Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 trường tiểu học số 1 phúc trạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.89 KB, 71 trang )

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

GV
HS

: Giáo viên
: Học sinh

SGK

: Sách giáo khoa

SGV

: Sách giáo viên

NXB

: Nhà xuất bản

VD

: Ví dụ

TLV

: Tập làm văn

Page 1




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ mở đầu thiên nhiên kỷ mới, trên thế giới có
biết bao sự thay đổi lớn lao và mạnh mẽ. Những cơng trình khoa học, mạng lưới
cơng nghiệp và nền giáo dục cũng từng bước được phát triển mang lại nhiều lợi
ích phục vụ cho cơng cuộc phát triển đất nước. Với Việt Nam, bước vào thời kỳ
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là cơ hội cũng như chứa nhiều thử thách đối với
đất nước và con người thời đại mới. Đây là một quá trình đầy gian khổ kéo dài
nhiều năm dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cơ cấu kinh tế, trình độ phát
triển sản xuất, khoa học kỹ thuật…Những thay đổi đó đã tác động vào giáo dục,
địi hỏi phải có những đổi mới tư duy giáo dục, phải thực hiện cải cách giáo dục,
giáo dục phải đi trước một bước, “đi tắt đón đầu” nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của xã hội, nhu cầu đào tạo ra những con người có trình độ, năng động
sáng tạo trong thời đại đổi mới.
Nước ta cũng đã tiếp tục đổi mới giáo dục và đổi mới giáo dục theo tinh
thần của đại hội VI, Nghị quyết Trung ương V (khóa 7), Nghị quyết Hội nghị
Trung ương II (khóa 8), cũng như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9 theo
phương châm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục là nhân tố quan trọng
nhất, là động lực, mục tiêu cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Theo điều 28, Luật giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo cho học sinh, phù hợp với đặc điểm
của từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh”. Do đó, đổi mới giáo dục là vấn
đề có tính cấp bách và cần thiết trong sự nghiệp giảng dạy và học tập nhằm nâng
cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học đóng vai trị là tiền đề, nền
tảng. Vì vậy, phải chú trọng chăm lo hình thành cho các em những tri thức ban

đầu đúng đắn, vững chắc để làm cơ sở cho những bậc học cao hơn, góp phần
phát triển đạo đức, trí tuệ, hình thành nhân cách con người mới.

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 2


Trong chương trình tiểu học, mơn Tiếng Việt là một trong hai mơn chính có
vai trị rất quan trọng. Dạy tiếng Việt ở tiểu học tạo cho học sinh (HS) kỹ năng
sử dụng tiếng Việt thành thạo để sử dụng trong học tập, giao tiếp; cung cấp cho
HS những hiểu biết phong phú về tiếng Việt, mở mang kiến thức về tự nhiên, xã
hội, văn hóa của dân tộc Việt Nam và nước ngồi. Mơn Tiếng Việtgồm có bảy
phân mơn, mỗi phân mơn có một vai trị và nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối
quan hệ chặt chẽ, tích hợp với nhau.
Phân mơn Tập Làm Văn (TLV) có nhiệm vụ rèn cho HS các kỹ năng sản
sinh ngôn bản; sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ
năng tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác đã hình thành. Đây là phân
mơn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm dấu ấn cá nhân.
TLV, viết văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học mơn Tiếng
Việt. Đối với HS tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã khó. Để
nói, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là
cái đích của phân mơn TLV địi hỏi người học cần diễn đạt tới. Từ đó, các em
được mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm
mỹ, hình thành nhân cách.
Chương trình TLV ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ lớp 2 -3,
các em đã được làm quen với loại văn này khi được tập quan sát và trả lời câu
hỏi. Lên lớp 4, 5 các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết quan sát, tìm ý,
lập dàn ý, viết đoạn văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn với các loại văn
như: miêu tả đồ vật, cây cối, con vật, tả người, tả cảnh - những đối tượng gần

gũi và thân thiết của các em.
Để hoàn thành bài văn miêu tả, đối với HS lớp 5 thường rất khó khăn. Do
đặc điểm tâm lý chưa ổn định, hơn nữa các em còn ham chơi, khả năng tập trung
chú ý quan sát chưa tinh tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt…
Dẫn đến khi viết văn, HS còn thiếu hiểu biết về đối tượng miêu tả hoặc không
biết cách diễn đạt điều muốn tả.
Đối với giáo viên (GV) đây cũng là loại bài khó dạy. GV cịn thiếu linh
hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 3


động học tập của HS. Vì vậy, khơng phải dạy loại văn nào cũng đạt hiệu quả như
mong muốn và không phải GV nào cũng dạy tốt văn miêu tả. Việc tìm ra các
phương pháp để hướng dẫn HS quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng tượng…của GV
cũng cịn nhiều hạn chế.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số
biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học
số 1 Phúc Trạch”
2. Mục đích nghiên cứu
Phân môn TLV là phân môn đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu
học, song chất lượng dạy – học văn chưa cao, biểu hiện cụ thể đó là tình trạng
viết văn khơ khan, kém hấp dẫn. Nhất là ở trường tiểu học vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn, miền núi.
Thực hiện đề tài, chúng tôi mong đề xuất được các biện pháp rèn kỹ năng
viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5 tại Trường Tiểu học Số 1 Phúc Trạch
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học văn miêu tả ở lớp 5.

