Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em, so sánh pháp luật hình sự việt nam với pháp luật hình sự của một số nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.97 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ DIỄM HẰNG

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM – SO SÁNH
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trương Quang Vinh

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
với sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trương Quang Vinh. Các số liệu, thông tin
và kết quả được nêu trong Luận văn là chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
khoa học nào.
Tác giả Luận văn

Lê Thị Diễm Hằng



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

CƯQTE

: Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tổng số vụ án thuộc nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em phải giải
quyết từ năm 2011 – 2015

95

Bảng 1.2. Tổng số vụ án và bị cáo tội Hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS năm 1999)
từ năm 2011 – 2015

95


Bảng 1.3. Tổng số vụ án và bị cáo tội Cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS năm
1999) từ năm 2011 – 2015

96

Bảng 1.4. Tổng số vụ án và bị cáo tội Giao cấu với trẻ em (Điều 115 BLHS năm
1999) từ năm 2011 – 2015

96

Bảng 1.5. Tổng số vụ án và bị cáo tội Dâm ô đối với trẻ em (Điều 116 BLHS năm
1999) từ năm 2011 – 2015

97

Bảng 1.6. Tổng số vụ án và bị cáo tội Mua dâm người chưa thành niên (Điều 256
BLHS năm 1999) từ năm 2011 – 2015

97


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM THEO PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát về các tội xâm phạm tình dục trẻ em


6
6

1.1.1. Khái niệm trẻ em

6

1.1.2. Khái niệm về các tội xâm phạm tình dục trẻ em

8

1.1.3. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế

11

1.2. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo Bộ luật Hình sự Việt Nam
năm 1999

14

1.2.1. Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS năm 1999)

16

1.2.2. Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS năm 1999)

29

1.2.3. Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 BLHS năm 1999)


31

1.2.4. Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116 BLHS năm 1999)

33

1.2.5. Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256 BLHS năm 1999)

35

1.3. Một số điểm mới về các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo Bộ luật Hình
sự Việt Nam năm 2015
1.3.1. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS năm 2015)

37
39

1.3.2. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144 BLHS năm
2015)

41

1.3.3. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS năm 2015)

41

1.3.4. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS năm 2015)


42

1.3.5. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147 BLHS năm
2015)

43

1.3.6. Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329 Bộ luật Hình sự năm 2015)

45

Kết luận chương I

46


CHƯƠNG 2: SO SÁNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM VỚI PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

47

2.1. So sánh quy định pháp luật Hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình
dục trẻ em với pháp luật Hình sự một số nước

47

2.1.1. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Bộ luật Hình sự một số quốc gia
ASEAN


47

2.1.2. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Bộ luật Hình sự Trung Quốc

65

2.1.3. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga

69

2.1.4. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Bộ luật Hình sự Hoa Kỳ

75

2.2. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm
phạm tình dục trẻ em

83

Kết luận chương 2

87

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


PHỤ LỤC

95


7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, cùng với sự phát triển của đất nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em ngày càng được quan tâm, đặc biệt là sau khi Việt Nam phê chuẩn
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990. Hiến pháp Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm
cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37). Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã đề ra yêu cầu: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật
sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp
sống và hình thành nhân cách”; “... Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và
học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em...”; ngày 05-11-2012,
Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, trong đó xác
định: “Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em... Tổ chức thực hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về quyền
trẻ em và các công ước, điều ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam
ký kết hoặc tham gia...”. Việt Nam cũng đã xây dựng được một hệ thống pháp luật,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi xâm hại đến
sự phát triển của các em.
Tuy nhiên, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quốc
tế hóa kéo theo nhiều hệ lụy về mặt xã hội, đặc biệt số vụ phạm tội với trẻ em – đối

tượng dễ bị xâm hại, dụ dỗ, lôi kéo ngày càng gia tăng. Và tình hình nhóm các tội
xâm phạm tình dục trẻ em cũng không nằm ngoài quy luật đó. Theo số liệu của Tòa
án nhân dân tối cao, tổng số vụ án và bị cáo thuộc nhóm các tội xâm phạm tình dục
trẻ em có chiều hướng tăng nhanh. Năm 2010, có 1166 vụ án bị đưa ra giải quyết với
1263 bị cáo thì đến năm 2015, con số này là 1767 vụ án và 1896 bị cáo1. Đây mới chỉ
là con số được thống kê các vụ án đã bị đưa ra xét xử, tuy nhiên, trên thực tế, con số
1 Xem thêm phụ lục 1


8
này chắc chắc còn cao hơn, bởi trẻ em nhận thức còn hạn chế, không biết việc mình
bị xâm hại hoặc lo sợ người thực hiện tội phạm; cũng có thể do sự e ngại của các gia
đình có nạn nhân bị xâm hại... dẫn đến không tố cáo hành vi phạm tội.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
nhận thấy tình hình phức tạp của các tội xâm phạm tình dục trẻ em hiện nay, trong
bối cảnh Bộ luật Hình sự năm 2015 vừa được thông qua còn cần nhiều góp ý hoàn
thiện, người nghiên cứu đã lựa chọn “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em – So sánh
pháp luật hình sự Việt nam với pháp luật hình sự của một số nước” là đề tài
luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em không phải là một đề tài mới,
đặc biệt đối với các hành vi xâm phạm tình dục trẻ em được nghiên cứu không chỉ
dưới góc độ pháp luật mà còn bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau như xã hội học,
hôn nhân gia đình... Cụ thể:
- Về bài đăng trên tạp chí có các công trình:
+ Phạm Mạnh Hùng (2002), Hoàn thiện các quy định của Pháp luật Hình sự về các
tội xâm phạm tình dục trẻ em, Tòa án nhân dân, (12);
+ Nguyễn Thị Xuân (2007), Một số vấn đề về tội phạm xâm hại đến trẻ em trong
Bộ luật Hình sự Việt Nam, Kiểm sát, (6);
+ Nguyễn Phương Lan (2013), Hành vi xâm hại tình dục trẻ em và vấn đề bảo vệ

quyền trẻ em, Luật học, (9);
+ Phan Thị Lan Phương (2014), Bạo lực, xâm hại trẻ em, thực trạng và một số kiến
nghị giải pháp, Tòa án nhân dân, (23).
+ Nguyễn Hữu Dũng (2015), Bàn về giải quyết các vụ án xâm hại tình dục đối với
phụ nữ và trẻ em, Tòa án nhân dân, (9).
- Về luận văn có các công trình:
+ Nguyễn Văn Hương (2003), Luật Hình sự Việt Nam với việc bảo vệ trẻ em, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
+ Trịnh Thị Thu Hương (2004), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình
sự Việt Nam và đấu tranh chống loại tội phạm này, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội.


