Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

theo huong phat huy tinh sang tao cua hoc sinh day ke chuyen lop 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.96 KB, 53 trang )

MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn học Tiếng Việt ở trường tiểu học đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người và trong việc thực
hiện những nhiệm vụ của hệ thống giáo dục quốc dân. Nắm ngôn ngữ, lời nói là
điều kiện tiên quyết, thiết yếu của việc hình thành tính tích cực xã hội của nhân
cách. Môn Tiếng Việt vừa là đối tượng nghiên cứu vừa là công cụ để học tập tất
cả các môn học khác. Trẻ em muốn có được kĩ năng học tập, trước hết cần nắm
vững tiếng mẹ đẻ của mình với những kĩ năng nghe - nói - đọc - viết. Đó là chìa
khoá của nhận thức, của học vấn, của sự phát triển để các em tham gia vào cuộc
sống xã hội hiện đại, vào sự phát triển. Vì vậy, môn học Tiếng Việt- tiếng mẹ đẻ
là môn học trung tâm ở trường tiểu học.
Năm 2001, Bộ giáo dục và đào tạo chính thức ban hành Ch ương trình
tiểu học mới- chương trình của giáo dục tiểu học trong giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Cùng với chương trình các môn học khác,
chương trình môn Tiếng Việt được biên soạn nhằm nâng cao chất lượng dạy
học Tiếng Việt trên cơ sở phát huy những kinh nghiệm đã có và tiếp cận với
những thành tựu hiện đại của việc dạy tiếng nói chung, dạy tiếng mẹ đẻ,
tiếng phổ thông nói riêng của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việc đổi mới nội dung tất yếu sẽ dẫn đến đổi mới phương pháp dạy học
cho từng môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng. Khi dạy các loại
bài học tiếng Việt cần có sự linh hoạt trong việc sử dụng các ph ương pháp
dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của từng vùng, miền. Dù sử
dụng phương pháp nào, nguyên tắc cao nhất là phải phát huy đ ược tính tích
cực, chủ động của học sinh, là tạo nhiều cơ hội cho học sinh luyện tập trong
giao tiếp bằng tiếng Việt.
Kể chuyện là một phân môn của chương trình môn Tiếng Việt tiểu học. Đây
là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình
thành và phát triển kĩ năng nghe - nói, một kĩ năng quan trọng hàng đầu trong
giao tiếp xã hội, ở bậc học đầu tiên trong trường phổ thông. Có kĩ năng nghe Giáo sư Ngô


1


nói, đặc biệt là kĩ năng nói, con người sẽ làm chủ được phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của loài người - phương tiện ngôn ngữ. Nhờ biết nghe - nói, bên
cạnh biết đọc - viết, con người có thể tiếp thu được tinh hoa của nhân loại. Biết
nghe - nói con người có thể tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức mối quan
hệ xã hội, tự nhiên và phát triển tư duy.
Kể chuyện là một dạng của lời nói, đòi hỏi phải có nội dung nói là một câu
chuyện, hình thức nói là một dạng nói có nghệ thuật, sử dụng ngữ điệu kết hợp
với các yếu tố phi ngôn ngữ để hỗ trợ cho lời nói thêm hấp dẫn cuốn hút ngời
nghe. Như vậy ngoài mục đích giao tiếp, việc kể chuyện góp phần tích luỹ vốn
văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ em. Gìê Kể chuyện góp phần rèn luyện và
phát triển kĩ năng nói và kể trước đám đông một cách có nghệ thuật, góp phần
khêu gợi tư duy hình tượng của trẻ.
Thực tiễn khảo sát việc dạy và học phân môn Kể chuyện thuộc môn Tiếng
Việt hiện nay trên cả hai đối tượng giáo viên và học sinh cũng có những vấn đề
cần quan tâm. Thực tế một số trẻ còn nhút nhát, e dè khi đứng trước lớp. Một số
khác còn nói ngọng theo lứa tuổi hoặc khả năng diễn đạt còn yếu về dùng từ,
diễn đạt; đặc biệt việc xâu chuỗi các sự việc trong truyện và nhớ các chi tiết
truyện còn khó khăn với các em. Ở những yêu cầu như đặt tên lại cho truyện,
viết lại đoạn kết truyện hoặc viết tiếp truyện đối với các em lớp ba là một yêu
cầu cao, các em rất lúng túng. Bản thân giáo viên cũng còn hạn chế khi tìm cách
gợi ý cho học sinh.
Nhận thức được tầm quan trọng của Kể chuyện trong chương trình môn
Tiếng Việt và xuất phát từ những khó khăn đang đặt ra cho thực tiễn dạy Kể
chuyện trong trường tiểu học, tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề
Dạy kể chuyện lớp ba theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh để góp
phần dạy học tiếng mẹ đẻ được tốt hơn, đáp ứng yêu cầu của nhà trường và xã
hội, đảm bảo mục tiêu dạy học.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài đặt ra mục đích nghiên cứu thực trạng dạy học Kể chuyện, các cơ sở
lí luận để dạy Kể chuyện, từ đó xác lập một quy trình dạy học bằng một tổ hợp
Giáo sư Ngô

2


câu hỏi và bài tập, một số phương pháp nhằm phát triển kĩ năng nói trong phân
môn kể chuyện, nhằm giúp học sinh lớp ba biết kể chuyện có đầu có cuối bằng
lời của mình một cách sáng tạo trên cơ sở câu chuyện đã có trong văn bản. Hơn
nữa, giúp các em có hiểu biết ban đầu về đặc trưng của một văn bản tự sự. Đề tài
sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện quá trình dạy Kể chuyện ở tiểu học, nâng cao
hiệu quả dạy học Tiếng Việt nói chung.
III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể nghiên cứu: Phương pháp dạy học kể chuyện ở tiểu học.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện – một dạng của
kĩ năng nói cho học sinh lớp 3 trường tiểu học Văn Phú.
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM
Giáo viên và học sinh khối 3 trường tiểu học Văn Phú.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong đề tài, tôi có sử dụng các phương pháp sau:
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Là phương pháp nghiên cứu tài liệu và sách giáo khoa về nội dung của vấn đề nghiên
cứu, từ đó lấy cơ sở cho việc xây dựng nội dung của đề tài.

- Được sử dụng để phân tích, tổng hợp khái quát các quan điểm, luận điểm
khoa học trong các tài liệu thuộc ngành khoa học có liên quan để xác lập cơ sở
khoa học cho việc dạy Kể chuyện.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

2.1. Phân tích chương trình, sách giáo khoa và sách giáo viên.
- Sử dụng các phiếu điều tra, sử dụng các biên bản dạy học, dự giờ, phỏng
vấn giáo viên và học sinh …để đo nghiệm, thăm dò, kiểm chứng.
- Sử dụng phương pháp này để tìm hiểu và phân tích nội dung chương trình SGK, SGV
ở lớp 3 để lấy căn cứ cho việc nghiên cứu.

