Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tìm hiểu các phương thức giao tiếp trong môn Tiếng Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.06 KB, 12 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài:WAYS OF SOCIALISING

Tìm hiểu các phương thức giao tiếp
trong môn Tiếng Anh


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, Tiếng Anh đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng vàđưa đất
nước theo kịp với sự tiến bộ của nhân lọai trong thế kỷ XXI. Đó cũng chính là một
trong những lý do màTiếng Anh là một trong những môn học bắt buộctrong hệ
thống giáo dục quốc dân.Bên cạnh những môn học khác, Tiếng Anh trang bị cho
các em những kiến thức cơ bản của bậc học góp phần bồi dưỡng kiến thức,nhân
cách toàn diện cho học sinh.
Hòa cùng công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
trên toàn ngành, môn Tiếng Anh cũng có những bước chuyển mình, từng bước vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học
sinh, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri
thức.
Việc học tập không chỉ diễn ra ở trường, lớp mà còn diễn ra mọi lúc, mọi nơi đối
với mỗi học sinh, nhất là những học sinh hiếu động, mang tâm lí tò mò, ham hiểu
biết như đối tượng học sinh . Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu nhiều, ngay lập tức, ở
mọi nơi, cùng những lí do đã nêu trên, tôi đã chọn cách sử dụng bài giảng điện tử
E-learning để giảng dạyvới bộ môn Tiếng Anh, chủ đề “Ways of Socialising”. Bài
giảng gồm 3 bài học về các phương thức giao tiếp nhằm giúp các học sinh hiểu rõ
về cách thức giao tiếp bằng ngôn từ, về cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt … thông qua hình


ảnh sinh động thông qua bài giảng điện tử E-learning.
II. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu chọn chủ đề Ways Of Socialising- Cách thức giao tiếp nhằm giới thiệu
về các đặc điểm của giao tiếp bằng Ngôn ngữ và Phi ngôn ngữ để học sinh có thể
vận dụng phù hợp trong mọi hoàn cảnh.
2


Áp dụng công nghệ thông tin ở thời đại hiện nay, tôi muốn đem đến cho các em
học sinh những bài giảng sinh động cùng nguồn tài liệu phong phú được cô động
thành kiến thức chung về cách thức giao tiếp, để các học sinh có thể khám phá mọi
lúc và chia sẻ cùng các học sinh khác. Cũng như giúp phụ huynh có thể theo dõi
những kiến thức các em được học và tham gia học cùng các em.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng:
Môn Tiếng Anh lớp 12, chủ đề “Ways of Socialising”
2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu cách dạy và tự học hiệu quả ở mọi lúc mọi nơi.
Phạm vi không gian: mọi nơi.
Phạm vithời gian: Thực hiện mọi lúc.
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khi dạy chủ đề: “Ways of Socialising”, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chủ
đề: kiến thức về cách thức giao tiếp bằng ngôn ngữ - Verbal và phi ngôn ngữNon- verbal . Từ đó xác định được mục tiêu và nội dung bài, biết vận dụng các
phương pháp, phương tiện dạy cho phù hợp và hiệu quả. Đồng thời đưa ra các gói
bài tập, các câu hỏi tương tác để học sinh có thể năm vững được kiến thức của bài
học.
V. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp dùng lời
Phương pháp đặt câu hỏi
Sử dụng các phương tiện trực quan