9
+ Trần Thùy Chi (2011), Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật Hình sự
hiện hành, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
+ Nguyễn Vương Thùy Dương (2013), Trẻ em bị xâm hại tình dục trong gia đình –
Thực trạng và giải pháp , Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
+ Nguyễn Minh Hương (2014), Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật
Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
- Về các công trình khác:
+ Viện Gia đình và Giới (2008), Tổng quan nghiên cứu về tình trạng xâm hại tình
dục trẻ em ở Việt Nam trong những năm gần đây, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.
+ Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên hợp quốc, Văn phòng Khu
vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương (2014), Bóc lột tình dục trẻ em trong du lịch
và lữ hành: Báo cáo phân tích hệ thống pháp luật quốc gia, Hà Nội.
Rõ ràng, xâm phạm tình dục trẻ em là một vấn đề rất được quan tâm, bằng
chứng là có nhiều các công trình nghiên cứu tổng quát cũng như chi tiết các nội

dung liên quan. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào về các tội xâm phạm tình dục
trẻ em đặt trong sự so sánh với pháp luật nước ngoài, đặc biệt từ sau khi BLHS năm
2015 được thông qua, những điểm mới về các tội phạm này so với BLHS năm 1999
vẫn chưa được phân tích làm rõ. Chính những vấn đề này dẫn đến sự khó khăn khi
nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em được quy
định trong cả BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Luận văn được nghiên cứu dưới
góc độ luật hình sự và so sánh luật. Tác giả tập trung phân tích nội dung từng điều
luật, có sự so sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015; từ đó so sánh quy định
của BLHS Việt Nam với quy định tương ứng của BLHS một số nước điển hình.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu nhằm làm rõ các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong
BLHS, từ đó có so sánh để làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa quy
định về của BLHS Việt Nam và BLHS một số nước. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất


10
phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm này.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu nhằm trả lời những câu hỏi sau:
-

Thế nào là trẻ em và các tội xâm phạm tình dục trẻ em?

-

Pháp luật quốc tế quy định như thế nào về xâm phạm tình dục trẻ em?


-

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em được quy định trong BLHS năm 1999 như

thế nào?
-

Sự khác nhau giữa các tội xâm phạm tình dục trẻ em được quy định trong

BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015?
-

So sánh quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình

dục trẻ em với pháp luật hình sự một số nước?
-

Từ sự so sánh với pháp luật hình sự một số nước, có đề xuất gì trong việc

hoàn thiện pháp luật Hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục trẻ em?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
-

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng.
-

Phương pháp nghiên cứu chủ đạo của đề tài là so sánh luật. Ngoài ra, trong


luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp chứng minh, phương
pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp...
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em, tuy không phải là một vấn đề
mới, nhưng đặt trong bối cảnh hiện nay, khi Hiến pháp 2013 đã đi vào đời sống,
BLHS năm 2015 đã được Quốc hội thông qua, thì vấn đề này cần được nghiên cứu
một cách chi tiết, cụ thể. Luận văn được thực hiện, với mong muốn của tác giả, sẽ:
- Phân tích và bàn luận những quy định của pháp luật hiện hành về các tội
xâm phạm tình dục trẻ em, những quan điểm còn chưa thống nhất nội dung các quy
định này.
- Là luận văn đầu tiên nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong
BLHS năm 2015; đặt trong sự so sánh với BLHS một số nước trên thế giới.


11
Về thực tiễn, tác giả hi vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho việc
xây dựng và áp dụng pháp luật, cho việc đào tạo và nghiên cứu...
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được chia thành hai chương, bao gồm:
- Chương 1: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật Hình sự Việt Nam
- Chương 2: So sánh quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm
tình dục trẻ em với pháp luật Hình sự của một số nước và một số đề xuất hoàn thiện
pháp luật.


12
CHƯƠNG 1: CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.

Khái quát về các tội xâm phạm tình dục trẻ em

1.1.1. Khái niệm trẻ em
Trẻ em – những chủ nhân tương lai của đất nước là một trong những nhóm
đối tượng đặc biệt được quan tâm trong xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
luôn là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Là nước thứ hai
trên thế giới và là quốc gia đầu tiên tại châu Á tham gia Công ước của Liên hợp
quốc về quyền trẻ em (CƯQTE) năm 1989, Việt Nam đã thể hiện sự chăm sóc đặc
biệt tới thế hệ tương lai này.
Vậy trẻ em được hiểu như thế nào? Trên thế giới và ngay tại Việt Nam, từ
trước đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm trẻ em.
Trong các công ước quốc tế, thuật ngữ trẻ em được sử dụng thống nhất và đã
được đề cập trong Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, Tuyên ngôn của Liên hợp
quốc về quyền trẻ em năm 1959, Tuyên ngôn thế giới về quyền của con người năm
:1968, Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quyền trẻ em năm
1989, Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế về tuổi tối thiểu làm việc năm
1976, Công ước số 182 về Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999... Theo Điều 1 CƯQTE “Trẻ em là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em có độ tuổi thành niên
sớm hơn” hay tại Điều 2 Công ước số 182 của Tổ chức Lao động quốc tế ban hành
năm 1999 cũng quy định “Trong Công ước này, thuật ngữ trẻ em sẽ áp dụng cho tất
cả những người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên trong một số điều ước quốc tế khác, khái
niệm trẻ em được gọi là người chưa thành niên hoặc vị thành niên, ví dụ như tại
Mục a Quy tắc số 2.2 – Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc áp
dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Còn gọi Quy tắc Bắc Kinh) năm
1985 nêu rõ “Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ
thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức khác với việc

xét xử người lớn”. Như vậy, có thể thấy, trong các điều ước quốc tế của thế giới
hiện nay đều thống nhất quan điểm trẻ em là người dưới 18 tuổi.