2.2. Khảo sát thực trạng dạy và học.
- Phiếu điều tra giáo viên, học sinh.
2.3. Thống kê, phân loại và đánh giá số liệu:
- Được sử dụng để xem xét đối chiếu thực nghiệm dạy học.
3. Nhóm nghiên cứu bổ trợ:
Giáo sư Ngô

3


- Thống kê toán học
4. Nhóm phương pháp dạy học thực nghiệm:
Tổ chức dạy học thực nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả và tính khả thi
của những đề xuất đưa ra trong đề tài.
VII. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2013-2014. Bắt đầu từ tháng 9/2013 và kết
thúc vào tháng 5/2014.

Giáo sư Ngô

4


NỘI DUNG

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA “DẠY KỂ CHUYỆN LỚP 3 THEO
HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH”
1. 1. Căn cứ khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy Kể chuyện
a. Vận dụng lí thuyết hệ thống của tín hiệu ngôn ngữ để tổ chức dạy Kể
chuyện
* Đơn vị chủ yếu của ngôn ngữ
Khi dạy Kể chuyện, người giáo viên phải cho học sinh nắm được một số từ
quan trọng nói lên đại ý hoặc ý nghĩa của truyện. Nói cách khác, học sinh phải
nắm được những từ ngữ chìa khoá của văn bản kể chuyện. Đơn vị lớn hơn từ là
câu và trên câu là đoạn, đơn vị lớn nhất của ngôn ngữ là văn bản. Các từ được
liên kết với nhau theo những quy tắc nhất định của Tiếng Việt để tạo thành câu.
Các câu lại được liên kết với nhau theo mô hình nhất định tạo thành đoạn văn.
Mỗi đoạn lại thể hiện về một ý tương đối trọn vẹn. Các đoạn kết hợp với nhau
tuỳ theo chức năng đoạn: đoạn mở đầu, các đoạn khai triển, đoạn kết thúc để tạo
thành một văn bản hoàn chỉnh. Như vậy khi dạy Kể chuyện, ta phải cho học sinh
nắm được câu chuyện có mấy đoạn, mỗi đoạn nói về một nội dung hoặc sự kiện
gì, thứ tự các đoạn thế nào. Sau khi nắm được nội dung truyện, nghĩa là nắm
được cái biểu đạt, ta còn phải giúp học sinh nắm được ý nghĩa của truyện, nghĩa
là nắm cái được biểu đạt.
* Những kiểu quan hệ chủ yếu trong ngôn ngữ
Khi dạy Kể chuyện người giáo viên cần hướng dẫn học sinh kể theo trật tự
tuyến tính, cái gì diễn ra trước kể trước, cái gì diễn ra sau kể sau. Đó là trật tự
thông thường. Khi kể có thể đóng vai để kể câu chuyện cho sinh động. Mỗi nhân
vật của truyện được đóng vai kể xưng “tôi” sẽ tạo ra những bản kể sáng tạo cho
các em, buộc các em đặt mình vào vai nhân vật để kể.
b. Vận dụng lí thuyết văn bản vào việc dạy Kể chuyện
Dạy học Kể chuyện làm sao để thông qua những giờ học đó mà củng cố,
Giáo sư Ngô


5


mở rộng và tích cực hoá vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình tượng và tư duy lô
gic, nâng cao sự cảm nhận về hiện thực đời sống thông qua nội dung câu
chuyện.
c. Vận dụng lý thuyết giao tiếp ngôn ngữ vào dạy luyện nói cho học
sinh lớp 3 trong phân môn Kể chuyện
Việc dạy Kể chuyện thực chất là dạy các em thực hành những ngôn bản nói
để phục vụ hoạt động và giao tiếp. Trước một bài tập Kể chuyện hay một tình
huống giao tiếp HS cần có kĩ năng tìm kiếm những nhân tố giao tiếp (nhân vật
giao tiếp, hiện thực giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, ngôn ngữ được sử dụng,
ngôn bản).Các em phải xác định được: cần thông báo nội dung gì, hướng nội
dung đó đến ai. Chính điều này sẽ quyết định việc thực hiện lựa chọn từ ngữ, chi
tiết, hình ảnh, giọng điệu, phong cách….để thực hiện ngôn bản nói.
Như vậy GV cần biết chuyển những bài tập kể chuyện thành những môi
trường giao tiếp thông thường, gần gũi với HS giúp các em vận dụng kinh
nghiệm của mình để thực hành giao tiếp và phát triển lời nói một cách tự nhiên
nhất.
Ví dụ 1: Câu chuyện “ Người liên lạc nhỏ” (TV3-tuần 14)
Bài tập: Dựa vào tranh kể lại toàn bộ câu chuyện.
Nếu chỉ thực hiện theo đúng yêu cầu của bài tập, nghĩa là từng HS sẽ nhìn
vào tranh và kể câu chuyện, như vậy các em sẽ đọc y nguyên câu chuyện được
học qua giờ Tập đọc mà không có sự sáng tạo trong lời kể. Để HS kể đúng và kể
hay câu chuyện, GV cần chú ý vận dụng lí thuyết giao tiếp vào hướng dẫn HS kể
chuyện.
GV nên đặt câu hỏi để HS xác định nội dung, đối tượng nghe kể chuyện, mục
đích và hoàn cảnh kể chuyện (Em kể chuyện gì? Kể cho ai nghe? Kể trong hoàn
cảnh nào? Nhằm mục đích gì?)
Từ các nhân tố đã xác định HS lựa chọn ngôn từ, lời kể cho phù hợp.

Sau khi xác định như trên, các em cần được tìm hiểu hoàn cảnh diễn ra câu
chuyện, tìm hiểu về nhân vật chính (anh Kim Đồng). Vì đây là câu chuyện lịch sử
kể về cậu bé Kim Đồng đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến tranh để bảo vệ tổ
Giáo sư Ngô

6


quốc. Trong suy nghĩ của các em “chiến tranh” là một cái gì đó rất xa lạ, nên khó
có thể hình dung và kể lại một cách sinh động.
Ví dụ: Câu chuyện kể về ai?(Anh Kim Đồng), câu chuyện diễn ra ở đâu,
trong hoàn cảnh nào (ở chiến khu Việt Bắc, thời kì kháng chiến chống Pháp)
Lúc này GV phải là người tổ chức lớp một cách linh hoạt để HS hiểu từ ngữ
của truyện, tạo cơ hội cho HS được thực hành trong môi trường giao tiếp để tự
kể một cách tự nhiên, hào hứng mà không bị gò ép theo khuôn mẫu của câu
chuyện đã học.
Ngoài những từ ngữ các em được tìm hiểu qua tiết Tập đọc như: ông ké,
Nùng, Tây đồn... giáo viên cần cho học sinh hiểu thêm về sự hi sinh, mất mát
của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập (thực dân Pháp đã đưa lính
sang xâm chiếm nước ta, những tên lính Pháp với vóc dáng to lớn, hung dữ, đi
đến đâu tàn phá làng bản của dân ta đến đó...)
Khi đã hiểu được những nhân vật trong truyện HS sẽ dễ tạo lập được ngôn
bản mới cho mình
1.1.2. Cơ sở văn học của việc dạy Kể chuyện
Mỗi văn bản để kể chuyện là một văn bản tự sự. Tự sự là phương thức trình
bày diễn biến sự việc theo một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc
kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa. Văn bản tự sự thường
có cốt truyện. Cốt truyện thực ra là diễn biến sự việc. Có truyện chỉ có một sự
việc. Cũng có truyện gồm nhiều sự việc tiếp diễn có quan hệ với nhau.Trong
những sự việc đó, có sự việc mở đầu, các sự việc khai triển, sự việc kết thúc.

