hợp đƣợc
miễn trừ trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
9
10
Thực tế vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường cho thấy,
nếu cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, thì thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) được xem là phương tiện triệt tiêu cạnh
tranh trên thị trường và nó thường bị xem là có hại cho nền kinh tế,
chống lại cạnh tranh. Cartel giúp tạo lập và củng cố sức mạnh thị trường
của các doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp trong cartel có thể xử sự như
một nhà độc quyền và bóc lột người tiêu dùng hoặc đối tác của mình.
Cartel giúp cho các thành viên hoạt động không hiệu quả khỏi áp lực về
cạnh tranh, tạo xu hướng sự lười biếng trong lao động và sự trì trệ trong
hoạt động phát minh, đổi mới và sáng tạo.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại (của những cartel có mục đích
lũng đoạn thị trường bằng việc ấn định giá cả, hạn chế sản lượng, phân
chia thị trường), một số thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh rõ ràng
quy định về việc ấn định giá, ấn định sản lượng, phân chia thị trường,
nhưng chỉ là một bộ phận cấu thành nên một thỏa thuận, dự án hợp tác
lớn hơn giữa các đối thủ cạnh tranh, những dự án có lợi cho nền kinh tế
và làm tăng tính hiệu quả của nền kinh tế, hay nó còn có tên gọi khác là
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bổ trợ.
Tóm lại, cạnh tranh là tốt cho sự phát triển của xã hội, tự do và
công bằng là một giá trị cần được bảo vệ, hơn nữa cạnh tranh dễ bị bóp
méo và mất tác dụng trước những thủ thuật thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
do các doanh nghiệp trong nền kinh tế áp dụng, và cuối cùng cạnh tranh
chỉ có thể được duy trì, cải thiện hoặc tăng cường bởi nhà nước điều
chỉnh bằng công cụ pháp luật, tức là “bàn tay hữu hình” có thể giúp “bàn
tay vô hình” hoạt động hiệu quả hơn
1.2. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ VÀ YÊU CẦU
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC THOẢ THUẬN ẤN
ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.2.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của thỏa thuận ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh
Ấn định giá là thuật ngữ dùng chỉ những hành động chung của
các đối thủ cạnh tranh làm ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Thỏa thuận ấn
định giá hàng hóa, dịch vụ là việc các doanh nghiệp thống nhất một mức
giá hoặc cách thức tính giá chung cho hàng hóa, dịch vụ mà họ sẽ giao
dịch trong tương lai với các khách hàng.
Thỏa thuận ấn định giá có thể diễn ra ở bất cứ khâu nào trong
quá trình sản xuất và phân phối. Có thể là thỏa thuận về giá của hàng hóa
thiết yếu, hàng hóa trung gian hay hàng hóa thành phẩm; có thể là thỏa
thuận liên quan đến các dạng cụ thể bao gồm giảm giá, tăng giá, thỏa
thuận áp dụng thống nhất một mức giá với khách hàng, áp dụng chung
công thức tính giá và những hình thức khác về việc trao đổi thông tin về
giá.
1.2.2. Hậu quả pháp lý của thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh và yêu cầu điều chỉnh pháp luật
Chính việc các doanh nghiệp thỏa thuận với nhau về giá bán
hoặc giá mua hàng hóa đã tước đoạt sự lựa chọn của khách hàng để có
mức giá hợp lý nhất mà họ lẽ ra có thể được hưởng. Đồng thời với việc
tước đoạt quyền lựa chọn cơ bản này của khách hàng trong nền kinh tế
thị trường, việc thỏa thuận giữa các doanh nghiệp về giá đã bóp chết sự
cạnh tranh hay xóa bỏ hẳn cạnh tranh về giá hàng hóa, dịch vụ giữa các
thành viên trong thỏa thuận đó.
Bởi vậy, yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh được xuất phát từ các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, nhu cầu điều chỉnh pháp luật được xuất phát từ chính
hậu quả pháp lý mà các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
đã gây ra.
Thứ hai, mặc dù tôn trọng sự tự do khế ước, quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể, tuy nhiên, với chức năng quản lý vĩ mô đối với
nền kinh tế, Nhà nước vẫn phải can thiệp nhằm định hướng cho nền kinh
tế phát triển theo một xu thế thống nhất.