13
Tại Việt Nam, khái niệm “trẻ em” được sử dụng rộng rãi trong các ngành
khoa học khác nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, luật học; tuy nhiên,
việc thống nhất một khái niệm chung cho thuật ngữ này hiện nay vẫn còn là một
vấn đề được đưa ra tranh luận.
Dưới góc độ xã hội học, trẻ em là một bộ phận của cơ cấu xã hội, dựa vào
tiêu chí đặc điểm nhân khẩu, kết cấu xã hội được chia thành nam - nữ, người già người trẻ, người lớn – trẻ em, trình độ dân trí cao – thấp2. Như vậy, trẻ em được
xác định là người có vị thế, vai trò xã hội khác với người lớn, vì vậy, cần được quan
tâm, tạo điều kiện sinh trưởng, nuôi dưỡng, bảo vệ, chăm sóc, phát triển thành
người lớn.
Dưới góc độ tâm lý học, xác định trẻ em căn cứ vào độ tuổi và yếu tố tâm lý
trong từng giai đoạn phát triển. Cụ thể là các giai đoạn: 0 – 1,5 tuổi; từ 1,5 – 3 tuổi,
từ 3 – 6 tuổi, từ 6 – 12 tuổi, từ 13 tuổi – 18 tuổi.
Cũng có quan điểm cho rằng “Trẻ em là một nhóm người ở một độ tuổi nhất
định, trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người, có những đặc điểm về sức
khỏe, tâm – sinh lý khác với nhóm khác trong xã hội và được hưởng những quy chế
pháp lý đặc thù”3
Có thể thấy, các quan điểm trên đây đều đề cập khái niệm trẻ em dựa vào
những đặc điểm về tâm sinh lý hoặc dựa vào căn cứ đặc thù của từng ngành nghiên
cứu nhưng chưa thống nhất được căn cứ chung để xác định thế nào là trẻ em.
Dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay, có thể thấy, dưới góc độ
luật học, việc xác định trẻ em căn cứ vào việc phân định độ tuổi. Tuổi là một trong
những căn cứ để đánh giá giai đoạn phát triển về thể chất, nhận thức cũng như tâm –
sinh lý của con người. Cụ thể, tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 đã quy định “Trẻ em
là người dưới 16 tuổi”. Có thể thấy, quy định về trẻ em giữa Luật trẻ em năm 2016
và Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 không có sự khác nhau về

khái niệm trẻ em. Tại năm dự thảo khi xây dựng Luật trẻ em năm 2016 đều quy
định độ tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. Quy định này phù hợp với CƯQTE cũng
2 Trần Thị Chung (2010), Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành, Khóa luận
tốt nghiệp, Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan, Hà Nội, trang 5.
3 Hoàng Thị Thùy Dung (2014), Các quyền cơ bản của trẻ em theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận văn
thạc sĩ luật học, Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Hường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội,
trang 8.


14
như một số điều ước quốc tế khác mà Việt Nam tham gia, tuy nhiên đến dự thảo thứ
6, cũng là dự thảo cuối cùng được đưa ra trình Quốc hội, độ tuổi của trẻ em lại quay
trở về dưới 16 tuổi. Như vậy hiện nay, đây là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất
của Việt Nam quy định về khái niệm trẻ em. Và căn cứ độ tuổi khẳng định “Trẻ em
là người dưới 16 tuổi” cũng là quan điểm được nhiều nhà nghiên cứu đồng tình khi
xác định thế nào là trẻ em.
1.1.2. Khái niệm về các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Theo quan điểm của Liên hợp quốc, trẻ em là đối tượng thuộc nhóm yếu thế
trong xã hội. Đây cũng chính là nhóm đối tượng dễ bị xâm hại bởi các tội phạm
khác nhau, trong đó có các tội phạm xâm hại tình dục.
Để có thể đưa ra được khái niệm về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, trước
hết, cần hiểu thế nào là xâm phạm tình dục trẻ em. Xét về mặt ngữ nghĩa, “Xâm
phạm là xâm hại đến khiến cho bị tổn hại ” còn “Tình dục là nhu cầu tự nhiên của
con người về quan hệ tính giao”4. Hiện nay, thuật ngữ xâm phạm và xâm hại tình
dục trẻ em chưa có cách dùng thống nhất, tuy nhiên, theo quan điểm của người
nghiên cứu, xét về mặt ngữ nghĩa, hai cách hiểu này tương đương nhau, đều thể
hiện bản chất các hành vi gây tổn hại đến nhu cầu tình dục của trẻ em.
Hiện nay, chưa có một định nghĩa thống nhất của quốc tế về hiện tượng xâm
hại tình dục trẻ em mặc dù đã có nhiều tiêu chí, đặc điểm của hiện tượng này được
nêu ra.