- Đối tượng nghiên cứu: một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho
HS lớp 5.
4. Giả thiết khoa học
- Tìm hiểu biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho HS lớp 5 là một vấn
đề cịn nhiều khó khăn được GV tiểu học quan tâm. Nếu các biện pháp chúng tôi
đề xuất chứng minh được tính khả thi sẽ góp phần rèn luyện kỹ năng làm văn
miêu tả cho HS lớp 5 nói riêng và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học mơn
Tiếng Việt nói chung. Đề tài mong muốn sẽ là tài liệu cho sinh viên khoa Tiểu
học - Mầm non trong quá trình học tập, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ đề tài hướng tới là:
- Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy - học văn miêu tả lớp 5
- Thực trạng dạy - học văn miêu tả ở lớp 5

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 4


- Một số biện pháp dạy học văn miêu tả lớp 5
6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trong các giờ dạy tập làm văn, các buổi phụ dạo
học sinh yếu.
7. Cơ sở phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu
7.1 Đọc và phân tích các tài liệu dạy học
Chúng tôi đã đọc và phân tích các tài liệu sau: đọc và phân tích sách giáo
khoa, sách giáo viên, vở bài tập Tiếng Việt, các tài liệu chỉ đạo dạy học phan
môn tập làm văn, đọc và phân ích sách tham khảo, các bài báo cáo nội dung liên
quan đến đề ài như : tạp cvhis giáo dục, tạp chí thế giới trong ta…

7.2 Khảo sát thực tế dạy học chúng tôi đã tiến hành điều tra thực trạng dạy
học phân môn tập làm văn lớp 5 tại trường Tiểu học số 1 Phúc Trạch. Qua đó
tổng hợp đánh giá và phân tích ngun nhân của thực trạng
7.3Dạy thực nghiệm: chúng tôi soạn giáo án và dạy thực nghiệm bài:
“ ..............................................................................................................................
...
7.4Phương pháp nghiên cứu lí luận: Về việc nghiên cứu nội dung viết
văn miêu tả ở một số tài liệu có liên quan.
7.5 Phương pháp điều tra: Được tiến hành dưới các hình thức:
+ Dùng phiếu điều tra.
+ Trao đổi trực tiếp với GV và HS.
+ Dự giờ tiết dạy văn ở trường tiểu học để tìm hiểu các hình thức và
phương pháp dạy học của GV.
Phương pháp phân tích thống kê: Tổng hợp các số liệu điều tra từ thực tế
để phân tích, làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất biện pháp rèn kỹ năng viết văn
miêu tả cho HS lớp 5
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Từ các biện pháp đã đề xuất tiến
hành thể nghiệm tại Trường Tiểu học số 1 Phúc Trạch
8Đóng góp mới của đề tài

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 5


Đề tài mà tôi đang nghiên cứu này sẻ giúp các em khối lớp 5 phát huy tối
đa tính tích cực trong học tập, biết sử dụng đúng ngôn ngữ trong quá rình làm
văn , tổ chức cho học sinh các buổi học theo nhóm nhằm phát truển năng lực
cho học sinh , tạo hứng thú trong các buổi luyện tập viết văn cho học sinh.
9. Thời gian thực hiện đề tài

Thời gian thực hiện đề tài keo dài trong vòng 1 năm . Từ tháng 9 năm 2018
đến tháng 9 năm 2019
10. Kết cấu đề tài, bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục,tài liệu tham khảo, phần nội dung
thì đề tài của tơi gồm có 3 chương;
+ Chương 1:Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
+ chương 2: một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh
lớp 4, 5 trường Tiểu học số 1 Phúc Trạch
+ Chương 3: Thể nghiệm sư phạm

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 6


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm cần xác định
1.1.1.1.Văn miêu tả
Từ điển tiếng Việt do Hồng Phê chủ biên định nghĩa: “Miêu tả là dùng
ngơn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể
hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.”
Nhà văn Phạm Hổ:" Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta biết, người đọc
như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, một dịng sơng,
người đọc có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí

cịn ngửi thấy mùi hôi, mùi sữa, mùi nước hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc...
Nhưng đó chỉ là miêu tả bên ngồi, cịn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả tâm
trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cả cây cỏ."
Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc
làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật,
cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay khơng
những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể
hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng
được miêu tả. Bởi vì trong thực tế, không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi
gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình.
Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà học sinh u
mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm tình yêu
thương với những gì mình miêu tả.
1.1.1.2.Phương pháp dạy học
Phương pháp là tổ hợp các cách thức hoạt động của cả thầy và trị trong
q trình dạy học, được tiến hành dưới vai trò của người thầy thực hiện các
nhiệm vụ dạy học. (Giáo dục tiểu học 1 - NXB Giáo dục - 1997)
Phương pháp dạy học là bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học:

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 7


+ Phương pháp dạy: Phương pháp tổ chức nhận thức, phương pháp điều
khiển hoạt động trí tuệ và thực hành, phương pháp giáo dục thái độ và hình
thành ý thức đúng đắn cho học sinh
+ Phương pháp học: Phương pháp nhận thức và rèn luyện để hình thành
hệ thống tri thức và kỹ năng thực hành, hình thành nhân cách cho người học.
Khi sử dụng đúng phương pháp sẽ dẫn đến kết quả theo dự định. Nếu mục

đích khơng đạt được thì có nghĩa là phương pháp khơng phù hợp với mục đích
hoặc nó khơng được sử dụng đúng.
Bất kì phương pháp nào, dù là phương pháp nhận thức hay phương pháp
thực hành - luyện tập, để thực hiện có kết quả vào đối tượng nào đó thì cũng
phải biết được tính chất của đối tượng, tiến trình biến đổi của nó dưới tác động
của phương pháp đó. Nghĩa là phải nhận thức những quy luật khách quan của
đối tượng mà chủ thể định tác động vào thì mới đề ra những biện pháp hoặc hệ
thống những thao tác cùng với những phương tiện tương ứng để nhận thức và để
hành động thực tiễn.
1.1.1.3.Kỹ năng làm văn
Kỹ năng là một khái niệm phức tạp, xung quanh khái niệm này có nhiều
định nghĩa khác nhau. Tác giả Nguyễn Sinh Huy cho rằng: “Kỹ năng là khả
năng của con người thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách lựa
chọn, vận dụng tri thức, những kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo phù hợp với mục
tiêu, điều kiện thưc tế.” (Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm – NXB sư
phạm)
Kỹ năng làm văn là kỹ năng thơng qua hệ thống kiến thức đã có, HS cảm
nhận bằng sự tinh tế của bản thân mà có được những bài văn hay.
Các kỹ năng làm văn bao gồm:
-