Thứ ba, xét trong mối liên hệ tương quan với cạnh tranh, thì việc
kiểm soát các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh sẽ có vai
trò tác động tích cực đến cạnh tranh, đảm bảo cho cạnh tranh công bằng
và lành mạnh.
Thứ tư, điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh là bảo vệ quyền lợi tuyệt đối cho người tiêu
dùng.
11
12
1.2.3. Các căn cứ để xác định các thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát và xử lý
Căn cứ để xác định một thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh để kiểm soát và xử lý bao gồm:
Một là, các doanh nghiệp đã có sự thỏa thuận ấn định giá hàng
hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Hai là, mục đích của sự thoả thuận ấn định giá là nhằm hạn chế
cạnh tranh.
Ba là, về hình thức, các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.
Bốn là, về hậu quả, các thoả thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh đã làm hạn chế cạnh tranh trên thị trường, ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền lợi của người tiêu dùng.
1.3. KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƢỚC
TRONG VIỆC ĐIỀU CHỈNH CÁC THOẢ THUẬN VỀ GIÁ NHẰM
HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.3.1. Kinh nghiệm của pháp luật Hoa Kỳ
Pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ khi đánh giá tính bất hợp pháp của
một thỏa thuận thường dựa trên học thuyêt cạnh tranh bổ trợ, quy tắc có
lý và quy tắc perse.
Thỏa thuận bổ trợ:
Tòa án Hoa Kỳ cho rằng, một số thỏa thuận chỉ thuần túy đóng
vai trò là bổ trợ đối với một thỏa thuận hợp tác lớn và quan trọng hơn mà
những thỏa thuận chính này lại có lợi cho nền kinh tế, những thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh chỉ là bổ trợ nhằm đảm bảo cho các thỏa thuận hợp
tác chính được thực thi thì thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đó không bị coi
là bất hợp pháp.
Quy tắc có lý:
Tiêu chí đích thực đánh giá tính chất pháp lý của thỏa thuận là
liệu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ấy chỉ điều tiết và thúc đẩy cạnh tranh
hay nó thực sự bóp nghẹt hoặc tiêu hủy cạnh tranh, Tòa án phải cân nhắc,
xem xét các tình tiết thuộc về bản chất của hoạt động kinh doanh, các
điều kiện trước hoặc sau khi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được áp dụng,
bản chất và tác dụng của nó.
Quy tắc perse:
Phương pháp phân tích tính bất hợp pháp của một thỏa thuận, chỉ
cần thỏa thuận này có tồn tại cũng đủ cho thấy nó là bất hợp pháp, mà
không cần phải điều tra, phân tích tỉ mỉ hơn nữa về quyền lực thị trường
của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hay những lý do biện minh
cho sự tồn tại của nó. Hay nói cách khác, nó còn xem là thỏa thuận bất
hợp pháp hiển nhiên, thỏa thuận như vậy rõ ràng bị xem có hại và bóp
nghẹt cạnh tranh trên thị trường.
1.3.2. Kinh nghiệm của pháp luật các nƣớc Châu Âu
Một thỏa thuận sẽ bị coi là bất hợp pháp nếu nó thỏa mãn hai tiêu
chí:
Một là, thỏa thuận đó gây hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản
1 Điều 81, Hiệp định Rome 1957.
Hai là, không thỏa mãn bốn điều kiện để được miễn trừ áp dụng
khoản 1 Điều 81 quy định tại khoản 3 Điều 81, Hiệp định Rome 1957
Theo Ủy ban Châu Âu, tính bất hợp pháp của thỏa thuận được
xem xét dựa trên Học thuyết De minimis và Học thuyết hạn chế cạnh
tranh bổ trợ.
Học thuyết De minimis:
Học thuyết này xuất phát từ ý tưởng luật pháp không cần giải
quyết những vấn đề quá nhỏ nhặt hay bỏ qua những cái không cần thiết.
Học thuyết này cho rằng, những thỏa thuận tuy có tác động tới cạnh tranh
hoặc hoạt động thương mại nhưng tác động ấy chưa đến mức đáng kể thì
không cần cấm đoán.
Học thuyết cạnh tranh bổ trợ:
Theo hướng dẫn của Ủy ban châu Âu, một thỏa thuận bổ trợ là
bất cứ thỏa thuận nào trực tiếp liên quan và cần thiết đối với việc thực thi
một thỏa thuận chính mà thỏa thuận chính này không gây hạn chế cạnh
tranh và thỏa thuận bổ trợ này gây hạn chế cạnh tranh là tương xứng với
yêu cầu từ thỏa thuận chính.