Baker và Ducan (1985) trong cuốn “Xâm hại tình dục trẻ em” nghiên cứu về
thực trạng ở Anh đã nêu “Trẻ em (dưới 16 tuổi) được coi là bị xâm hại tình dục khi
một người đã trưởng thành về sinh lý lôi kéo vào bất kỳ hoạt động kích thích nhằm
thỏa mãn nhu cầu về mặt tình dục”5. Định nghĩa này kết hợp giữa sự phân loại về ý
nghĩa của từ tình dục với những chỉ dẫn về mặt tuổi tác của trẻ em.
Tuy nhiên, có một số định nghĩa khác liên quan đến các chuẩn mực, giá trị
xã hội và khả năng của trẻ em trong việc chấp thuận và đáp ứng những sự tiếp xúc
về tình dục, như định nghĩa của Schechter và Roberge:
4 Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học Hà Nội, Đà Nẵng
5 Baker and Ducan (1985), Xâm hại tình dục trẻ em, UK trích trong tài liệu: Viện Gia đình và Giới (2008),
Tổng quan nghiên cứu về tình trạng xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam trong những năm gần đây, Báo cáo
nghiên cứu, Hà Nội, tr 3.


15
“Xâm hại tình dục được hiểu là sự lôi kéo trẻ em và vị thành niên, là những
người sống phụ thuộc và chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất, vào các hoạt động
tình dục mà chúng không thực sự hiểu đầy đủ hoặc không có khả năng đưa ra sự
đồng ý một cách có hiểu biết hoặc vi phạm vào các cấm kỵ xã hội về các vai trò
trong gia đình”6.
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) coi xâm hại tình dục trẻ em là:
“Sự lôi kéo trẻ em vào hoạt động tình dục mà trẻ không có khả năng đồng ý
một cách có hiểu biết (hoặc không hiểu biết đầy đủ) hoặc trẻ chưa phát triển đầy đủ
và không có khả năng đồng tình, hoặc vi phạm pháp luật và các điều cấm kỵ của xã
hội. Người có hành vi xâm hại có thể là vị thành niên, thanh niên mà về mặt tuổi tác
và sự phát triển có mối quan hệ về trách nhiệm và quyền hạn với trẻ” 7.
Khái niệm này chỉ ra rằng trẻ em bị xâm hại tình dục có thể không nhận thức
được điều đó, chúng chỉ được coi như là khách thể hoặc công cụ hành động. Tuy
nhiên, khái niệm này của UNICEF lại giới hạn phạm vi chủ thể của hành vi này, khi
chỉ quy định chủ thể là người “có mối quan hệ về trách nhiệm và quyền hạn với trẻ”.

Tại Việt Nam, xâm phạm tình dục trẻ em là đề tài được nhiều cơ quan, tổ
chức quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, thế nhưng, chưa có sự
thống nhất về khái niệm này. Tại báo cáo “Phân tích kết quả kết nối can thiệp các
ca trẻ em bị xâm hại tình dục qua hoạt động của đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ
em” năm 2008 của Trung tâm tư vấn và dịch vụ truyền thông – Cục Bảo vệ, Chăm
sóc trẻ em thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội định nghĩa:
“Xâm hại tình dục trẻ em là hành vi có chủ ý làm hài lòng, thỏa mãn nhu cầu
tình dục của một người đối với trẻ em, là sự tham gia của trẻ em vào một hành vi
tình dục mà các em chưa hiểu biết đầy đủ, không thể đồng ý, vi phạm pháp luật và
đạo lý xã hội. Hành vi này có thể bao gồm việc thuyết phục hoặc đe dọa trẻ tham
gia vào bất kỳ hành vi tình dục phi pháp nào; sử dụng trẻ em mang tính bóc lột làm
mại dâm hoặc các hoạt động tình dục phi pháp khác; sử dụng trẻ em trong các ấn
phẩm khiêu dâm, hiếp dâm trẻ em”8.
6 Danya Glaser and Stephen Frosh (1993), Child sexual abuse, England trích trong tài liệu: Viện Gia đình và
Giới, tlđd, chú thích 4, tr 3
7 Karin Heissler (2001), Background paper on good practices and priorites to combat sexual abuse and
exploitation of children in Bangladesh, Dhaka, tr 12
8 Trung tâm tư vấn và dịch vụ truyền thông – Cục Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em thuộc Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội (2008), Phân tích kết quả kết nối can thiệp các ca trẻ em bị xâm hại tình dục qua hoạt động


16
Tác giả Nguyễn Vương Thùy Dương đưa ra quan điểm:
“Xâm hại tình dục trẻ em là những hành vi dùng sức mạnh để cưỡng ép, lôi
kéo, ép buộc trẻ em phải quan hệ tình dục, tham gia vào các hoạt động mại dâm,
các văn hóa phẩm khiêu dâm...trái với ý muốn của trẻ em hoặc trong tình trạng trẻ
em không thể thể hiện được ý chí của mình, xâm hại đến quyền được tôn trọng về
thân thể, nhân phẩm, danh dự và quyền bất khả xâm phạm tình dục của trẻ em”9.
Tại khoản 8 Điều 4 Luật trẻ em năm 2016 quy định
“Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc,

lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp
dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại
dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”.
Như vậy, hiện nay, Luật trẻ em đã đưa ra một khái niệm cụ thể về xâm hại
tình dục trẻ em. Và rõ ràng, các nhà nghiên cứu cũng như trong quy phạm pháp của
Việt Nam đều đưa ra khái niệm thông qua liệt kê các hành vi được xem là xâm
phạm tình dục trẻ em.
Theo quan điểm của người nghiên cứu, sau khi tham khảo quan điểm của
nước ngoài và Việt Nam, thì “Xâm phạm tình dục trẻ em là những hành vi dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi vào các hành vi liên quan
đến tình dục”.
Về khái niệm tội phạm, khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 quy định “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập chủ quyền...”.
Từ khái niệm tội phạm trong luật, nghiên cứu một số khái niệm tội phạm
trong giáo trình của các cơ sở đào tạo và một số sách chuyên khảo, theo quan điểm
người nghiên cứu, tội phạm phải thỏa mãn các đặc điểm:
- Thứ nhất, phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội – đó là những hành vi gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những khách thể được luật Hình sự bảo vệ.
của đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em, Báo cáo, Hà Nội trích trong tài liệu: Viện Gia đình và Giới, tlđd, chú
thích 4, tr 3
9 Nguyễn Vương Thùy Dương (2013), Trẻ em bị xâm hại tình dục trong gia đình – Thực trạng và giải pháp ,
Luận văn thạc sĩ luật học, Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan, Trường Đại học Luật Hà
Nội, tr 14.