Kỹ năng định hướng hoạt động giao tiếp

+ Nhận diện loại văn bản
+ Phân tích đề bài
-

Kỹ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp

+ Xác định dàn ý của bài văn miêu tả đã cho


SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 8


+ Quan sát đối tượng tìm và xắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả
-

Kỹ năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp

+ Xây dựng đọan văn
+ Liên kết các đoạn văn thành bài văn
-

Kỹ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp

+ Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu
cầu diễn đạt.
+ Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc dạy học tập làm văn
Tập làm văn là môn học mang tính tổng hợp. Nó dựa trên kết quả nghiên
cứu của nhiều khoa học khác nhau như: Tâm lý học, ngôn ngữ học, lý luận văn
học...Sau đây, chúng tôi đi vào phân tích một số cơ sở khoa học chi phối một
cách trực tiếp đến dạy học TLV.
1.1.2.1.Cơ sở tâm lý học
* Dạy tập làm văn là dạy một hoạt động
Thành tựu to lớn của Tâm lý học Xô Viết đã xác định bản chất của tâm lý
là hoạt động và chỉ ra năng lực của con người chỉ được hình thành và phát triển
trong hoạt động. Nói năng cũng là một hoạt động, hoạt động lời nói. Hoạt động

nói năng cịn có tên gọi khác là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Cũng như
các hoạt động tâm lý khác, hoạt động lời nói chỉ nảy sinh khi có động cơ nói
năng, bởi vì: “Chúng ta nói khơng phải để nói mà để bảo vệ một cái gì đó, tác
động đển một người nào đó” (A.N.Lê-ơn-chép). Chính vì vậy, công việc đầu
tiên của dạy học TLV - dạy sản sinh lời nói - là tạo được động cơ, nhu cầu nói
năng, kích thích học sinh tham gia giao tiếp.
Khi nghiên cứu hoạt động lời nói, người ta thấy rằng cái kích thích hành
vi nói là cái gì đó nằm ngồi ngơn ngữ. Chính vì vậy, xét đến tận cùng, dạy TLV
không phải bắt đầu từ hoạt động ngôn ngữ, từ sự tổ chức hoạt động ngôn ngữ
mà phải bắt đầu từ sự hoạt động khác của HS. Nói cách khác, những kích thích
nói năng khơng thể tách rời những ký năng sống khác.

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 9


Vì vậy, để dạy tốt TLV trước hết phải trau dồi vốn sống của HS, phải dạy
cho các em biết suy nghĩ, tạo cho các em cảm xúc, tình cảm rồi mới dạy cho các
em cách thể hiện những suy nghĩ, tình cảm đó bằng ngơn ngữ nói và viết.
* Các giai đoạn của hoạt động lời nói và kỹ năng làm văn
Theo trường phái tâm lý học hoạt động thì nhận thức của trẻ em được phát
triển qua hoạt động thực tiễn. Các nhà bác học Xô Viết như: L.X.Vu-gơt-xki,
A.N.Lê-ơn-chép…đã góp phần xây dựng và phát triển tâm lý học hoạt động.
Trong tâm lý học, hoạt động được coi là sự vận động của chủ thể, của con
người. Hoạt động quy định nguồn gốc, nội dung và vận hành của tâm lý. Chúng
tôi nêu sơ đồ của tâm lý hoạt động như sau:
Hoạt động cụ




Động cơ mục đích chung

thể
Hành động



Mục đích cụ thể

Thao tác



Điều kiện phương tiện

Lý thuyết hoạt động lời nói, vận dụng thành tựu của tâm lý học hành
động, đi sâu nghiên cứu các mối quan hệ qua lại, các giai đoạn của hoạt động lời
nói.
Theo A.N.Lê-ơn-chép “để giao tiếp được trọn vẹn về mặt nguyên tắc thì
con người phải nắm được hàng loạt các kỹ năng:
Một là: phải định hướng nhanh chóng và đúng đắn trong các điều kiện
giao tiếp.
Hai là: phải biết lập đúng chương trình lời nói của mình, lựa chọn nội
dung giao tiếp một cách đúng đắn.
Ba là: phải tìm được phương tiện hợp lý để truyền đạt những nội dung đó.
Bốn là: phải đảm bảo mối liên hệ qua lại.
Nếu như một mắt xích của hoạt động giao tiếp bị phá huỷ thì người nói
khơng thể đạt được kết quả giao tiếp như mong đợi, kết quả đó sẽ khơng hiệu
quả”


SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 10


Như vậy, theo A.N.Lê-ôn-chép, cấu trúc bao gồm 4 giai đoạn kế tiếp
nhau: định hướng, lập chương trình, thực hiện hố chương trình và kiểm tra.
Mỗi giai đoạn này sử dụng các kỹ năng cụ thể như sau:
+ Ứng với giai đoạn định hướng là kỹ năng xác định đề bài, giới hạn đề
bài và kỹ năng xác định tư tưởng cơ bản của bài viết.
+ Ứng với giai đoạn lập chương trình là kỹ năng lập ý, tìm ý, xây dựng
dàn ý. Việc làm này sẽ giúp học sinh trình bày bài nói (viết) một cách đầy đủ,
mạch lạc, có lơgic. Khi lập dàn ý, phải sắp xếp được ý chủ đạo và sắp sếp ý theo
một trình tự nhất định.
+ Ứng với giai đoạn hiện thực hoá chương trình là kỹ năng nói (viết)
thành bài, bao gồm các kỹ năng bộ phận như: dùng từ, đặt câu, viết đoạn, viết
bài.
+ Ứng với giai đoạn kiểm tra kết quả là nhóm kỹ năng phát hiện lỗi - lỗi
chính tả, lỗi dùng từ, lỗi dựng câu...và kỹ năng chữa lỗi.
* Các nhân tố của hoạt động lời nói và dạy học tập làm văn
Việc chỉ ra các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp có ý nghĩa lớn
trong việc dạy học TLV. Hoạt động nói năng khơng thể có hiệu quả nếu khơng
tính đến những nhân tố này. Đây là những căn cứ để đánh giá chất lượng một
Ngơn bản: Có lựa chọn với vai nói khơng? Có lựa chọn đúng phương tiện
giao tiếp khơng? Có đạt được mục đích giao tiếp khơng…?
Sự hiểu biết về hoạt động lời nói địi hỏi chúng ta phải xây dựng được các
đề bài gắn với tình huống giao tiếp, tổ chức các giờ học TLV làm sao để cho học
sinh có nhu cầu giao tiếp.
1.1.2.2.Cơ sở ngôn ngữ học

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các
thành viên trong cộng đồng người, đồng thời cũng là phương tiện để phát triển
tư duy. Khi có ngơn ngữ phong phú thì lời văn khi viết mới hay. Nói cách khác,
muốn viêt đúng, viết hay thì cần phải nói đúng, nói hay. Do vậy, trong q trình
dạy học, GV phải coi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng trong quá
trình giáo dục trẻ thơ thành con người phát triển toàn diện.

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 11


Trong giao tiếp, diễn ra hoạt động trau dồi các ngôn bản, sự trau dồi này
bao gồm hai loại hành động ln gắn bó vào nhau: hành động sản sinh ngơn bản
(bao gồm hành động nói ra hoặc viết ra các nội dung giao tiếp) và hành động
lĩnh hội văn bản tiếp nhận được (bao gồm hành động hiểu ngôn bản, đọc được,
nghe được). Các hành động sản sinh và lĩnh hội ngơn bản đó được coi là hành
động ngơn ngữ.
Ngơn ngữ ở dạng nói là ngơn ngữ của âm thanh nên khả năng truyền cảm
lớn. Điểm khó khăn khi “nói” là phải đáp ứng lập tức, người nói khơng được
chuẩn bị trước, khơng có thời gian suy nghĩ để lập ý, chọn từ. Người nói phải
ứng xử nhanh, sử dụng cú pháp đơn giản hơn khi viết. Ngoài ra, người nói
khơng thể diễn đạt hết ý mà nhờ ngữ cảnh cảnh hoặc những yếu tố ngoài lời để
làm cho người nghe hiểu được.
Lời nói miệng có hai dạng: hội thoại và độc thoại. Vì vậy, các dạng bài tập
luyện nói trong giờ TLV lại sẽ được chia ra: nói trong hội thoại và độc thoại.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngữ dụng học trong những năm gần đây đã đặt
hội thoại vào một vị thế mới. Trong những kết quả nghiên cứu về hội thoại có
nhiều ứng dụng thực tế trong dạy học luyện nói. Các quy tắc hội thoại thường
gặp như: quy tắc thương lượng, quy tắc luôn phiên lượt lời, quy tắc tôn trọng,

quy tắc khiêm tốn của người nói, quy tắc cộng tác... Đó trở thành những chỉ dẫn
quan trọng để tổ chức các bài tập hội thoại và trở thành căn cứ để đánh giá HS.
Kỹ năng viết là sản phẩm của quá trình học tập. Nó là một phương tiện học tập
và giao tiếp có hiệu quả, năng lực viết chính tỏ trình độ văn hoá, văn minh của
từng người.
Trong văn bản, các câu hỏi thường đầy đủ và phức tạp hơn trong khẩu ngữ,
dùng nhiều từ ngữ sách vở hơn, văn bản có khối lượng lớn hơn so với một bài
nói miệng cùng đề tài. Trong khi viết, khơng có sự hỗ trợ của các yếu tố phi
ngơn ngữ như trong khi nói người ta nên phải sử dụng các dấu câu, phân chia
văn bản thành từng đoạn, dùng các kiểu chữ khác nhau. Kỹ năng viết ngày càng
phát triển ở các lớp trên.

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 12


1.1.2.3. Cơ sở văn học
Các kiến thức về loại thể văn học, đặc biệt là kiến thức về kể chuyện và
miêu tả thực sự cần thiết để dạy hai kiểu bài viết văn bản nghệ thuật: kể chuyện,
miêu tả. Để có thể dạy tốt các bài TLV ở tiểu học, GV cần vận dụng các tri thức
về miêu tả và kể chuyện, trong đó có các hiểu biết về cốt truyện, chi tiết, nhân
vật, về ngôn ngữ, về đề tài, tư tưởng. Các tri thức này góp phần chỉ ra nội dung
luyện tập của các kỹ năng làm văn. Nói cách khác, có các hiểu biết về loại thể
văn học, GV mới hiểu rõ tính đặc thù của từng kỹ năng trong từng kiểu văn. Để
“vẽ được bằng lời”, GV phải dạy HS tìm ý trong bài văn miêu tả bằng cách dạy
quan sát và ghi chép các nhận xét. GV phải hướng dẫn HS biết vận dụng các
giác quan để quan sát, biết lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết liên tưởng,
tưởng tượng khi nhận xét sự vật và diễn đạt điều quan sát được một cách gợi
cảm, gợi tả, tức là có hình ảnh và cảm xúc.