Văn bản tự sự bao giờ cũng có nhân vật. Nhân vật có thể là người, có thể là vật.
Nhân vật thực hiện các hành động làm nên các sự việc. Mỗi văn bản tự sự bao
giờ cũng nhằm thể hiện một ý nghĩa nào đấy về mặt xã hội. Như vậy, khi dạy
Kể chuyện ta cần phải cho học sinh nắm được câu chuyện với các sự việc diễn
biến của nó có quan hệ với nhau như thế nào. Nhân vật nào là chính, nhân vật
nào là phụ. Ý nghĩa xã hội của truyện nghiêng về phía nhân vật nào để nói lên
cái gì. Thông qua câu chuyện kể mà tôi bồi dưỡng cho các em những tình cảm

Giáo sư Ngô

7


tốt đẹp, trau dồi hứng thú đọc và kể chuyện, đem lại niềm vui tuổi thơ trong hoạt
động học tập.
1.1.3. Cơ sở tâm lí học của việc dạy Kể chuyện ở lớp 3
Với trẻ em, việc nắm nghĩa từ gắn liền với hoạt động và tình huống cụ thể.
Mỗi nét nghĩa được tiếp nhận thông qua những hoạt động khác nhau, được tiếp
nhận dần dần, từ cụ thể gắn với hiện thực khách quan sau đó đến trừu tượng.
Các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn cũng vậy. Các nhà nghiên cứu tâm lí cũng khẳng
định nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ gồm hai thành tố: thành tố biểu cảm hình
tượng và thành tố lôgic. Đối với trẻ em, thành tố biểu cảm hình tượng đứng đằng
sau từ, câu, đoạn và chiếm ưu thế. Dần dần, cả hai thành tố đó gắn liền với các
tình huống. Bởi vậy, việc dạy kể chuyện theo lí thuyết hệ thống là hợp lí với lứa
tuổi các em và cần thiết cho sự phát triển tư duy.
Tâm lí cũng chỉ rõ trẻ em lớp 3 đang bước vào thời kì bắt đầu có nhận thức
khái quát, tổng hợp. Hoạt động của học sinh lớp 3 đã gắn liền với nhà trường và
xã hội. Những hoạt động này tạo nên sự phát triển lòng yêu thiên nhiên, yêu quê
hương, yêu cỏ cây hoa lá, yêu đất nước và những người tốt, yêu thích sự khám
phá và thể hiện niềm cảm xúc này. Từ đây, đã nảy sinh ý nguyện tô điểm cho

cuộc sống của mình thêm đẹp, tạo điều kiện thuận lợi cho các em thấu hiểu vẻ
đẹp của các đơn vị từ ngữ, đặc biệt là từ trong các truyện đã diễn đạt những giá
trị tinh thần cao đẹp mà các em yêu quý. Đây là một khó khăn khi dạy trẻ nhỏ.
Vì vậy, việc nhận biết nghĩa từ, câu đoạn…cần có sự dẫn dắt của giáo viên
hướng cho các em tới đích mong muốn.
Quy luật thống nhất giữa dạy và học cho thấy mọi hoạt động của thầy trên
lớp nhằm hướng tới sự phát triển của trò. Cụ thể là thầy thiết kế bài dạy, phần
dạy cho học sinh thực hiện các thao tác đi theo hướng học sinh tự thực hiện các
thao tác dưới sự hướng dẫn của thầy, cô để tự kể được câu chuyện. Cần phải
chia các thao tác từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp. Giáo viên đưa ra các
câu hỏi và bài tập để học sinh tự xác định nội dung, chủ động kể chuyện. Đồng
thời giáo viên cần giúp học sinh tự xác định được việc sử dụng các yếu tố phụ
trợ khi kể chuyện như thế nào.
Giáo sư Ngô

8


1.1.4. Định hướng đổi mới khi dạy phân môn Kể chuyện ở Tiểu học
Chương trình môn tiếng Việt cấp tiểu học và yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học
Theo “Chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn” (Ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2006/ QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo) môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm thực hiện 3
mục tiêu:
1) Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác
của tư duy.
2) Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những

hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt
Nam và nước ngoài.
3) Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu dạy Tiếng Việt được cụ thể hóa thành mục đích, ý nghĩa của
dạy học phân môn Kể chuyện
1) Kể chuyện Nhằm thỏa mãn nhu cầu cũng như mang lại những cảm xúc
cho các em.
2) Những câu chuyện sẽ góp phần giáo dục cho các em một cách hết sức
nhẹ nhàng thoải mái
3) Thông qua các câu chuyện, vốn văn học của các em ngày càng được tích
lũy, mở rộng. Đồng thời còn giúp cho các em hiểu biết hơn về cuộc sống xung
quanh.
4) Trí tưởng tượng và ước mơ hoài bão của các em cũng phát triển.
5) Kể chuyện rèn cho các em kĩ năng nói, kể một cách mạnh dạn, tự tin.

Giáo sư Ngô

9


Trên cơ sở mục tiêu của môn Tiếng Việt tiểu học và mục tiêu dạy học phân
môn Kể chuyện, việc định hướng đổi mới khi dạy học phân môn Kể chuyện ở
lớp 3 tập trung vào thực hiện Phương pháp dạy học tích cực.
Phương pháp dạy học tích cực chính là nhằm tích cực hóa hoạt động của
người học; là phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm, trong đó người
thầy đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh. Mỗi học sinh đều được
hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Trong phân môn Kể chuyện lớp 3, hoạt động của học sinh là hoạt động giao

tiếp là đặc thù của môn Tiếng Việt và hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành
lí thuyết như ở các môn học khác. Cả hai loại hoạt động trên có thể được tổ chức
theo nhiều hình thức khác nhau:
- Làm việc độc lập.
- Làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo lớp.
Trong phần lớn các trường hợp, nhất là trong trường hợp câu hỏi, bài tập đề
ra rất cụ thể, học sinh được tổ chức làm việc độc lập. Trong trường hợp câu hỏi,
bài tập tương đối trìu tượng hoặc đòi hỏi một sự khái quát nhất định và trong
trường hợp nếu làm việc chung theo đơn vị lớp sẽ có ít học sinh được hoạt động
thì làm việc theo nhóm là giải pháp tốt nhất. Hình thức làm việc chung theo đơn
vị lớp được áp dụng chủ yếu trong trường hợp giáo viên thực hiện các khâu: giới
thiệu bài, củng cố bài, nêu những câu hỏi không yêu cầu phải suy nghĩ lâu hoặc
để học sinh trình bày kết quả làm việc.
Hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp dạy học mới về
phần giáo viên chủ yếu là:
- Giao việc cho học sinh: cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, cho
học sinh làm mẫu một phần. Tóm tắt nhiệm vụ, dặn dò học sinh.
- Kiểm tra học sinh xem học học sinh có làm việc không? xem học sinh có
hiểu việc phải làm không? và trả lời thắc mắc của học sinh.
- Tổ chức báo cáo kết quả làm việc:

Giáo sư Ngô

10


Các hình thức báo cáo đó là: báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo trong
nhóm, báo cáo trước lớp.
Các biện pháp báo cáo: bằng miệng, bằng bảng trên lớp, bằng phiếu học,

bằng giấy… hoặc thi đua giữa các nhóm và trình bày cá nhân.
- Tổ chức đánh giá.
Các hình thức đánh giá:
+ Tự đánh giá.
+ Đánh giá nhóm.
+ Đánh giá trên lớp.
Các biện pháp đánh giá gồm: khen, chê định tính, cho điểm định hướng.
Tóm lại, Kể chuyện có mục tiêu, nhiệm vụ rất quan trọng trong trường tiểu
học. Ngoài việc góp phần hoàn thiện nhân cách cho học sinh, Kể chuyện còn tạo
cho các em hứng thú học tập.
1.1. Cấu trúc chương trình Kể chuyện lớp 3
Phân phối chương trình Môn Kể chuyện lớp 3 Tiểu học
(Theo công văn số 9832/BGD&ĐT-GDTH ngày 01 tháng 9 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo)
HỌC KÌ 1

HỌC KÌ 2

1- Cậu bé thông minh.

17- Hai Bà Trưng.

2- Ai có lỗi?

18- Ở lại với chiến khu.

3- Chiếc áo len.

19- Ông tổ nghề thêu.


4- Người mẹ.

20- Nhà bác học và bà

5- Người lính dũng cảm.

cụ.

6- Bài tập làm văn.

21- Nhà ảo thuật.

7- Trận bóng dưới lòng

22- Đối đáp với vua.

đường.
8- Các em nhỏ và cụ già.
Ôn tập giữa học kì I

23- Hội vật.
24- Sự tích lễ hội Chữ
Đồng Tử.

9- Giọng quê hương.

Ôn tập giữa học kì II

10- Đất quý, đất yêu.


25- Cuộc chạy đua trong

Giáo sư Ngô

11


11- Nắng phương Nam.

rừng.

12- Người con của Tây

26- Buổi học thể dục.

Nguyên.
13- Người liên lạc nhỏ.

27- Gặp gỡ ở Lúc – xăm
– bua.

14- Hũ bạc của người

28- Bác sĩ Y-éc-xanh.

cha.

29- Người đi săn và con
15- Đôi bạn.


vượn.

16- Mồ Côi xử kiện.

30- Cóc kiện trời.

Ôn tập cuối học kì I

31- Sự tích chú Cuội
cung trăng.
Ôn tập cuối HK II

1.1.1. Các thể loại truyện được chọn trong chương trình Tiểu học
Chương trình kể chuyện ở bậc tiểu học có các thể loại truyện sau: Thần
thoại, truyền thuyết; cổ tích, truyện cười; truyện ngụ ngôn; truyện danh nhân
lịch sử; truyện khoa học; truyện "người thực, việc thực"; truyện sinh hoạt.
Cấu trúc dạng bài tập đọc, kể chuyện:
- Câu chuyện có lời thoại
- Câu chuyện dạng tự sự

22 bài.
9 bài.

Yêu cầu của phần kể chuyện:
- Yêu cầu dựa vào tranh để kể

17 bài.

- Yêu cầu dựa vào câu gợi ý
- Các yêu cầu khác


7 bài.
7 bài.

1.1.2. Cấu trúc bài học Kể chuyện lớp 3.
Kể chuyện ở lớp 3 cũng gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập đọc.
Khác với chương trình kể chuyện 165 tuần của lớp 2, chương trình kể chuyện
lớp 3, tiết kể chuyện chỉ có nửa tiết còn lại của tiết Tập đọc. Tuy thời lượng của tiết
kể chuyện ít nhưng những câu chuyện kể đều là sự tiếp nối những câu chuyện kể
trong giờ Tập đọc nên theo quy trình dạy học, thầy và trò không bị mất thời gian cho
việc kiểm tra bài cũ, tìm hiểu nội dung truyện… Hơn nữa việc dạy học kể chuyện
Giáo sư Ngô

12


theo nhóm cũng tạo cơ hội cho học sinh tham gia. Vì vậy, 17 phút kể chuyện theo
SGK Tiếng việt 3 thực sự là 17 phút rèn kĩ năng của học sinh. Vì thời gian không
nhiều nên bài tập cho học sinh trong tiết Kể chuyện chỉ có một bài.
Ví dụ:
Bài tập 1: Sắp xếp lại các tranh đã cho theo đúng thứ tự trong câu chuyện.
Bài tập 2: Dựa vào tranh trên kể lại toàn bộ câu chuyện.
Việc dạy luyện nói cho học sinh nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dưỡng mà chương
trình đề ra là một việc làm không dễ dàng, đòi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và
sự phối hợp chặt chẽ giữa các phân môn. Kể chuyện không phải phân môn duy nhất
có nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng nói. Vì vậy chương trình Tiếng Việt tạo ra mối quan
hệ giữa Kể chuyện với Tập đọc và Làm văn một việc làm khoa học.
* Phân môn kể chuyện chương trình mới đã tạo ra được một phong cách
mới, khoa học, hợp lý trong việc dạy kể chuyện, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ với
các phân môn khác có cùng nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng nói, thể hiện quan điểm

tích hợp trong dạy học Tiếng Việt.
* Số lượng truyện thay đổi so với chương trình cải cách giáo dục. Thể loại
truyện cổ tích giảm, các thể loại truyện được phân bố đều hơn. Truyện sinh hoạt
tăng về số lượng tạo cơ hội cho học sinh được tiếp xúc với các tác phẩm văn học
hiện đại ngay từ bậc tiểu học. Thể loại truyện khoa học, người thực, việc thực và
truyện cười còn thiếu vắng cần bổ sung thêm. Thể loại truyện phong phú, sắp
xếp xen kẽ, gồm cả truyện trong nước và truyện dịch từ nước ngoài.
* Mức độ biểu hiện của kĩ năng nói
So với chương trình cải cách giáo dục, kĩ năng giao tiếp đặc biệt là kĩ năng
giao tiếp bằng lời của chương trình mới có những thay đổi mang tính tích hợp.
Điều đó được thể hiện trước hết ở việc đưa phân môn Kể chuyện vào dạy chung
với phân môn Tập đọc, nội dung các câu chuyện trùng với nội dung các bài tập
của các bài tập đọc đầu tuần. Điều này hoàn toàn không gây ra sự nhàm chán đối
với các em bởi hình thức tổ chức dạy học, các kiểu dạng câu hỏi, bài tập luôn
phong phú và hấp dẫn. Biến giờ Kể chuyện thành một giờ học thực sự sôi nổi