Các tiêu chí được miễn trừ:
Nếu thỏa thuận vi phạm khoản 1 Điều 81 Hiệp định Rome, tức là
thỏa thuận đó gây hạn chế cạnh tranh vẫn có thể bị coi là hợp pháp nếu
nó đáp ứng được các quy định tại khoản 3 Điều 81 Hiệp định Rome.
Bốn điều kiện để hưởng miễn trừ theo khoản 3 Điều 81 bao gồm:
13
14
- Lợi ích từ việc cải thiện tính hiệu quả;
- Sự chia phần công bằng lợi ích đó cho người tiêu dùng;
- Sự không thể tách rời của việc hạn chế cạnh tranh;
- Không triệt tiêu một cách căn bản cạnh tranh trên thị trường.
1.3.3. Kinh nghiệm của pháp luật Nhật Bản
Theo Luật Chống độc quyền Nhật Bản, tính bất hợp pháp của
một thỏa thuận được quy định tại khoản 6 Điều 2 và Điều 3, một thỏa
thuận bị coi bất hợp pháp nếu như thỏa mãn đồng thời hai điều kiện:
(i) Cản trở cạnh tranh trên thị trường một cách căn bản;
(ii) Trái với lợi ích công cộng.
Thứ nhất, về điều kiện cản trở cạnh tranh trên thị trường một
cách căn bản, thị trường ở đây là thị trường liên quan, để xác định thị
trường liên quan, cả hai yếu tố cấu thành của thị trường là sản phẩm liên
quan và khu vực địa lý liên quan cần phải được xác định.
Thứ hai, thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh đó phải trái với lợi
ích công cộng. Theo quan điểm của Ủy ban Thương mại công bằng Nhật
Bản, một thỏa thuận gây ra tình trạng cạnh tranh trên thị trường liên quan
bị giảm một cách căn bản cũng đương nhiên thõa mãn tiêu chí trái lợi ích
công cộng.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI
CÁC THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ
CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH CÁC THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ
CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm và căn cứ xác định các thỏa thuận ấn định
giá nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh năm 2004 và
Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 về việc quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, thì thỏa thuận ấn định
giá hàng hóa, dịch vụ là việc các doanh nghiệp thống nhất chung một
mức giá hoặc một cách thức tính giá chung cho hàng hóa, dịch vụ mà các
doanh nghiệp này sẽ giao dịch với khách hàng. Như vậy, qua quy định
của Luật Cạnh tranh và Nghị định hướng dẫn thi hành, chúng ta nhận
thấy rằng:
Thứ nhất, thỏa thuận ấn định giá có thể xảy ra ở giao dịch mua
hoặc bán mà các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận sẽ tiến hành với
khách hàng của mình.
Thứ hai, nội dung của thỏa thuận có thể thể hiện bằng nhiều
hình thức đa dạng, việc định giá có thể trực tiếp hoặc gián tiếp.
Thứ ba, thỏa thuận ấn định giá được xem là gây thiệt hại cho
khách hàng do mức giá được ấn định trực tiếp hoặc gián tiếp đã loại bỏ
cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, một trong
những phương diện cạnh tranh cơ bản giữa các doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường, tức là các doanh nghiệp đã tạo ra mặt bằng giá chung của
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
2.1.2. Các hình thức xử lý đối với thỏa thuận ấn định giá
nhằm hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Theo Điều 10 Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh, các doanh nghiệp có
một trong các hành vi thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh:
- Phạt tiền đến 5% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm
thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp là các bên tham gia
thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên
- Phạt tiền từ 5% đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp là các bên
tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30%
trở lên đối với một trong các hành vi thỏa thuận ấn định giá nếu thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
- Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực
phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú
y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng,
vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ;
- Doanh nghiệp vi phạm giữ vai trò tổ chức, lôi kéo các đối
tượng khác tham gia vào thoả thuận.
15
16
Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định trên, doanh nghiệp vi
phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung
và biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành
vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc
thực hiện hành vi vi phạm;
- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp
đồng hoặc giao dịch kinh doanh [30, Điều 10].