17
- Thứ hai, tính có lỗi – theo đó, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là
tội phạm nếu chủ thể có lỗi khi thực hiện hành vi đó. Lỗi được xác định là kết quả

của sự tự lựa chọn của người phạm tội trong điều kiện khách quan và chủ quan để
thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
- Thứ ba, tính được quy định trong BLHS: có một số quan điểm cho rằng đặc
điểm này nên là “tính trái pháp luật hình sự” vì “có trường hợp được phép thực
hiện hành vi được quy định trong (Bộ) luật hình sự và khi đó hành vi đã thực hiện
không phải là tội phạm”10. Tuy nhiên, theo quan điểm của người nghiên cứu, tính
được quy định trong BLHS bao quát hơn cho mọi trường hợp, đồng thời có thể hiểu
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và được quy định trong BLHS là tội phạm
là cách định nghĩa hợp lí, phù hợp với cách xây dựng của BLHS.
Từ phân tích khái niệm xâm phạm tình dục trẻ em và tội phạm, có thể hiểu,
“các tội xâm phạm tình dục trẻ em là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi,
được quy định trong BLHS nhằm lôi kéo, ép buộc hoặc dụ dỗ người dưới 16 tuổi
vào các hành vi liên quan đến tình dục”.
1.1.3. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế
Từ đầu thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến sự ban hành của hàng loạt các hiệp
ước quốc tế liên quan, trực tiếp hoặc gián tiếp, tới bóc lột tình dục trẻ em. Một số các
hiệp ước chính có thể kể ra như: Công ước quốc tế về phòng chống buôn bán phụ nữ
và trẻ em năm 1921, Công ước về nô lệ năm 1923, Công ước về phòng chống mọi
hình thức phân biệt chống lại phụ nữ năm 1979, Công ước quốc tế về quyền trẻ em
năm 1989 và Nghị định thư không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và
khiêu dâm trẻ em (2000) (Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho CƯQTE), Công
ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, Nghị
định thư về phòng ngừa, trấn áp, trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em (năm 2012) ... Những điều ước này là căn cứ pháp lý quan trọng để giải
quyết các vấn đề liên quan đến xâm phạm tình dục trẻ em và cũng là khuyến nghị để
các quốc gia thành viên nội luật hóa khi xây dựng pháp luật.
Hiệp ước chống lưu hành và buôn bán các văn hóa phẩm đồi trụy năm 1923
(được bổ sung bằng Nghị định thư ngày 12/11/1947), Hiệp ước sửa đổi đã được 53
10 GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.23



18
quốc gia ký kết thông qua vào ngày 31/12/1994. Theo hiệp ước này, bất cứ phương
tiện truyền thông nào, dưới bất kỳ hình thức nào, mô tả hoặc mô phỏng các hoạt
động tình dục liên quan tới trẻ em dưới 16 tuổi hoặc gửi nhận các tài liệu khiêu dâm
qua thư điện tử và cho trẻ em xem đều bị nghiêm cấm. Mọi hình thức, vô tình hay
chủ ý, buôn bán, phát tán, triển lãm công cộng, sản xuất hay sở hữu các tranh, ảnh,
sách, ấn phẩm in, ấn phẩm điện tử... khiêu dâm trẻ em đều có thể bị xử phạt.
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989: Đây là điều ước
quốc tế liên quan trực tiếp đến trẻ em, quy định về quyền của trẻ em và nghĩa vụ
của các quốc gia thành viên để đảm bảo thực hiện những quy định đó. Tại Điều 19
CƯQTE đã nêu:
“Các quốc gia thành viên phải thực hiện tất cả các biện pháp lập pháp, hành
chính, xã hội và giáo dục thích hợp để bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các hình thức bạo
lực về thể chất hoặc tinh thần, bị thương tổn hay lạm dụng, bị bỏ mặc hoặc sao
nhãng việc chăm sóc, bị ngược đãi hoặc bóc lột, gồm cả lạm dụng tình dục trong
khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, một hay
nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm
sóc trẻ em”.
Điều 34 CƯQTE buộc các quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em chống
lại tất cả các hình thức bóc lột tình dục và lạm dụng tình dục. Vì mục đích này, các
quốc gia thành viên phải đặc biệt thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp ở cấp
quốc gia, song phương và đa phương để ngăn ngừa việc xúi giục hay ép buộc trẻ em
tham gia bất kì hoạt động tình dục trái pháp luật; việc sử dụng có tính chất bóc lột
trẻ em trong mại dâm hay các hoạt động tình dục trái pháp luật khác; việc sử dụng
có tính chất bóc lột trẻ em trong các cuộc biểu diễn hay tài liệu khiêu dâm.
Điều 39 quy định các quốc gia thành viên phải tiến hành tất cả các biện pháp
thích hợp để thúc đẩy sự phục hồi về thể chất, tâm lý và tái hòa nhập xã hội của trẻ
em là nạn nhân của bất kỳ hình thức bỏ mặc, bóc lột hay lạm dụng nào, tra tấn hay
bất kỳ hình thức đối xử hay trừng phạt độc ác, vô nhân đạo và nhục hình nào khác,

hoặc các cuộc xung đột vũ trang. Sự phục hồi và tái hòa nhập phải diễn ra trong một
môi trường giúp tăng cường sức khỏe, lòng tự trọng và phẩm giá trẻ em.