Giáo sư Ngô

13


không chỉ mang tính chất giải trí mà còn giúp học sinh phát triển khả năng nghe,
nói.
* Về nội dung: Chương trình mới đưa vào nhiều câu chuyện sinh hoạt có
nội dung gần gũi như: mẹ - con (giữa mẹ và con), thầy (cô) với em (giữa thầy và
trò)... những nội dung này đã tạo môi trường giao tiếp gần gũi với học sinh để
các em được luyện nói một cách tự nhiên mà không bị gò ép .
* Về hình thức các câu hỏi và bài tập: Chương trình mới có hình thức câu
hỏi và bài tập phong phú, hấp dẫn với các em nhằm hình thành kĩ năng độc thoại
(tự kể câu chuyện) mà còn hình thành cho các em cả kĩ năng đối thoại qua hình

thức bài tập sắm vai dựng lại câu chuyện. Hình thức bài tập này buộc các em
phải làm việc theo nhóm phối hợp với nhau ăn khớp, diễn đạt lưu loát. Muốn
vậy, đòi hỏi các em phải bạo dạn, tự tin trước thầy cô giáo và các bạn. Hơn nữa,
các em không những chỉ nhớ được cốt truyện mà còn phải nhập được vào vai
nhân vật, không chỉ dùng lời nói mà còn dùng cả cử chỉ, nét mặt để thể hiện.
Những dạng bài tập này thực sự rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng làm việc tập thể
tốt Phân môn Kể chuyện được soạn trong sách giáo khoa với các hình thức rèn
kĩ năng kể chuyện:
1. Kể từng đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện theo tranh minh họa.
Trong sách có các dạng bài Kể chuyện theo tranh như sau:
- Kể theo đúng thứ tự các tranh minh họa và câu hỏi gợi ý.
- Kể theo tranh không có câu hỏi gợi ý.
- Sắp xếp lại tranh đã bị đảo lộn thứ tự cho đúng với nội dung câu chuyện,
sau đó kể lại.
Các tranh minh họa giúp häc sinh nhớ lại nội dung bài Tập đọc đã học, làm
chỗ dựa cho các em kể chuyện. Đôi khi, các tranh này được đảo lộn thứ tự so
với nội dung câu chuyện đã học.
2. Kể theo dàn ý hoặc câu hỏi gợi ý cho sẵn (Chiếc áo len): Trong phần Kể
chuyện sau bài Tập đọc, SGK có thể cung cấp cho häc sinh dàn ý dưới dạng
những câu hỏi hay những tên đoạn, những câu hỏi gợi ý để làm chỗ dựa cho häc
sinh kể lại câu chuyện đã học.
Giáo sư Ngô

14


3.

Tự tóm tắt nội dung và kể lại từng đoạn truyện (Hội vật): Hình thức


này rÌn khả năng khái quát, nén thông tin của các em.
4.

Kể một đoạn truyện bằng lời của mình (Cuộc chạy đua trong rừng):

Rèn cách dùng từ đặt câu sáng tạo, rèn cách diễn đạt rõ thêm một vài ý qua sự
tưởng tượng của mình.
5.

Kể phân vai, diễn lại một đoạn hay cả câu chuyện: Học sinh tiểu học

rất thích đóng kịch, dù đó không phải là những vở kịch có tính xung đột, có diễn
biến phức tạp. Hình thức này rèn kĩ năng nói và kể, đồng thời giúp các em hiểu
sâu hơn tính cách, tình cảm của nhân vật trong câu chuyện đã học.
2. Quy trình dạy Kể chuyện
Phân môn tập đọc-kể chuyện lớp 3, mỗi tuần bắt đầu bằng một truyện kể,
chuyện này được học tập đọc trong 1,5 tiết và 0,5 tiết cho học sinh kể lại câu
chuyện mới học.
Quy trình và các biện pháp dạy học chủ yếu:
A. Tập đọc (1,5 tiết)
1. Luyện đọc
- Đọc mẫu: GV đọc mẫu toàn bài nhằm giới thiệu, gây cảm xúc, tạo hứng
thú và tâm thế học tập cho học sinh. Vì vậy yêu cầu giáo viên thể hiện giọng đọc
phù hợp với từng tình tiết, từng nhân vật trong truyện.
- Đọc câu: HS nối tiếp nhau đọc từng câu (đọc 1-2 vòng tùy thuộc vào câu
chuyện dài hay ngắn, số lượng học sinh của lớp).
Có thể ví việc HS đọc từng câu là bước “cày vỡ” tạo cơ hội cho nhiều em
hứng thú tiếp xúc với văn bản là chủ yếu, chưa đặt ra yêu cầu đọc hiểu.
Qua quá trình nối tiếp câu, HS phát hiện những từ khó cần luyện đọc; từ đó
GV giúp các em đọc đúng.

- Đọc đoạn: HS nối tiếp đọc đoạn trong bài (2-3 vòng, tùy thuộc vào truyện
dài hay ngắn), ở phần này yêu cầu đọc rõ ràng, rành mạch chưa đòi hỏi phải diễn
cảm. Từ đó HS phát hiện ra những câu khó - GV hướng dẫn tự tìm ra cách đọc –
luyện đọc đúng.
2. Hướng dẫn tìm hiểu nghĩa của từ và nội dung câu chuyện
Giáo sư Ngô

15


a. Hiểu nghĩa của từ:
- GV cần xác định những từ ngữ trong bài cần tìm hiểu:
+Từ ngữ khó (chú giải SGK) : HS đọc
+Từ ngữ phổ thông mà HS địa phương chưa quen, những từ ngữ đóng vai
trò quan trọng để hiểu nội dung bài: Những từ ngữ này GV sử dụng đồ dùng dạy
học (tranh, ảnh, vật thật hay mô hình…) để giải nghĩa cho HS hiểu; có thể kết
hợp với điệu bộ, cử chỉ…(từ ngữ miêu tả sự vật, đặc điểm…); có thể thông qua
các bài tập nhỏ: tìm từ đồng nghĩa hay trái nghĩa với từ cần giải nghĩa.
+Ví dụ: Trong bài dạy minh hoạ Giọng quê hương
Từ miền Trung GV giới thiệu trên bản đồ.
Từ qua đời GV cho HS tìm từ đồng nghĩa với từ qua đời.
Phần giải nghĩa từ cũng có thể lồng ghép vào phần tìm hiểu bài (nếu có liên
quan). VD từ mắt rớm lệ GV giải nghĩa ở phần tìm hiểu câu hỏi 4 SGK.
b. Tìm hiểu bài:
Việc hướng dẫn tìm hiểu câu chuyện cần dựa theo các câu hỏi trong SGK,
và chuẩn kiến thức – kĩ năng là chủ yếu.
Để giúp HS định hướng hoạt động đọc hiểu GV cần nêu rõ câu hỏi hoặc
giao nhiệm vụ cụ thể cho HS trước khi đọc (đọc câu, đoạn; đọc để biết, hiểu,
nhớ điều gì…)
Sau khi HS đọc thầm (hoặc kết hợp theo dõi SGK theo một bạn đọc thành