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 10 Luật Cạnh tranh, thỏa thuận
ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh có thể được hưởng miễn trừ trong
một thời hạn. Việc miễn trừ này được đưa ra vì hai lý lẽ: Một là, tôn
trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Hai là, pháp luật cần
tính toán sự cân xứng về các lợi ích mà thỏa thuận ấn định giá này mang
lại. Vì vậy, cần phải có sự cân nhắc và tính toán để có biện pháp thích
hợp đối với từng thỏa thuận trong đó có ấn định giá.
Thỏa thuận ấn định giá sẽ được xem xét cho hưởng miễn trừ nếu
thỏa mãn một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho
người tiêu dùng:
- Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu
quả kinh doanh;
- Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng
hàng hoá, dịch vụ;
- Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng,
định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
- Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán
nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
2.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ ĐIỀU
CHỈNH CÁC THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ
CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
2.2.1. Thực trạng các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh trên thị trƣờng Việt Nam thời gian qua
Thời gian qua, dư luận đặc biệt chú ý đến thị trường sữa bột vì
giá cả tăng cao ảnh hưởng đến đời sống đại bộ phận người tiêu dùng đặc
biệt người dân có con nhỏ. Thị trường sữa bột nhập khẩu chiếm hơn 80%
thị trường sữa của Việt Nam, vì vậy, giá sữa phụ thuộc rất nhiều vào giá
nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Thực tế thời gian qua cho thấy, giá sữa thị
trường không vận động theo xu hướng giá sữa trên thế giới và khu vực và
cũng không theo giá sữa nguyên liệu nhập khẩu.
Cụ thể, việc các hãng sữa ngoại đề nghị tăng giá bán lẻ ra thị
trường Việt Nam quá cao so với giá gốc và gần gấp đôi so với giá trung
bình trên thế giới, mặc dù mức thuế nhập khẩu so với các nước là không
cao, đó là một điều không bình thường và đủ cơ sở để có những quan
ngại về sự thao túng thị trường của họ. Thực tế cho thấy, giá sữa nguyên
liệu trên thế giới có xu hướng giảm mạnh thì giá sữa bột tại Việt Nam
không giảm nếu không muốn nói có thời điểm còn tăng cao. Trước tình
hình này, kết quả kiểm tra, thanh tra do các cơ quan Bộ Tài chính và Bộ
Công thương tìm hiểu thực tế giá sữa nhưng không thu thập được chứng
cứ về sự bắt tay hay liên kết giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, với cấu
trúc thị trường như vậy, không thể loại trừ hoàn toàn các thỏa thuận
ngầm giữa các doanh nghiệp nhằm thao túng thị trường, thu lợi bất chính.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng ở
Việt Nam dẫn đến nhu cầu xây dựng tăng cao, vì vậy, thị trường thép là
một trong những thị trường sôi động và thị trường này cũng đã xuất hiện
những kiểu thỏa thuận ấn định về giá. Điển hình là vào tháng 10/2008,
các công ty sản xuất thép xây dựng đều là thành viên của VSA (Hiệp hội
Thép Việt Nam) bàn về việc chống bán phá giá của các doanh nghiệp sản
xuất, hơn 30 doanh nghiệp đã thống nhất ngừng giảm giá và giữ mức giá
bình quân 13,5 – 13,7 triệu đồng/tấn (chưa có VAT).
Việc thống nhất cùng ấn định giá không chỉ diễn ra ở các lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế mà còn ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong
đời sống, chẳng hạn kinh doanh vận tải hành khách. Các hãng taxi
thường tăng giá khi giá xăng tăng, nhưng lại chậm hạ giá cước khi giá
xăng đã giảm.
Vào tháng 3 năm 2008, Hiệp hội Ngân hàng đã họp và thỏa
thuận mức trần lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng Việt Nam ở mức
11%/năm. Nhân dịp Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam tổ chức Hội nghị các
17
18
Tổng giám đốc bảo hiểm phi nhân thọ lần thứ VI vào ngày 15/9/2008, 19
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, mà chủ yếu là doanh nghiệp trong
nước ký thỏa thuận tăng mức phí bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu biển,
bảo hiểm xe cơ giới và điều khoản phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới nhằm
hạn chế tình trạng cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh bồi thường cao, lạm
phát cao, kinh doanh bảo hiểm không có lãi hoặc lãi quá ít, sau đó thêm
04 doanh nghiệp tham gia ký thỏa thuận trên nâng tổng số doanh nghiệp
tham gia lên con số 19 doanh nghiệp.