1.1.3. Mục tiêu và nội dung chương trình Tập làm văn miêu tả lớp 5
1.1.3.1. Mục tiêu
a. Kiến thức
- HS nắm được cấu tạo các dạng văn miêu tả.
- Trang bị kiến thức và rèn luyện các kỹ năng làm văn.
- Góp phần cùng với các mơn học khác cung cấp cho HS các kiến thức tổng
hợp về văn hóa, tự nhiên và xã hội.
b. Kỹ năng
- Rèn luyện kỹ năng làm văn làm văn cho HS.
- Rèn kỹ năng quan sát, óc tưởng tượng, tư duy, sáng tạo cho HS.
- Kỹ năng tổng hợp, phân tích các sự vật, sự việc.
c. Thái độ
- Góp phần bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách
cho HS.
- Bồi dưỡng cho HS thêm u thích mơn học.
1.1.3.2. Nội dung chương trình TLV lớp 5

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 13


*Chương trình TLV lớp 5 được thiết kế tổng cộng 62 tiết/ năm. Trong đó,
văn miêu tả (gồm tả cảnh, tả người) có 35 tiết (ơn tập cả tả cây cối,con vật,đổ
vật ở lớp 4) được phân bố như sau:

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 14



HỆ THỐNG NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH TLV MIÊU TẢ LỚP 5
(Học kỳ I và học kỳ II)
TUẦN
Tuần 1

TÊN BÀI
1. Cấu tạo của bài văn tả cảnh
2. Luyện tập tả cảnh (một buổi trong

Tuần 2
Tuần 3
Tuần 4

ngày)
Luyện tập tả cảnh (một buổi trong ngày)
Luyện tập tả cảnh (2 tiết)
1. Luyện tập về tả cảnh (trường học)

Tuần 5
Tuần 6
Tuần 7
Tuần 8
Tuần 11
Tuần 14
Tuần 15
Tuần 16
Tuần 17
Tuần 19
Tuần 20

Tuần 21
Tuần 24
Tuần 25
Tuần 16
Tuần 27

2. Kiểm tra viết (tả cảnh)
Trả bài văn tả cảnh
Luyện tập tả cảnh (sông nước)
Luyện tập tả cảnh (sông nước – 2 tiết)
Luyện tả cảnh địa phương
Trả bài văn tả cảnh
Luyện tập tả người
Luyện tập tả người (tả hoạt động – 2 tiết)
Kiểm tra viết (tả người)
Trả bài văn tả người
Luyện tập tả người (2 tiết)
Viết bài văn tả người
Trả bài văn tả người
Ôn tập về tả đồ vật (2 tiết)
Viết bài văn tả đồ vật
Trả bài văn tả đồ vật
1. Ôn tập về tả cây cối

Tuần 29
Tuần 30

2. Viết bài văn tả cây cối
Trả bài văn tả cây cối
1. Ôn tập về tả con vật


SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 15


Tuần 31
Tuần 32

2. Viết bài tả con vật
Ôn tập về tả cảnh (2 tiết)
Trả bài văn tả con vật và viết bài văn tả
cảnh

Tuần 33

1. Viết bài văn về tả cảnh
1. Ôn tập về tả người

Tuần 34

2. Viết bài văn tả người
1. Trả bài văn tả cảnh
2. Trả bài văn tả người

1.2.Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng dạy học TLV miêu tả cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu
học số 1 Phúc Trạch
1.2.1.1.Mục đích khảo sát
Chúng tơi tiến hành khảo sát về vấn đề dạy và học phân môn TLV dạng văn

miêu tả lớp 5 theo chương trình mới, việc áp dụng phương pháp dạy học theo
định hướng của GV. Từ đó xác định những khó khăn mà GV gặp phải khi dạy
văn miêu tả và các biện pháp khắc phục.
Mặt khác chúng tơi tìm hiểu tâm lý của học sinh lớp 5 và khảo sát thực
trạng học tập để thấy được những hạn chế còn tồn tại. Trên cơ sở đó, chúng tơi
đưa ra một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho
học sinh lớp 5
1.2.1.2.Nội dung khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát trên những nội dung sau:
- Tìm hiểu SGK, SGV và các đồ dùng dạy học phân môn TLV dạng văn
miêu tả.
- Hoạt động dạy và học văn miêu tả của học sinh lớp 5.
- Thái độ của học sinh khi tham gia học phân môn TLV.
1.2.1.3.Phương pháp khảo sát
- Phương pháp dự giờ trực tiếp.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh.
- Phương pháp trắc nghiệm.
1.2.1.4.Thời gian và địa bàn khảo sát
SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 16


- Thời gian tiến hành khảo sát: từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm
2019
- Địa bàn khảo sát tại: Trường Tiểu học số 1 Phúc Trạch
1.2.1.5.

Kết quả khảo sát


Sau khi khảo sát thực tế tại trường chúng tôi thu được kết quả như sau:
*Kết quả khảo sát số liệu thống kê tại Trường Tiểu học số 1 Phúc Trạch.
Trường có tất cả 20 lớp tập trung tại một điểm trường với tổng số 323 HS, 100%
em đi học đúng độ tuổi với 22 GV đều đạt chuẩn GV tiểu học. Trong đó, có 2
GV trình độ trung cấp, có 15 GV trình độ cao đẳng, 3 GV trình độ đại học. Hầu
hết GV đều đạt GV dạy giỏi cấp trường trở lên.
Trường có 2 lớp 5 với tổng số 56 em
*Kết quả khảo sát phiếu điều tra như sau:
Qua khảo sát 15 GV trong trường bao gồm các GV đã và đang dạy lớp 4,
6. Chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 1:Mức độ quan trọng của phân mơn TLV
Mức độ