19
Năm 2000, với Nghị định thư không bắt buộc liên quan đến phòng chống
buôn bán, mại dâm và khiêu dâm trẻ em là những sự bổ sung cần thiết, là căn cứ
pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em chống lại sự xâm hại, đòi hỏi các quốc
gia thành viên phải có biện pháp cụ thể để nghiêm cấm và phải hình sự hóa các
hành vi mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em. Những hành vi cụ thể
được Nghị định thư liệt kê như cung cấp, chuyển giao hay tiếp nhận trẻ em dưới bất
kì hình thức nào nhằm mục đích bóc lột tình dục trẻ em; mời chào, tìm giúp, môi
giới hoặc cung cấp trẻ em cho mục đích mại dâm trẻ em; làm ra, phát tán, phổ biến,
nhập khẩu, xuất khẩu, chào mời, bán hoặc tàng trữ tài liệu khiêu dâm trẻ em; tổ
chức, xúi giục, giúp sức người thực hiện tội phạm thực hiện một trong các hành vi
kể trên hoặc hành vi của người thực hiện tội phạm ở giai đoạn chưa hoàn thành11.
Nghị định thư cho các quốc gia có cơ hội khẳng định quyền tài phán rộng rãi của
mình đối với cả hành vi phạm tội xảy ra bên trong và cả bên ngoài lãnh thổ nước
họ. Các quốc gia thành viên phải tiến hành nhiều biện pháp tương trợ lẫn nhau
nhằm tạo thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố và dẫn độ tội phạm tình dục trẻ
em, cũng như trong việc tịch thu, xung công lợi nhuận bất hợp pháp tạo ra từ những
hoạt động phạm tội này12.
Công ước 182 của Tổ chức lao động quốc tế về ngăn cấm và hành động tức
thời nhằm xóa bỏ mọi hình thức lao động trẻ em khổ sai. Những quốc gia tham gia
ký kết phải cam kết đẩy mạnh nhanh chóng các chính sách và chương trình nhằm
xóa bỏ và ngăn cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ. Liên quan tới phòng chống
xâm hại tình dục trẻ em, bao gồm buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em, thuê trẻ em
múa khiêu dâm hay sử dụng trẻ em vào các công việc sản xuất ấn phẩm khiêu dâm.
Đồng thời, chính phủ phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ vả người làm và chủ thuê.
Đặc biệt với xã hội dân sự, công ước giúp nâng cao nhận thức về bóc lột tình dục trẻ

em và là cơ sở quan trọng trong công tác phòng chống du lịch mại dâm trẻ em, hoạt
động có nguy cơ làm bùng phát nạn buôn bán, mại dâm và khiêu dâm trẻ em.
Ngoài ra, còn một số công ước quốc tế khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, đề cập
đến bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi xâm phạm tình dục. Như vậy, có thể kết luận,
11 Điều 4 (1) Nghị định thư không bắt buộc liên quan đến phòng chống buôn bán, mại dâm và khiêu dâm trẻ
em.
12 Điều 6, Điều 7, tlđd, chú thích 10.


20
xâm phạm tình dục trẻ em là một vấn đề được quốc tế quan tâm, và đã có nhiều văn
kiện pháp lý quốc tế được thống nhất để bảo vệ, phòng ngừa cho những thế hệ
tương lai này khỏi những hành vi bóc lột tình dục nói riêng và đảm bảo cho các em
có một cuộc sống lành mạnh nói chung.
1.2.

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999
Từ khái niệm về các tội xâm hại tình dục trẻ em như đã phân tích trên, có thể

thấy, Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
- Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112);
- Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114);
- Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115);
- Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116);
- Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256)
Là các tội thuộc nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Và từ sự nghiên
cứu cấu thành tội phạm của các tội này, có thể chỉ ra một số dấu hiệu pháp lý chung
như sau:
- Thứ nhất, về khách thể của tội phạm.
“Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội

phạm xâm hại”13. Phần lớn các tội được liệt kê trên thuộc nhóm “Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” tại chương XII
BLHS năm 1999, ngoại trừ Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256) được
quy định tại chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Khách thể của nhóm các tội phạm này chính là quyền được tôn trọng nhân phẩm,
danh dự và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em.
- Thứ hai, về mặt khách quan của tội phạm.
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan”14. Những biểu hiện bên ngoài đó ban gồm: Hành vi khách quan nguy hiểm
cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa
13 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Xem “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Tập 1”, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, tr. 86.
14 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Xem “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Tập 1”, tlđd, chú thích
13, tr. 99.


21
hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội
(như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...).
Đối với mỗi loại tội phạm trong nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em có các
hành vi khách quan khác nhau, tuy nhiên về hậu quả đều dẫn đến việc trẻ em sẽ bị
tổn thương về sức khỏe, thậm chí là tính mạng; nghiêm trọng hơn, chúng còn gây
ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em, dẫn đến các em
có thể sẽ có những sự ám ảnh hoặc lệch lạc nhất định trong tình dục cũng như cuộc
sống. Một nghiên cứu đã chỉ ra hậu quả khi trẻ em bị xâm hại tình dục, theo đó có
đến 84,3% trẻ bị tổn thương về tinh thần và ảnh hưởng đến tương lai; 65,7% trẻ dễ
bị mặc cảm, phát triển không bình thường; 55,7% trẻ khó hòa nhập với xã hội;
69,1% trẻ bị tổn thương về sức khỏe thể chất; ngoài ra còn có thể gây ra những tổn
thương nặng nề tại bộ phận sinh dục hoặc tổn thương khác, bị nhiễm các bệnh xã

hội lây qua đường tình dục như HIV/AIDS, trẻ em là nữ có thể mang thai ngoài ý
muốn...15
- Thứ ba, về mặt chủ quan của tội phạm.
Nếu mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ
quan lại là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội”16. Mặt chủ quan và
mặt khách quan của tội phạm luôn gắn liền với nhau tạo thành một thể thống nhất.
Những nội dung cụ thể của hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao
gồm: Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội cố ý; Mục đích là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra
phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội; Lỗi là thái độ tâm lý của con người
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó
gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Lỗi là dấu hiệu quan trọng
nhất, được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Theo Điều 9 BLHS thì căn
cứ vào cấu trúc tâm lý của yếu tố lý trí và ý chí, lỗi được chia làm lỗi cố ý và lỗi vô
ý. Lỗi cố ý được chia làm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý bao gồm lỗi vô ý
do cẩu thả và vô ý do quá tự tin.