Từ năm 2007, khi Chính phủ cho phép thị trường xăng dầu vận
hành theo cơ chế thị trường, như vậy về mặt nguyên tắc phải có giá bán
khác nhau giữa các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu để tạo ra
nhiều giá bán. Tuy nhiên, có một thực tế là trong thời gian qua, khi giá
xăng dầu thế giới tăng cao, thì các đơn vị đầu mối nhập khẩu xăng dầu
xin tăng giá bán lẻ xăng dầu trong nước, ngược lại khi giá xăng dầu thế
giới giảm, các doanh nghiệp này thường viện ra nhiều lý do để chần chừ
giảm giá hoặc giảm rất ít so với mức giảm của thế giới hoặc các doanh
nghiệp giảm một mức như nhau và cùng thời điểm.
Thị trường dược phẩm ở Việt Nam trong một thời gian tương đối
dài đã bị các thế lực thị trường thao túng và những thế lực này mặc nhiên
kiếm lợi nhuận trên nhu cầu chữa bệnh của người dân.
Việc thỏa thuận ấn định giá không chỉ diễn ra ở chủ thể là các
doanh nghiệp với tư cách là bên bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà
còn diễn ra khi các bên vi phạm với tư cách là bên mua hàng hóa. Việc
này thường xuất hiện trong lĩnh vực thu mua nông sản, chúng ta dường
như đã quá quen với việc người nông dân gặp phải tình trạng “được mùa
mất giá, được giá mất mùa”, người nông dân còn chưa kịp vui với việc
thu hoạch được mùa thì nguy cơ bị các thương lái, các hiệp hội doanh
nghiệp ép giá bằng cách quy định giá trần.
2.2.2. Thực trạng xử lý các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh
Sau gần 5 năm thực hiện Luật Cạnh tranh, vai trò của Luật này
đã ngày càng thể hiện rõ trong việc điều tiết nền kinh tế và định hướng
cho hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần quan trọng tạo
ra môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh với cơ hội được san sẻ
cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp hiện có và doanh nghiệp tiềm
năng của thị trường.
Từ khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực đến nay, đặc biệt trong giai
đoạn 2009 - 2010, Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương đã tiếp
nhận được 22 vụ việc hạn chế cạnh tranh, tăng 155% so với hai năm
trước đó, trong đó Cục Quản lý cạnh tranh đã quyết định điều tra chính
thức 04 vụ việc, tiến hành điều tra tiền tố tụng đối với 18 vụ việc, ra
quyết định xủ lý đối với 01 vụ việc (19 doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
ấn định giá bảo hiểm phi nhân thọ)
Có thể nói, với một cơ quan mới ra đời chưa lâu như Cục Quản
lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh với trọng trách là cơ quan thi hành
pháp luật cạnh tranh, những năm vừa qua cơ quan quản lý cạnh tranh đã
phát huy tối đa vai trò của mình trong xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xử lý các thỏa thuận nhằm
hạn chế cạnh tranh nói chung và thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh nói riêng, cơ quan quản lý cạnh tranh đã vướng phải những
khó khăn, thử thách sau đây:
Thứ nhất, theo quy định pháp luật cạnh tranh hiện hành, thỏa
thuận ấn định giá không phải là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
hoàn toàn, hay nói cách khác, thỏa thuận ấn định giá chỉ bị xem bất hợp
pháp nếu thị phần kết hợp giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận từ
30% trở lên trên thị trường liên quan. Như vậy, khi bắt đầu điều tra một
thỏa thuận ấn định giá, cơ quan quản lý cạnh tranh phải làm là tiến hành
điều tra để xác định thị phần của từng doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
ấn định giá, cơ quan cạnh tranh phải xác định thị trường liên quan của
sản phẩm do doanh nghiệp tham gia thỏa thuận tham gia, bao gồm thị
trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.
Thứ hai, các biện pháp mang tính chế tài đối với các vi phạm về
thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh chưa thực sự đủ mạnh
nhằm có tác dụng răn đe và phòng ngừa vi phạm.
Thứ ba, việc tuân thủ các quy định của pháp luật cạnh tranh nói
chung và các hành vi vi phạm thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh
tranh nói riêng phụ thuộc vào nhận thức và hiểu biết, nắm rõ các quy
định của pháp luật cạnh tranh của doanh nghiệp rất nhiều.
19
20
Thứ tư, vị thế của cơ quan cạnh tranh và đội ngũ nhân lực của cơ
quan cạnh tranh.