Rất quan trọng

Bình thường

Khơng quan trọng

Số lượng

13/15

2/15

0

Tỷ lệ

86,6%


13,3%

0%

Bảng 2: Mức độ sử dụng các đồ dùng dạy học
Đồ dùng

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không sử dụng

Tranh ảnh

5/15

10/15

0/15

Biểu bảng

3/15

12/15

0/15


Vật thật

6/15

8/15

2/15

Các đồ dùng dạy

7/15

3/15

5/15

học khác

Bảng 3: Mức độ sử dụng các biện pháp dạy học khi dạy TLV

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 17


Biện pháp

Có sử dụng

Khơng sử dụng


Rèn luyện kỹ năng quan sát

15/15

0/15

Trau dồi vốn từ

10/15

5/15

8/15

7/15

Tạo động cơ, hứng thú học tập
cho học sinh

Bảng 4: Mức độ đặt những đề văn gây hứng thú cho học sinh
Mức độ



Thỉnh thoảng

Khơng bao giờ

Số lượng


12/15

3/15

0

Tỉ lệ

80%

20%

0%

- Qua khảo sát học sinh 116 HS lớp 4, 5 chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 1: Mức độ u thích phân mơn TLV
Mức độ



Bình thường

Khơng

Số lượng

50/ 116

50/116


17/ 116

Tỷ lệ

43,1%

43,1%

13,7%

Bảng 2: Tài liệu khi học phân môn TLV
Các tài liệu

Số lượng

Tỷ lệ

Sách giáo khoa

116/ 116

100%

Vở bài tập tiếng Việt

110/ 116

94,8%


67/ 116

57,7%

Các tài liệu tham khảo khác
(những bài văn mẫu…)

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 18


Câu 3: Mức độ thích học các loại văn
Dạng văn

Văn miêu tả

Văn kể chuyện

Các văn bản khác

Số lượng

50/ 116

44/ 116

22/ 116

Tỷ lệ


43,1%

37,9%

18,9%

Câu 4: Mức độ luyện viết văn ở nhà
Mức độ



Thỉnh thoảng

Khơng

Số lượng

43/ 116

54/ 116

19/ 116

Tỷ lệ

37%

46,5%


16,3%

Câu 5:Mức độ tham khảo các tài liệu văn mẫu vào bài viết của mình
Mức độ

Thường xun

Thỉnh thoảng

Khơng

Số lượng

24/67

34/67

8/67

Tỷ lệ

35,8%

50,7%

11,9%

1.2.1.6.

Kết luận


a. Về phía giáo viên
Để nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân mơn
TLV nói riêng, GV là người giữ vai trò quan trọng khi hướng dẫn HS trong quá
trình học tập. Qua khảo sát thực tế ở Trường Tiểu học số 1 Phúc Trạch. Chúng
tôi thấy rằng các GV tham gia dạy học khối lớp 5, hầu hết đều có q trình
giảng dạy lâu năm nên tích lũy được kiến thức và kinh nghiệm tương đối vững
chắc. Tuy vậy, để dạy tốt phân môn TLV hay bất cứ phân môn nào, việc nhận
thức được tầm quan trọng của phân mơn đó là cần thiết. Vì vậy, chúng tơi đã đưa
ra câu hỏi: “Theo thầy cô Tập làm văn là phân mơn có vai trị như thế nào?” và
đã được 86,6% GV trả lời là rất quan trọng, còn 13,3% GV trả lời là bình
thường. Điều này cho thấy mỗi GV có nhận thức khác nhau về phân mơn TLV.
Tuy nhiên, chúng ta phải khẳng định rằng, phân môn TLV giúp các em rèn khả

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 19


năng quan sát, miêu tả, tư duy trừu tượng. Vì vậy, GV khơng thể xem nhẹ hay lơ
là q trình dạy học.
Đối với HS, việc học TLV đôi khi không dễ dàng. Bên cạnh những thuận
lợi các em vẫn gặp khơng ít những khó khăn. Tư duy của các em cịn mangtính
cụ thể, những gì các em nhìn thấy sẽ giúp các em ghi nhớ tốt hơn và hứng thú
hơn.
Do đó, đồ dùng trực quan là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong giờ
học. Để biết các thầy cô sử dụng đồ dùng trực quan thế nào trong giờ TLV
chúng tơi có câu hỏi: “Khi dạy Tập làm văn thầy cơ thường sử dụng đồ dùng
trực quan nào?” thì thu được mức độ sử dụng đồ dùng dạy học thường xuyên là
thấp. Như vậy việc đầu tư thiết bị, phương tiện dạy học còn rất hạn chế.

Việc sử dụng các biện pháp dạy học sao cho có hiệu quả cũng là một vấn
đề cần quan tâm. Với câu hỏi: “ Khi dạy tập làm văn thầy (cô) thường sử dụng
các biện pháp dạy học nào ?” thì đa số các GV đều đưa ra các biện pháp tạo
hứng thú ở HS như: Trau dồi vốn từ, rèn kỹ năng quan sát, luyện viết câu văn,
đoạn văn sao cho liên kết được các ý, đoạn…
Tuy vậy, việc vận dụng nó như thế nào trong giờ dạy mới mang lại hiệu quả
cao là điều GV cịn lúng túng. Chúng tơi đã đặt câu hỏi như sau: “Để rèn luyện
kỹ năng làm văn cho các em, thầy cô thường xây dựng đề văn gắn với đời sống
để các em luyện tập không?”. Tất cả các GV mà chúng tôi điều tra đều trả lời là
“có”. Hầu hết các GV mà chúng tơi điều tra, phỏng vấn đều có q trình cơng
tác lâu năm, có rất nhiều kinh nghiệm giảng dạy phân mơn này. Do vậy, khi
chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Thầy cơ hãy cho biết những thuận lợi và khó khăn
trong q trình giảng dạy phân mơn Tập làm văn là gì?”. Thì chúng tơi thu
được là:
- Thuận lợi:
+ Nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn nhằm
nâng cao tay nghề cho GV.
+ Tổ chuyên môn đã tổ chức chuyên đề dạy học TLV lớp 5.
+ GV đều được trang bị đầy đủ SGK, SGV, sách tham khảo…