tiếng) GVcó thể yêu cầu các em trả lời, trao đổi ngay trước lớp hoặc nêu ý kiến
trong nhóm rồi cử đại diện phát biểu (tuỳ đặc điểm, mức độ yêu cầu của câu hỏi,
bài tập trong SGK…) cuối cùng GV chốt lại những ý chính để HS nắm vững (có
thể yêu cầu HS yếu nhắc lại).
Câu hỏi SGK giáo viên cũng có thể tách thành những ý nhỏ (hoặc điều
chỉnh, dẫn dắt thành câu hỏi phụ…)
Ví dụ: câu hỏi 4 SGK, GV có thể tách thành 3 câu hỏi nhỏ.
+ Tìm từ chỉ thái độ của người trể tuổi.
+ Tìm từ chỉ thái độ của Tuyên và Đồng.

Giáo sư Ngô

16


+ Các từ ngữ đó cho thấy tình cảm của các nhân vật đối với quê hương như
thế nào?
3. Luyện đọc lại
Dựa vào trình độ đọc của đa số HS trong lớp và đặc điểm của câu chuyện ,
GV lựa chọn mức độ và hình thức luyện đọc sao cho phù hợp. Có thể luyện tập
và thi đọc tốt 1, 2 đoạn hoặc cả truyện, luyện đọc theo vai, tổ chức trò chơi học
tập có tác dụng luyện đọc…
B.

Kể chuyện (0,5 tiết)

1. Các biện pháp dạy học chủ yếu
+ Sử dụng tranh minh họa (trong SGK) để gợi mở, hướng dẫn HS kể lại
từng
đoạn của câu chuyện.

+ Sử dụng câu gợi ý hoặc dàn ý, hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện.
+ Sử dụng những câu hỏi gợi trí tưởng tượng hoặc gợi nhận xét - cảm nghĩ,
hướng dẫn
học sinh nhận xét bằng lời của mình.
+ Hướng dẫn học sinh phân vai, dựng lại câu chuyện theo hình thức đối
thoại.
* GV cần lưu ý:
+ Tế nhị khi hướng dẫn học sinh kể chuyện:
- Nếu có em đang kể bỗng lung túng vì quên chuyện, GV có thể nhắc một
cách nhẹ nhàng để em đó nhớ lại câu chuyện.
- Nếu có em kể thiếu chính xác, cũng không nên ngắt lời thô bạo. Chỉ nhận
xét khi các em đã kể xong.
- Nên động viên các em kể hồn nhiên, tự nhiên như khi đang kể cho anh,
chị, em hay bạn bè
+ Quan niệm một cách đúng mức về kể sáng tạo:
- Kể chuyện sáng tạo có nhiều mức độ khác nhau, gắn với những kiểu bài
tập khác nhau nhưng bản chất của nó không phải là kể khác nguyên văn mà là kể

Giáo sư Ngô

17


tự nhiên như sống với câu chuyện, kể bằng ngôn ngữ, giọng điệu của mình, thể
hiện được cảm nhận của mình về câu chuyện đó.
- Khi kể tự nhiện, hồn nhiên bằng giọng điệu, cảm xúc của chính mình, HS
có thể thêm vào câu chuyện một số câu chữ của mình nhưng cũng có thể chỉ
diễn lại nguyên văn câu chuyện đã thuộc lòng. GV cần tránh cách hiểu máy móc
dẫn đến sai lầm là khuyến khích HS thay những từ (chốt) đã được tác giả lưa
chọn rất chính xác bằng những từ ngữ khác.

- Chúng ta cũng không coi việc HS kể thuộc lòng câu chuyện, kể chính xác
từng câu chữ theo văn bản truyện là thiếu sáng tạo. Chỉ trong trường hợp HS kể
như đọc văn bản, vừa kể vừa cố nhớ lại một cách máy móc từng câu chữ trong
văn bản, GV mới nhận xét kể như thế là chưa tốt.
2. Quy trình giảng dạy
Bước 1: Giúp HS nắm vững yêu cầu của bài tập kể chuyện trong SGK.
Trong trường hợp cần thiết GV mời một HS làm mẫu một phần của bài tập.
Bước 2: Tổ chức cho HS thực hiện yêu cầu của bài tập bằng nhiều hình
thức thích hợp (kể chuyện trong nhóm, kể chuyện trước lớp, thi kể chuyện tiếp
sức, kể phân vai…)
*Cung cấp mở rộng vốn sống- giáo dục kĩ năng sống:
Hầu như các bài tập đọc-kể chuyện lớp 3 đều có giáo dục kĩ năng sống, vì
vậy xuyên suốt quá trình tiết học, tuy mỗi câu chuyện phản ánh các lĩnh vực
khác nhau: từ gia đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền, các dân tộc anh
em trên đất nước đến các hoạt động văn học, khoa học, thể thao và các vấn đề
lớn của xã hội như: bảo vệ hoà bình, phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác giữa
các dân tộc, bảo vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ… thông qua đó GV cần
cung cấp cho HS những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp
vốn từ, vốn diễn đạt góp phần mở rộng vốn sống và hình thành nhân cách cho
HS.

Giáo sư Ngô

18


Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN CHO HỌC
SINH LỚP 3
2.1. Đặc điểm của trường Tiểu học ….

2.1.1. Thuận lợi
2.1.2. Khó khăn
2.2. Thực trạng của việc rèn kĩ năng Kể chuyện cho học sinh lớp 3
trường Tiểu học ….
2.2.1. Thực trạng dạy Kể chuyện của giáo viên
1) Khảo sát tình hình thực tế
Dựa trên mục tiêu của phân môn Kể chuyện kết hợp với các luận chứng mà
tôi tham khảo, tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng việc dạy kể chuyện cho học
sinh lớp 3 ở trường tiểu học Văn Phú, xã Văn Phú, huyện Thường Tín để nắm
bắt tình hình. Được sự nhất trí của ban giám hiệu nhà trường và giáo viên chủ
nhiệm, tôi đã dự giờ 3 tiết dạy kể chuyện lớp 3 ở 3 kiểu bài. Do hạn chế về mặt
thời gian, ở đây tôi chỉ trình bày những bước chính trong tiết dạy của GV để tìm
hiểu phương pháp và hình thức tổ chức của tiết dạy mà giáo viên thực hiện :
 Tiết 1: Dự một tiết dạy kể chuyện của cô giáo Hoàng Thị Minh Thuỷ lớp
3A (tổng số 38 em), dạng bài Kể chuyện yêu cầu dựa vào tranh để kể: ….
 Tiết 2: Dự một tiết dạy kể chuyện của cô giáo …. lớp 3B (tổng số 38
em), dạng bài Kể chuyện yêu cầu dựa vào câu gợi ý: ….
 Tiết 3: Dự một tiết dạy kể chuyện của cô giáo …. lớp 3C (tổng số 38
em), dạng bài Kể chuyện theo các yêu cầu khắc (phân vai dựng lại câu chuyện,
đặt tên cho từng đoạn truyện và kể lại một đoạn truyện,…): ….
2) Nhận xét chung của các tiết dạy :
Qua nội dung khảo sát vừa rồi, tôi nhận thấy một số ưu điểm, khuyết điểm
trong 3 tiết dạy của giáo viên lớp 3 :
Bảng thống kê một số phương pháp GV thường sử dụng:
Phư
Giáo sư Ngô