Thứ năm, sự chồng chéo trong các quy định của pháp luật khác
với pháp luật cạnh tranh dẫn tới việc có nhiều cách hiểu và áp dụng khác
nhau ảnh hưởng đến tính hiệu lực và mục đích của pháp luật cạnh tranh.
Thứ sáu, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là lĩnh
vực truyền thông, thông tin cộng với sự toan tính của các doanh nghiệp,
nhằm né tránh sự phát hiện của cơ quan cạnh tranh, các doanh nghiệp
ngày càng sử dụng các hình thức thỏa thuận ấn định giá một cách tinh vi,
khó lường.
2.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ THỰC TRẠNG ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC THỎA THUẬN ẤN ĐỊNH
GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
2.3.1. Về các quy định của pháp luật cạnh tranh
Thứ nhất, về cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh Việt Nam,
rõ ràng chúng ta thấy rằng, pháp luật cạnh tranh Việt Nam không xem
thỏa thuận ấn định giá là loại thỏa thuận bị cấm tuyệt đối.
Thứ hai, về cách thức lập pháp của quy định pháp luật cạnh
tranh về thỏa thuận ấn định giá sử dụng phương pháp liệt kê.
Thứ ba, về quy định cho hưởng miễn trừ của thỏa thuận ấn định
giá nếu các bên tham gia thỏa thuận vượt quá thị phần kết hợp quy định
là từ 30% trở lên.
Thứ tư, về việc điều tra thị trường liên quan để xác định thị phần
và thị phần kết hợp là một khâu điều tra rất phức tạp, công phu và phức
tạp.
2.3.2. Về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật cạnh
tranh
Thứ nhất, về công tác phát hiện, điều tra và xử lý các thỏa thuận
ấn định giá.
Thứ hai, đối tượng áp dụng và chịu sự điều chỉnh của pháp luật
cạnh tranh là rất rộng lớn trong xã hội, trong đó có bao gồm nhiều tập
đoàn kinh tế lớn của Nhà nước và vai trò trách nhiệm của cơ quan quản
lý cạnh tranh đòi hỏi rất nặng nề trong việc đảm bảo các quy định pháp
luật cạnh tranh được thực hiện trong thực tiễn đời sống.
Chƣơng 3
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỂ ĐIỀU CHỈNH HIỆU QUẢ CÁC THỎA THUẬN
ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
3.1. NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG CƠ BẢN NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ ĐIỀU CHỈNH HIỆU QUẢ CÁC THỎA
THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
3.1.1. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
phải gắn liền với chính sách cạnh tranh phù hợp, hiệu quả
Các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế được cạnh
tranh bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế nâng cao sức cạnh tranh, tuy nhiên,
kinh tế của chúng ta hiện nay là một nền kinh tế đang chuyển đổi, đang
làm quen với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải
điều tiết cạnh tranh trong nền kinh tế như thế nào cho phù hợp, đảm bảo
không làm méo mó môi trường cạnh tranh, vừa đảm bảo sự hoạt động tự
do của các chủ thể kinh doanh.
3.1.2. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với việc đảm bảo quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực
Pháp luật cạnh tranh nói chung và cơ chế điều chỉnh pháp luật về
thỏa thuận ấn định giá còn có nhiệm vụ trở thành công cụ hữu hiệu thúc
đẩy và tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
trước các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của nước ngoài, duy trì trật tự, bảo
đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế khác
nhau.
3.1.3. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với việc đảm bảo sự công bằng lợi ích giữa Nhà nƣớc, ngƣời
tiêu dùng và doanh nghiệp
Cơ chế pháp luật điều chỉnh thỏa thuận ấn định giá phải đảm bảo
sự tự chủ, tự quyết trong việc hoạch định và thực hiện các phương án
kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, đồng thời cần phải
21
22
cương tỏa, giới hạn những hành vi kinh doanh ảnh hưởng đến giá cả, gây
thiệt hại cho người tiêu dùng.
3.1.4. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với cơ chế kiểm soát giá cả độc quyền
Nhà nước cần sử dụng các công cụ kiểm soát vĩ mô để tác động
gián tiếp vào các quan hệ cung cầu nhằm bình ổn giá cả thị trường, ban
hành và hướng dẫn các nguyên tắc và phương pháp tính giá, đảm bảo
tính minh bạch trong cơ chế hình thành giá cả hàng hóa và dịch vụ thiết
yếu, dự liệu cả những trường hợp đột biến, từ đó có thể phát hiện kịp thời
các doanh nghiệp tăng, giảm giá vô căn cứ hoặc thỏa thuận liên minh để
ấn định giá.