15 />16 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Xem “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Tập 1”, tlđd, chú thích
13, tr. 133


22
Đối với nhóm tội này, có thể khẳng định lỗi của chủ thể là lỗi cố ý. Cụ thể ở
đây, người phạm tội nhận thức rõ được hành vi của mình có tính chất nguy hiểm
cho xã hội; thấy trước hậu quả mà hành vi của mình có thể gây ra cho trẻ em và
mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Tuy nhiên, một vấn đề
đặt ra khi định tội trong nhóm tội này, đó là việc chủ thể của tội phạm biết hay
không biết tuổi của nạn nhân. Về vấn đề này sẽ được người nghiên cứu phân tích
khi đi vào các tội cụ thể.
Như vậy, nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em có những dấu hiệu pháp lý

chung về khách thể, hậu quả và lỗi cố ý của chủ thể. Những dấu hiệu khác, trong
cấu thành tội phạm khác nhau, lại có những đặc điểm riêng, cụ thể:
1.2.1. Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS năm 1999)
BLHS năm 1985 không quy định hiếp dâm trẻ em là một tội danh độc lập mà
chỉ là tình tiết định khung tăng nặng của tội hiếp dâm17. Đến lần sửa đổi thứ tư năm
1997, nhà làm luật đã tách hiếp dâm trẻ em thành một tội danh độc lập trong BLHS
năm 1985 (Điều 112a). Và đến BLHS năm 1999, tội hiếp dâm trẻ em vẫn được giữ
nguyên là một tội độc lập được quy định tại Điều 112, theo đó: “Người nào hiếp
dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm
năm” (khoản 1) và “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm
tội hiếp dâm trẻ em” (khoản 4). Như vậy, từ quy định trên và quy định về tội Hiếp
dâm tại Điều 111, có thể rút ra khái niệm “Tội hiếp dâm trẻ em là hành vi dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu với trẻ em trái ý muốn của họ hoặc lợi dụng tình
trạng không có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn của trẻ em dưới 13 tuổi để giao cấu
với họ”18.
1.2.1.1. Chủ thể và nạn nhân của tội phạm
* Chủ thể của tội phạm
“Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi
luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể”19. Như vậy, chủ thể của tội
17 Khoản 4 Điều 112 BLHS năm 1985
18 Nguyễn Văn Hương (2003), Luật Hình sự Việt Nam với việc bảo vệ trẻ em, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.34.
19 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Xem “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Tập 1”, tlđd, chú thích
13, tr. 122.


23
phạm là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Ngoài hai dấu hiệu bắt
buộc trên, một số loại tội còn đòi hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu khác, gọi là

chủ thể đặc biệt. Tội hiếp dâm trẻ em, cũng như tội hiếp dâm, theo quan điểm của
một số nhà nghiên cứu cũng như thực tiễn xét xử Việt Nam được thừa nhận là tội có
chủ thể đặc biệt. Người phạm tội ngoài thỏa mãn hai dấu hiệu về năng lực TNHS và
độ tuổi thì họ phải là nam giới. Cần chú ý, trong các vụ án đồng phạm hiếp dâm trẻ
em, điều kiện là nam giới chỉ đòi hỏi ở người thực hành. Nữ giới cũng có thể là chủ
thể của tội phạm này khi là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức trong vụ
án đồng phạm.
* Nạn nhân của tội phạm
“Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ”20. Đối tượng tác động của tội phạm có
thể là con người, các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội
hoặc hoạt động bình thường của chủ thể. Như vậy, con người hay nạn nhân của tội
hiếp dâm chính là đối tượng tác động của tội này. Tuy nhiên, con người ở đây là
nam giới hay nữ giới vẫn đang là một vấn đề gây tranh cãi. Pháp luật hình sự Việt
Nam từ trước đến nay chỉ thừa nhận nạn nhân của tội hiếp dâm là nữ giới, và tương
tự với tội hiếp dâm trẻ em, nạn nhân là trẻ em gái, cụ thể là trẻ em dưới 16 tuổi.
Mặc dù một số nhà nghiên cứu cũng như thực tiễn xét xử đồng tình với quan
điểm chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em là nam giới và nạn nhân là trẻ em nữ dưới 16
tuổi, nhưng trên thực tế đã có những trường hợp mới phát sinh mà pháp luật chưa
quy định. Ví dụ trong những năm gầy đây, những vụ án hiếp dâm trẻ em đồng giới
ngày càng nhiều, có thể kể đến vụ Nguyễn Đình Việt thực hiện hành vi tình dục với
bé trai gần nhà tại Quảng Ninh21 hay vụ án của Thi Trường Hận22. Trong vụ án
của bị cáo Nguyễn Đình Việt, nạn nhân là bé trai 3 tuổi còn vụ án của Thi Trường
Hận, tuổi của các nạn nhân là từ 8 đến 14 tuổi; và cả hai đối tượng này chỉ bị xét xử
về tội dâm ô đối với trẻ em. Tuy nhiên, về bản chất, nếu nạn nhân của Việt hay Hận
là trẻ em nữ, thì rõ ràng Việt và Hận đã phạm tội Hiếp dâm trẻ em do có hành vi
20 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Xem “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Tập 1”, tlđd, chú thích
13, tr. 94.
21 Phụ lục 2