Thường xuyên

Thỉnh thoảng


Chưa bao giờ
19


ơng pháp

Số
%

Thu

lượng
3/3

yết trình
Vấn

GV

%

đáp

GV

100

3/3


Thả
oluận

Tỉ lệ

lượng
0

Tỉ lệ
%
0%

Số
lượng
0

0

0%

GV

66,7
66,7
%

66,7
%

2/3

GV

0%
0%

66,7
%

2/3
GV

0

%

0

%
1/3

Tỉ lệ

%
100

nhóm
Nêu
vấn đề
Trò


Số

66,7
%

0

1/3
GV

0%

chơi

66,7
%

0

66,7
%

Ưu điểm : Nhìn chung, qua dự ba tiết dạy của ba giáo viên tôi nhận thấy
các thầy, cô đã tổ chức tiết dạy khá tốt, nội dung chuyển tải tới học sinh nhẹ
nhàng, đầy đủ, giúp cho học sinh nắm rõ kiến thức. Thời gian bài dạy phân bổ
hợp lý, tác phong lên lớp nhanh nhẹn, nghiêm túc, xử lý nhanh các tình huống
của học sinh mà không ảnh hưởng đến thời gian cũng sự tập trung của học sinh.
điều mà tôi thấy tâm đắc nhất là giáo viên đã sử dụng phương pháp hoạt động
nhóm và phương pháp thảo luận rất tốt. Nhờ sự điều chỉnh về phương pháp mà
các tiết dạy đều đạt yêu cầu, học sinh đã tham gia tiết học rất sôi nổi, hào hứng

và thể hiện sự hiểu bài của mình qua giọng kể trôi chảy và lưu loát. Một số em
đã biết diễn đạt lời nhân vật làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn.
Hạn chế: Ngoài những điều đã đạt ở trên, bên cạnh đó vẫn còn một vài
điểm mà giáo viên còn vấp phải, tuy không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng tiết
dạy nhưng cũng làm cho học sinh bộc lộ không hết khả năng của mình :
- Đối với tiết dạy ở lớp 3A của cô giáo Hoàng Thị Minh Thuỷ, giáo viên
làm việc quá nhiều, nhắc lai câu hỏi nhiều lần nên một số em thầy nhàm chán.
Đây là tiết học mà học sinh đã được học kỹ trong tiết tập đọc nên giáo viên
không cần làm việc nhiều.
Giáo sư Ngô

20


- Đối với tiết dạy thứ 2 ở lớp 3B, cô ….Khi chuyển bài học sang phần học
sinh tập kể theo tranh, thầy giáo đã ngắt lời học sinh khi em đó kể hơi lúng túng
(vì quên nội dung). Đây là điều không nên vì làm thế sẽ gây sự chán nản, mất
hướng thú của các em.
- Còn tiết dạy thứ 3 của cô giáo … lớp 3C, cô giáo còn lúng túng ở bước 3,
lúc hướng dẫn HS thực hành kể chuyện. GV gọi 1 HS đọc lại gợi ý 2 ở SGK và
yêu cầu HS dựa vào gợi ý ở mục a tập kể phần đầu, gọi HS khác nhận xét. Yêu
cầu 3 em dựa vào gợi ý ở mục 2b tập kể lại nội dung câu chuyện. Trường hợp
này có mấy em kể chưa được nhưng giáo viên không hướng dẫn kỹ chuyển em
khác, dẫn đến lộn xộn
Từ những ưu, khuyết điểm trên đã cho ta thấy rằng tuy vẫn có những sai sót
trong tiết dạy. Nhưng ở trường tiểu học ........, dạy kể chuyện đã có nhiều chuyển
biết tốt, chất lượng được nâng cao hơn, kĩ năng kể chuyện của học sinh cũng đã
được phát huy từng bước. Hạn chế ở đây là do giáo viên sử dụng phương pháp
truyền thống lâu năm nên khi chuyển đổi phương pháp dạy học mới không
những giáo viên bỡ ngỡ mà cả học sinh cũng vậy. Điều này cũng dễ hiểu, việc

thay đổi hình thức dạy học của ngành giáo dục trong thời gian vừa qua là rất mới
gây không ít trở ngại cho cả giáo viên và học sinh khi làm việc theo hình thức
độc lập, sáng tạo. Nhưng những lỗi GV thường mắc phải chưa phải là yếu tố
quyết định chất lượng tiết dạy, chỉ cần GV chịu khó nghiên cứu và tìm biện pháp
khắc phục là có thể nâng cao chất lượng của bài học.
2.2.2. Thực trạng học Kể chuyện của học sinh
Tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát: bài “Chiếc áo len” tuần 3, “Người mẹ”
tuần 4, “Hũ bạc của người cha” tuần 15.

Giáo sư Ngô

21


Kết quả là:
Giỏi

Khá

Trung

Yếu

bình
S
L

T
ỉ lệ


0

S
L

0
%

T
ỉ lệ

6

S
L

1
3,9 % 2

T
ỉ lệ

2

S
L

5
1,2 % 5


Tỉ
lệ

1

34
,9 %

Qua tiến hành kiểm tra khảo sát về phía học sinh khi học Kể chuyện, tôi
nhận thấy:
Học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng rất thích được nghe kể
chuyện và còng thích kể chuyện cho người khác nghe. Các em luôn háo hức chờ
đợi được học tiết kể chuyện. Với các hình thức dạy Kể chuyện như hiện nay, các
em vô cùng thích thú, có điều kiện được nói và nghe nhiều hơn. Nói cách khác,
häc sinh được luyện kể nhiều hơn.
Tuy vậy, ở một số em còn rụt rè, e ngại. GV cần tạo điều kiện để các em đó
được thể hiện trong giờ học, mạnh dạn nói trước tập thể lớp. Một số bài có yêu
cầu cao (Kể chuyện sáng tạo ở các mức độ) khiến các em khó có thể thực hiện
theo. Các em mong muốn có được sự hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết hơn khi kể
chuyện để có thể kể hấp dẫn hơn .
* Đánh giá thực trạng dạy và học phân môn Kể chuyện ở lớp 3.
- Đánh giá thực trạng dạy của giáo viên
Đa số GV đã có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết phải tiếp thu, đổi mới
cách dạy các môn học nói chung và phân môn Kể chuyện nói riêng. Phần lớn
GV thích dạy phân môn Kể chuyện theo lối tích hợp phân môn Tập đọc.
Tuy nhiên thực tế giảng dạy, GV vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc
nhất định. Đó là nguyên nhân làm cho chất lượng dạy Kể chuyện chưa cao.
SGV không hướng dẫn cách thể hiện đặc điểm nhân vật để GV hướng dẫn
HS đóng vai. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho GV.
Trong giờ học đa số GV chưa chú ý hình thành cho HS thói quen phát hiện

từ ngữ khó, đặc biệt là từ ngữ chìa khoá, có giá trị bộc lộ nội dung văn bản. Hầu
Giáo sư Ngô