3.1.5. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
gắn liền với mối quan hệ với các quy định pháp luật khác
Khi kinh tế Việt Nam đang ngày càng phát triển với quy mô càng
ngày rộng lớn với các quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp, phong phú,
việc có sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng các quy định pháp luật
về thỏa thuận ấn định giá, chúng ta mới đảm bảo không có trở ngại, lúng
túng trong quá trình điều tra xử lý các vụ việc thỏa thuận ấn định giá từ
phía các cơ quan thực thi cạnh tranh và cũng là biện pháp chống lại các
bên tham gia thỏa thuận ấn định giá vi phạm tìm cách né tránh, biện hộ
hoặc lách luật hoặc tìm cách chịu chế tài nhẹ nhất do việc các quy định
không thống nhất giữa pháp luật cạnh tranh và ngành luật khác.
3.2. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG
HIỆU QUẢ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC THỎA
THUẬN ẤN ĐỊNH GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
Thứ nhất, về cách tiếp cận điều chỉnh của pháp luật cạnh
tranh Việt Nam đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế
cạnh tranh
Đề xuất cần sửa đổi các quy định của Luật Canh tranh và các văn
bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này theo hướng "bất cứ hành vi thỏa
thuận ấn định giá nào cũng phải xem đó là thỏa thuận bị cấm tuyệt đối".
Thứ hai, về cơ chế phát hiện các trƣờng hợp thỏa thuận ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
Chúng tôi đề xuất nên quy định các trường hợp được hưởng
miễn trách nhiệm pháp lý trong pháp luật cạnh tranh và đưa hành vi tự
giác báo cáo với cơ quan cạnh tranh hoặc có công trong việc cung cấp
thông tin, tài liệu, chứng cứ giúp cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện
hành vi thỏa thuận ấn định giá được hưởng miễn trừ.
Thứ ba, vấn đề xác định thị trƣờng liên quan và xác định thị
phần
Chúng ta cần quy định rõ thời điểm điều tra thị trường liên quan
và thị phần là thời điểm các bên thực hiện thỏa thuận ấn định giá hoặc
thời điểm bắt đầu thực hiện theo các thỏa thuận ấn định giá đó, chứ
không phải là xác định tại thời điểm điều tra.
Thứ tƣ, các quy định hƣớng dẫn về hành vi thỏa thuận ấn
định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
quy định khái niệm hành vi thỏa thuận ấn định giá, còn dành
quyền giải thích, vận dụng, xác định các hành vi này tùy vào từng vụ việc
cụ thể cho cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh hoặc Tòa án.
Thứ năm, về cơ chế xử lý các thỏa thuận ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh
Chúng tôi đề xuất nên sửa đổi Luật Cạnh tranh năm 2004 và văn
bản hướng dẫn thi hành theo hướng đưa thêm vào các quy định các hành
vi không chấp hành, không chịu hợp tác, né tránh trong việc cung cấp tài
liệu, chứng cứ hoặc cung cấp các tài liệu, chứng cứ sai lệch gây khó khăn
cho công tác điều tra, xử lý hành vi thỏa thuận ấn định giá khi cơ quan
điều tra vụ việc cạnh tranh yêu cầu. Đồng thời, cũng cần các quy định
mang tính chế tài đủ sức răn đe, trừng phạt khi các doanh nghiệp có hành
vi không chịu hợp tác với cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh trong quá
trình điều tra.
Thứ sáu, về địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nƣớc về
cạnh tranh
Đòi hỏi nâng cao vị thế cơ quan thực thi cạnh tranh phải độc lập,
được giao quyền lực cao hơn nữa để phù hợp với tính chất nhiệm vụ của
mình.
Thứ bảy, về quy chế phối hợp phát hiện và xử lý các thỏa
thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh
23
24
Chúng tôi đề xuất nên có quy định cụ thể về việc phối hợp, hỗ
trợ của các cơ quan nói trên với cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều
tra các hành vi thỏa thuận ấn định giá nhằm phát hiện và xử lý kịp thời
các hành vi vi phạm.