22 Phụ lục 3


24
giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi và khung hình phạt nghiêm khắc hơn. Trong các vụ
án trên, cả cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án còn xử lí khá khiên cưỡng, mặc
dù về tính chất, đây rõ ràng là một vụ hiếp dâm trẻ em, chỉ vì nạn nhân là nam giới
dẫn đến người áp dụng pháp luật gặp khó khăn. Đây là hai trong số nhiều vụ án xảy
ra gần đây mà hành vi quan hệ tình dục với trẻ em cùng giới được phát hiện và bị
xử lí. Theo tìm hiểu của người nghiên cứu, hiện nay, chưa có cuộc điều tra nào về
số lượng người đồng tính ở Việt Nam. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu khác nhau
nhưng cho các tỉ lệ khác nhau, biến động từ 1% đến 9% người ở độ tuổi sinh hoạt
tình dục tự nhận họ là người đồng tính và song tính...Như vậy,nếu lấy tỉ lệ trung
bình, “an toàn” mà nhiều nhà khoa học thừa nhận là 3% thì số người đồng tính và
song tính tạm tính ở Việt Nam trong độ tuổi từ 15 đến 59 vào khoảng 1,65 triệu
người (Tính theo dân số Việt Nam năm 2007 có 55,38 triệu người trong độ tuổi 1559)23. Như vậy, rõ ràng số lượng người đồng tính ở Việt Nam không hề nhỏ, và
việc nhìn nhận lại quan điểm về chủ thể và nạn nhân của tội hiếp dâm trẻ em cần
được cân nhắc để có thể dự liệu được các tình huống trong thực tế, bảo vệ toàn diện
cho trẻ em – những đối tượng dễ bị xâm hại trong cuộc sống.
1.2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
* Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội hiếp dâm trẻ em là hành vi giao cấu trái ý muốn
của nạn nhân bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân.
- Về hành vi giao cấu:
Khái niệm giao cấu từ trước đến nay mới chỉ được quy định trong một văn
bản pháp luật duy nhất đó là Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp
dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329 – HS2 ngày 11/05/1967 của
Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó: “Giao cấu là sự cọ xát trực tiếp dương vật vào
bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào

trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh
hay không”. Pháp luật hình sự Việt Nam coi giao cấu là sự cọ xát trực tiếp giữa
dương vật và bộ phận sinh dục nữ, nghĩa là gián tiếp thừa nhận hành vi giao cấu chỉ
23 Lê Quang Bình (2012), “Đánh giá dưới góc độ xã hội về tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền của người
đồng tính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình”, Viện nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường ISEE.


25
xảy ra giữa hai người khác giới tính. Có thể thấy rằng, đây là một định nghĩa được
đưa ra từ những năm 1967 nên đã không còn phù hợp với khái niệm giao cấu thông
thường, thực tiễn cũng như xu hướng lập pháp của các nước trên thế giới hiện nay.
Trong việc quan hệ tình dục nhằm thỏa mãn khoái cảm của bản thân, con người
không chỉ đơn thuần sử dụng một hành vi duy nhất là đưa dương vật vào âm hộ. Để
làm rõ về vấn đề này, người nghiên cứu đã tìm hiểu về hành vi tình dục của con
người dưới góc độ sinh học. Trong cuốn “Tình dục học đại cương” của bác sỹ Đào
Xuân Dũng có đề cập đến khái niệm tình dục như sau: “Tình dục là hành vi để tìm
kiếm khoái cảm hoặc để sinh sản, có nội hàm rộng, không chỉ có nghĩa là giao hợp
giữa người nam và người nữ mà còn bao gồm cả nhiều hành vi khác nhằm đem lại
khoái cảm bằng tay hay bằng miệng, ở vùng cơ quan sinh dục hay ở những bộ phận
khác của cơ thể. Cũng vẫn là tình dục khi thực hành tìm kiếm khoái cảm với bạn
tình khác giới hay cùng giới, với một hay nhiều hơn một người, tự mình gây ra
khoái cảm hay gây khoái cảm cho nhau, mơ tưởng đến chuyện tình dục hay sử dụng
dụng cụ chuyên dụng”24. Như vậy hành vi tình dục ở con người là rất rộng, ngoài
hành vi đưa dương vật vào âm hộ, họ còn có thể đưa dương vật vào nhiều bộ phận
khác trên cơ thể như miệng, hậu môn,… bạn tình nhằm thỏa mãn khoái cảm; không
những sử dụng dương vật, người tham gia quan hệ tình dục còn có thể dùng tay,
miệng hoặc các dụng cụ hỗ trợ tình dục khác như đồ chơi tình dục, dương vật giả…
Đặc biệt trong quan hệ tình dục đồng giới thì việc đưa dương vật vào âm hộ bạn
tình là điều không thể, do đó những hành vi trên xảy ra rất phổ biến như hai người
nam quan hệ tình dục qua đường hậu môn, hai người nữ dùng tay hoặc dương vật

giả để kích thích cho người còn lại… Ngay cả trong thực tiễn xét xử hiện nay, khái
niệm giao cấu cũng đã được mở rộng, như vụ án của Nguyễn Văn S25, mặc dù
không có hành vi giao cấu như trong hướng dẫn tại Bản tổng kết 329/HS2, tuy
nhiên, tại bản án vẫn kết luận “Xét hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, bị
cáo có hành vi giao cấu với cháu L, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến nhân
phẩm, danh dự và sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của cháu L. Do
đó hành vi của bị cáo phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” theo khoản 4 Điều 112 BLHS”.

24 Bác sỹ Đào Xuân Dũng (2006), “Tình dục học đại cương”, Nxb. Y Học, tr. 35.
25 Phụ lục 4


×