22


hết GV mới chỉ dừng lại ở việc giảng những từ có trong phần chú thích SGK,
mang tính áp đặt và GV tự giải thích. Vì vậy giờ học trở nên đơn điệu, học sinh
không tự suy nghĩ, làm việc. Câu hỏi về ý của văn bản còn nông cạn, nên việc
cảm thụ nội dung ý nghĩa văn bản còn rời rạc, đơn giản và mang tính áp đặt.
Nhìn chung GV còn ít suy nghĩ đầu tư cho giờ dạy, ỷ lại vào tài liệu dạy học là
SGV, SGK và sách thiết kế bài dạy.
- Đánh giá thực trạng học của học sinh
Trong thực tế, tôi thấy khả năng phát hiện ra từ và hiểu từ quan trọng trong
bài của häc sinh còn yếu. Khả năng hiếu tầng ý nghĩa của các hình ảnh, sự việc
và đoạn truyện còn rất khó khăn. Hầu như các em mới hiểu được nghÜa miêu tả
đã là cố gắng nhiÒu, tầng nghĩa tượng trưng hàm ẩn hầu như các em chưa tiếp
cận được, GV chỉ cung cấp cho các em, giúp các em tin để rồi dần dần sau này
sẽ hiểu. Có những em có khả năng vốn có về việc sử dụng những yếu tố phụ trợ
khi kể chuyện, các em này không khó khăn lắm khi thực hiện yêu cầu biểu cảm
bằng nét mặt, cử chỉ. Một số những em khác không có khả năng đó nên việc
thực hiện yêu cầu này rất khó khăn. Các em nhớ và kể lại được chuyện đã là một
cố gắng lớn.
Đa số học sinh đều thích học phân môn Kể chuyện, vì ở tiết Kể chuyện nhu
cầu kể chuyện cho các bạn nghe, và nhu cầu được nghe các bạn kể chuyện rất
cao. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy học sinh rất có hứng thú kể chuyện cho các
bạn nghe hoặc rất tập trung chú ý khi các bạn kể lại để các em nhận xét.
Tuy nhiên, các em vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi thực hiện
những bài tập Kể chuyện.
- Đối với kiểu bài kể chuyện theo tranh, HS vẫn chưa biết cách phân tích

tranh để kể chuyện mà kể lại một cách máy móc câu chuyện theo như SGK. Như
vậy HS không phát huy được khả năng nói, giao tiếp của mình.
- Đối với kiểu bài kể theo gợi ý, các câu gợi ý đều mang tính tái hiện nên
các em dễ nhàm chán khi trả lời.
- Đối với kiểu bài phân vai dựng lại câu chuyện rất hiếm học sinh thể hiện
được vai diễn hoặc thể hiện bằng cử chỉ, điệu bộ của nhân vật. Đa số học sinh
Giáo sư Ngô

23


đều thích bài tập phân vai, dựng lại truyện, nhưng các em hầu như chỉ mới thuộc
lời của nhân vật nhưng chưa thể hiện được vai diễn.
Kết luận: Qua việc khảo sát thực trạng dạy học phân môn Kể chuyện trong
SGK lớp 3 tôi thấy chất lượng dạy và học phân môn này đạt hiệu quả chưa cao,
chưa phát triển hết năng lực nói cho học sinh mặc dù HS rất có hứng thú khi học
phân môn Kể chuyện. Nguyên nhân của thực trạng này là do:
- Hệ thống bài tập Kể chuyện chưa phát huy hết năng lực nói cho học sinh.
- SGK và SGV chưa có những hướng dẫn chi tiết cho phân môn Kể chuyện
để GV làm cơ sở giảng dạy.
- GV chưa có những cơ sở lí luận vững chắc và đồng bộ cho việc dạy học
theo hướng giao tiếp của chương trình mới hiện nay.
Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tôi thấy việc dạy luyện
nói cho HS lớp 3 qua phân môn Kể chuyện là cần thiết. Để đạt được hiệu quả
cao hơn, thì cần có sự chú trọng đúng mức đến việc rèn luyện các kĩ năng giao
tiếp cho HS. Mỗi GV tham gia giảng dạy cần có sự chuẩn bị kĩ các bài tập Kể
chuyện cũng như những phương pháp đặc trưng để thực hiện những bài tập
đó, sẽ giúp HS trong qúa trình thực hành luyện nói qua phân môn Kể chuyện.
Đây cũng là một đề xuất tôi đưa ra nhằm giúp GV tiểu học khắc phục được phần
nào thực trạng dạy học đã nêu ở trên trong nhà trường Tiểu học hiện nay.


Giáo sư Ngô

24


Chương 3
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CHO HỌC SINH LỚP 3
VÀ KẾT QỦA THỬ NGHIỆM
3.1. Một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện theo hướng phát huy tính
sáng tạo cho học sinh lớp 3
3.1.1. Xây dựng một số bài tập Kể chuyện nhằm nâng cao kĩ năng nói
cho học sinh lớp 3 trong phân môn Kể chuyện.
3.1.1.1. Kiểu bài kể chuyện theo tranh
Đây là kiểu bài giúp HS kể lại câu chuyện qua việc quan sát các chi tiết
trong tranh minh hoạ. Việc luyện tập những bài tập này sẽ là bước chuẩn bị cho
HS kể chuyện theo đoạn, bài mà không có tranh.
Cách 1: Cho tranh minh họa, yêu cầu HS dựa vào tranh tóm tắt lại nội
dung từng đoạn hoặc nội dung câu chuyện.
Ví dụ : Câu chuyện Cậu bé thông minh (TV3-tuần 1)
Dựa vào mỗi bức tranh hãy tóm tắt nội dung từng đoạn và kể lại câu
chuyện Cậu bé thông minh.
Gợi ý:
- Hs quan sát kĩ từng chi tiết có trong tranh và trả lời những câu hỏi sau:
+ Trong từng tranh có nhân vật nào? có sự việc gì?
+ Kể tóm tắt từng đoạn theo tranh
+ Kể tóm tắt toàn bộ câu chuyện
HS có thể kể như sau:
Cách 1:

Tranh 1:
Năm đó, nhà Vua muốn tìm người tài để giúp dân, giúp nước, bèn nghĩ ra
một cách. Ông cho lính về làng quê nọ loan tin phải nộp con gà trống biết đẻ
trứng. Cả làng ai cũng lo sợ, chỉ có một cậu bé rất bình tĩnh và đòi bố dẫn đi gặp
nhà Vua.
Giáo sư Ngô

25


×