Thứ tám, cần tăng cƣờng học tập kinh nghiệm quốc tế trong
điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn
chế cạnh tranh
Chúng ta cần phải học hỏi các kinh nghiệm của các nước phát
triển về cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá, thường
xuyên rà soát sửa đổi, hủy bỏ các quy định của Luật cạnh tranh và văn
bản hướng dẫn không còn phù hợp. Ngoài ra, chúng ta còn phải rà soát,
sửa đổi các văn bản pháp luật chuyên ngành nhằm bảo đảm tính thống
nhất trong việc hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật cạnh tranh.
Thứ chín, tăng cƣờng thể chế để xây dựng môi trƣờng cạnh
tranh lành mạnh trong kinh doanh và tăng cƣờng công tác truyền
thông
Cần tạo lập hành lang pháp lý để thúc đẩy canh tranh lành mạnh
trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề của nền kinh tế, tạo điều kiện để các
doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, có thể độc lập
trong kinh doanh và không bị lệ thuộc các doanh nghiệp đầu mối nước
ngoài.
Yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy pháp luật cạnh tranh được
nghiêm chỉnh thực hiện nhằm duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh
như mong muốn của Nhà nước và xã hội là việc các doanh nghiệp nhận
thức được các quy định của pháp luật điều chỉnh hành vi thỏa thuận ấn
định giá. Để đạt được điều này, chúng ta cần phải có các hình thức tuyên
truyền pháp luật cạnh tranh phù hợp đến cho các doanh nghiệp
KẾT LUẬN
Kinh tế Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu đáng kể từ khi chúng
ta xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và hội nhập sâu
rộng, toàn diện với nền kinh tế thế giới. Cạnh tranh là quy luật tất yếu và
không thể thiếu của nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cạnh tranh bao giờ
cũng có tính hai mặt của nó, một mặt nó là động lực phát triển của kinh
tế, một mặt nó tạo ra tình trạng độc quyền, thao túng, bóp méo thị trường
nếu không được kiểm soát phù hợp. Vì vậy, để đảm bảo quá trình kinh tế
phát triển bền vững, pháp luật cạnh tranh với tư cách là bộ phận cấu
thành của pháp luật kinh tế đã được Nhà nước xây dựng và thực hiện
trong những năm vừa qua.
Tuy nhiên, quá trình học hỏi nghiên cứu về pháp luật cạnh
tranh nói chung và cơ chế điều chỉnh pháp luật về thỏa thuận ấn định giá
nói riêng không chỉ là sao chép nguyên văn các quy định của các nước
tiên tiến, mà đòi hỏi có sự nghiên cứu, cân nhắc, chỉnh sửa để áp dụng
phù hợp với đặc điểm riêng của nền kinh tế Việt Nam để phát huy tối đa
vai trò của pháp luật cạnh tranh là duy trì môi trường cạnh tranh lành
mạnh, đảm bảo quyền tự do của doanh nghiệp, bảo vệ quyền hưởng lợi
của người tiêu dùng trong xã hội
Giá cả các hàng hóa, dịch vụ là cái thể hiện chi phí xã hội bỏ
ra, là tiêu chí thể hiện sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp và là
tiêu chí lựa chọn của người tiêu dùng. Vì vậy pháp luật liên quan điều
chỉnh đến giá nói chung và pháp luật điều chỉnh thỏa thuận ấn định giá
nói riêng cần phải được quy định và thực hiện một cách nghiêm chỉnh,
phù hợp với điều kiện thị trường kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Qua nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh thỏa thuận
ấn định giá của các nước tiên tiến trên thế giới, có quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường, xây dựng và thực hiện pháp luật cạnh tranh lâu đời,
cũng như qua quá trình khảo cứu và nhận xét, đánh giá thực trạng về
pháp luật điều chỉnh thỏa thuận ấn định giá hiện nay của Việt Nam, Luận
văn đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng và cụ thể về cơ chế
pháp luật điều chỉnh thỏa thuận ấn định giá góp phần hoàn thiện các quy
định pháp luật và thực tiễn thực hiện cụ thể pháp luật cạnh tranh nói
chung và pháp luật điều chỉnh thỏa thuận ấn định giá nói riêng, góp phần
tạo điều kiện quyền kinh doanh của doanh nghiệp, duy trì môi trường
cạnh tranh lành mạnh có lợi cho người tiêu dùng, góp phần đáp ứng sự
phù hợp với các quy định của điều ước quốc tế song phương và đa
phương mà Việt Nam tham gia, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế./.