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 20


+ Đối tượng miêu tả khá gần gũi với HS nông thôn (cây bàng, con gà…)
+ Đặc điểm tâm lý của HS có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc
và sức sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật, con vật,
cây cối, cảnh vật là những người người bạn thân thiết gần gũi mà các em có thể
tâm tư, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lý này rất thuận lợi cho việc

khơi gợi cho các em những cảm xúc miêu tả thú vị, bất ngờ…
- Khó khăn:
+ Lên lớp 5, HS mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành
bài văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngơn ngữ của các em cịn hạn chế.
Mỗi bài văn miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn
ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số HS lớp 5 viết văn miêu tả
chưa hay, sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn cịn chưa gợi
tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu.
+ TLV là phân mơn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận
thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 5.
+ Việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa phổ biến vì trình độ của HS khơng
đồng đều nên đôi khi sử dụng tốn nhiều thời gian.
+ Về phía nhà trường, dù đã được đầu tư một hệ thống cơ sở vật chất, trang
thiết bị đầy đủ đặc biệt là có giáo án giảng bằng điện tử nhưng do trình độ tin
học, tiếng Anh cịn hạn chế nên việc sử dụng phần mềm powerpoint vào giảng
dạy chương trình tiếng Việt nói chung và phân mơn TLV nói riêng chưa phổ
biến dẫn đến chưa phát huy hết được năng lực của GV và HS.
b. Về phía học sinh
Nhìn chung, HS khối 5 trong nhà trường đã có hứng thú học tập đối với
phân môn TLV, phần lớn các em tỏ ra u thích mơn này. Vì vậy, khi chúng tơi
đưa ra câu hỏi: “Em có thích học phân mơn Tập làm văn khơng?” thì có đến
43,1% HS trả lời là có, 45,6% trả lời bình thường, 13,7% là khơng thích.
Điều đó chứng tỏ rằng, các em đã ý thức được phần nào tầm quan trọng của
phân môn TLV nhưng chưa thực sự u thích phân mơn này.

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 21



Có hứng thú học tập nhưng để viết được văn hay và cách miêu tả độc đáo
thì tài liệu học tập cũng đóng một vai trị quan trọng. Qua điều tra chúng tơi thấy
rằng, 100% HS đến trường đều có đủ SGK tiếng Việt, còn các tài liệu tham khảo
khác như bài văn hay, bài văn mẫu thuộc chương trình lớp 5 các em sử dụng phổ
biến (chiếm khoảng 57,7%)
Mặc dù đã có hứng thú học tập, nhưng mỗi dạng văn lại mang lại cho các
em những cảm nhận khác nhau. Khi được hỏi: “Em thích học dạng văn nào
nhất?” . 43,1% các em cho rằng thích học văn miêu tả, 37,9% thích học văn kể
chuyện, 18,9% thích học các kiểu văn bản như viết thư, văn bản hành chính..)
Điều đó chứng tỏ rằng, các bài viết văn miêu tả vẫn hấp dẫn và thu hút HS
hơn. Bởi vì nó thường là những sự vật, sự việc, cây cối, con vật…gắn liền với
đời sống thực tế xung quanh các em nên các em dễ tưởng tượng, miêu tả. Nhưng
không phải vì thế các em coi nhẹ các dạng viết văn khác, cho nên khi áp dụng
vào dạy những dạng văn cụ thể GV phải có biện pháp tạo hứng thú ở HS.
Để học tốt phân mơn TLV, ngồi giờ học trên lớp, HS phải thường xun
tìm hiểu ngồi thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, mức độ tìm hiểu cũng như thời
gian dành cho việc học của mỗi HS có khác nhau.
Khi điều tra việc học ở trường, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Ngoài giờ học
trên lớp, ở nhà em có thường xun luyện viết văn khơng?”. Và kết quả thu
được là phần lớn các em đã có ý thức học ở nhà. Điều đó được biểu hiện bằng
con số sau: 59,7% tổng số HS 5 trả lời đã dành thời gian cho việc luyện viết văn,
29,8% trả lời là thỉnh thoảng, cịn lại 10,4% khơng tự giác. Như vậy, đa số các
em đều có phụ huynh làm nghề lao động chân tay nên việc quan tâm tới việc học
tập của con em mình cịn chưa có, mặt khác ý thức tự học ở nhà chưa cao nên tỉ
lệ HS dành thời gian cho việc luyện viết ở nhà còn rất thấp.
Với câu hỏi “Khi viết bài tập làm văn các em có tham khảo tài liệu tham
khác vào bài viết của mình khơng?”. Với câu hỏi này có 35,8% HS trả lời
thường xuyên sử dụng tài liệu tham khảo vào bài viết của mình, 50,7% là thỉnh
thoảng sử dụng và một tỷ lệ nhỏ trả lời rằng không bao giờ sử dụng tài liệu tham
khảo vào bài viết của mình. Con số này tuy khơng lớn nhưng điều đó cũng ảnh


SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 22


hưởng tới hiệu quả dạy học phân mơn TLV nói riêng, các phân mơn khác trong
chương trình tiếng Việt nói chung. Bởi vậy, giáo dục ý thức tự giác trong dạy
học dạng viết văn miêu tả cho các em cũng gặp phải khơng ít những khó khăn
đó là:
Sự phân hóa giữa các HS trong một lớp và giữa các lớp về khả năng nhận
thức. Có em học tốt và vận dụng những hiểu biết vào học tập rất hiệu quả. Tuy
nhiên, số lượng này khơng nhiều, cịn rất nhiều em khả năng hiểu biết và vận
dụng còn yếu. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy và sáng tạo của các
em trong quá trình viết văn.
1.2.2. Thực trạng về kết quả viết văn miêu tả cho học sinh 5 trường
tiểu học số 1 Phúc Trạch
Để tìm hiểu thực trạng về kết quả viết văn miêu tả cho HS lớp 5 Trường
Tiểu học số 1 Phúc Trạch. Chúng tôi đã tiến hành điều tra 116 HS lớp 5 bằng
phiếu điều tra.
Chúng tơi đã tiến dựa trên chương trình SGK lớp 5 để thiết kế phiếu điều
tra, với nội dung phiếu điều tra như sau:
Đề bài: Em hãy tả một con vật ni trong gia đình mà em u thích nhất.
Sau q trình điều tra, chúng tơi tiến hành tổng hợp, phân tích bài làm của
HS và thu được những nhận xét sau đây:
Đa số các em có tinh thần học tập, hứng thú khi thực hiện bài nhưng trong
quá trình làm bài các em chưa có kỹ năng quan sát, hồi tưởng nhanh nên thời
gian tiết học không đủ cho các em hoàn thiện bài văn nên chất lượng bài viết
chưa cao. HS mắc lỗi trong khi viết văn còn nhiều. Cụ thể các lỗi như sau:
Thứ nhất, về viết câu và dùng từ

Số lượng HS viết câu và dùng từ hợp lý chiếm tỷ lệ thấp, đa số bài viết của
các em thường viết câu văn cụt lủn, kể lể, ít hình ảnh trong câu văn dẫn đến bài
viết của các em không sinh động, không thu hút được người đọc, người nghe.
Chẳng hạn có em viết: “Vừa qua tớ được bố tớ mua cho con mèo, tớ rất thích”
cách dùng từ “tớ”, lặp đi lặp lại khiến người đọc nhàm chán.

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 23


Ngồi ra, cách dùng từ chung chung khơng làm nổi bật lên được đặc điểm
nổi bật của con vật đó vẵn cịn phổ biến. Chẳng hạn có em viết: “Con mèo có bộ
lơng trắng tinh” hay “ Con mèo nặng khoảng 2 tạ”
Thứ hai, về cách diễn đạt
Đối với HS vùng sâu, vùng xa điều kiện để các em phát triển đa chiều các
mối quan hệ giao tiếp không được mở rộng như HS vùng thành thị, chưa nhạy
bén, khả năng ứng xử chưa cao, vốn sống của các em chưa thật phong phú dẫn
đến vốn từ hạn chế nên ảnh hưởng tới khả năng diễn đạt.
Do vậy, đa số bài viết của các em yếu về khả năng diễn đạt, chưa biết sử
dụng dấu câu một cách hợp lý để nâng cao hiệu quả diễn đạt. Chẳng hạn có em
viết: “Mắt nó màu đen. Râu của nó dài. Lơng thì đen.” cách dùng dấu chấm câu
liên tục khiến các câu trong đoạn văn chưa được liên kết chặt chẽ với nhau.
Khả năng khái quát chưa cao, HS chú trọng đi sâu vào chi tiết cụ thể mà
chưa có khả năng tổng hợp vấn đề cần diễn đạt nên trong bài văn của các em
chưa lột tả được đối tượng cần miêu tả.
Thứ ba, về cách trình bày bài văn
Ở lớp 4, 5 HS đã nắm được cấu tạo của các bài văn miêu tả gồm 3 phần:
mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng rất nhiều bài viết của HS vẫn mắc lỗi về cách
trình bày bố cục của một bài văn miêu tả. Tình trạng viết phần mở bài các em

quên xuống dòng để viết thân bài nên dẫn tới bài văn của các em không đẹp về
bố cục, về cách trình bày. Nguyên nhân của tình trạng trên đó là, HS chưa nắm
chắc được bố cục của một bài văn miêu tả.
Thứ tư, về lỗi chính tả
Đa số HS trong trường là HS dân tộc nên vốn ngôn ngữ của các em còn hạn
chế, HS thường giao tiếp với nhau bằng ngơn ngữ địa phương cho nên tình trạng
HS nói sai phương ngữ phổ thơng dẫn đến tình trạng viết sai chính tả rất nhiều,
chủ yếu là l/ n, v/ b, tr/ ch.
Như vậy, qua việc khảo sát thực trạng về kết quả viết văn miêu tả của HS
lớp 5 ở trường tiểu học. Chúng tôi thấy rằng: HS đã chú ý và có hứng thú song
hiệu quả cịn chưa cao vì cịn mắc một số lỗi phổ biến như:

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 24


- HS viết sai lỗi chính tả.
- Chưa hiểu rõ được đặc điểm cơ bản của bài văn miêu tả, chưa phân biệt
được sự khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài khác.
- Lạc đề, chưa xác định rõ mục đích, yêu cầu của đầu bài.
- Chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.
- Kỹ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kỹ năng diễn
đạt còn hạn chế.
- Chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng chưa khoa học.
- Vốn từ ngữ còn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật cịn hời hợt.
- HS chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
- Trong tiết trả bài, HS chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kỹ càng, đầy đủ, các
em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- HS chưa thực sự cảm thấy u mơn học.

Vì vậy, để nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho HS, nhà trường cũng
như GV cần có biện pháp kích thích chất lượng học tập phân môn TLV cho HS.
Trên đây là những thực trạng dạy học phân môn TLV miêu tả lớp 5 và thực
trạng về kết quả viết văn miêu tả của HS lớp 5 ở Trường Tiểu học số 1 Phúc
Trạch vấn đề thực tiễn nêu trên, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp rèn
luyện kỹ năng làm văn miêu tả cho HS.

SVTH: Anh Lung Quảng Bình

Page 25


×