Áp dụng công nghệ thông tin

B.NỘI DUNG
3


I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
1. Cơ sở lí luận
Sự phát triển vượt bậc của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những thành
tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo,
công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp
giảng dạy và học.Mặt khác, ngành giáo dục đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của
ngành công nghệ thông tin thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho công nghệ
thông tin. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng yêu cầu "đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cập học, ngành học theo hướng dẫn”.
Trong công tác giảng dạy, công nghệ thông tin giúp cho bài học sinh động hơn,
nhờ đó mà học sinmh có hứng thú học tập hơn, tiếp thu bài tốt hơn.
Như chúng ta đã biết, quá trình nhận thức thường gắn với những hình ảnh,
hoạt động cụ thể sẽ giúp cho học sinh phát triển tư duy và khắc sâu vào trong trí
nhớ. Bởi vậy, các phương tiện trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy đặc
biệt là các phương tiện trực quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của
học sinh.
Với những điều kiện và lí do trên, người thầy có thể chế tạo ra những món ăn hấp
dẫn và bổ dưỡng , tức là giờ học lý thú mà nếu chỉ sử dụng bảng đen phấn trắng thì
khó mà thực hiện được. Với các phương tiện dạy học hiện đại như máy tính, máy
chiếu và một số phần mềm tiện ích như Power Point, Violet, ... người thầy có thể
làm cho học trò quan tâm hơn đến môn học mà không phải ép buộc chúng. Chính
vì vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tiếng Anh là cần
thiết.
2. Cơ sở thực tiễn

Thuận lợi: Được sự cổ vũ của Bộ Giáo dục và Đào tạo,Sở Giáo dục và Đào tạo,
trường THPT Thanh Khê trong những năm gần đây đã tham gia thiết kế các bài
giảng điện tử E-learning, góp phần vào kho bài giảng trực tuyến của Bộ để giúp
4


các em học sinh có trải nghiệm học tập trực tuyến tốt nhất có thể. Cùng với đó,
giáo viên của trường đã đạt được nhiều giải cao cấp thành phố về thiết kế bài giảng
điện tử.Đó là những kinh nghiệm quý báu được đúc kết qua từng năm và là lợi thế
cho tôi khi thiết kế bài giảng cho năm nay.
Khó khăn: Việc thiết kế bài giảng điện tử chỉ mới được triển khai ở giai đoạn một,
số lượng bài giảng trên hệ thống chưa đầy đủ, kết quả học tập của học sinh bằng
cách học trực tuyến chưa được công nhận chính thức. Các phần mềm tạo bài giảng
chưa phong phú và hoàn thiện nên còn xảy ra nhiều lỗi khi sử dụng.Những khó
khăn trên dẫn đến việc tạo ra các bài giảng chưa hoàn mĩ để giúp học sinh có thể
thay thế hoàn toàn việc học tập trực tiếp thành trực tuyến.
Trên đây là một số cơ sở lí luận và tình hình thực tế về chủ đề “Ways of
Socialising –Các phương thức giao tiếp”mà tôi đã gặp phải.Vậy bài học về chủ đề
này hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức môn Tiếng Anh là điều mà tôi và các
đồng nghiệp rất quan tâm.
II. Nguyên nhân của thực trạng và giải pháp
1.Nguyên nhân
Việc dạy các em nhận biết các phương thức giao tiếp trong Tiếng Anhlà rất quan
trọng đối với lứa tuổi học sinh .Tuy nhiên, cơ sở vật chất của nhà trường và nhân
lực chưa đáp ứng kịp cho những tiết học trên lớp.Các em cần được học tập thường
xuyên và chia sẻ kiến thức nên việc thiết kế bài giảng điện tử là việc làm cần thiết
lúc này.Nó còn góp phần vào hệ thống giảng dạy trực tuyến của Bộ Giáo dục, giúp
phương pháp học tập này được đi vào hoạt động chính thức.
2.Các giải pháp thực hiện
1.1


Đối

với

giáo

viên:

Đầu tiên người giáo viên phải là người yêu thích tìm tòi, tự trang bị cho mình thật
nhiều kiến thức bên cạnh việc nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, báo chí, mạng
5


internet. Giáo viên cần nắm vững các kiến thức, mục tiêu cơ bản cần truyền đạt,
đảm bảo một hệ thống kiến thức liên tục.
- Giáo viên cần phối hợp giữa lý thuyết và thực hành, sử dụng kết hợp linh hoạt
các phương pháp và các hình thức dạy học, trong đó chú trọng phát huy năng lực
chủ

động

sáng

tạo

nơi

các


em.

- Khi tiến hành hoạt động dạy học, chúng ta cần dựa trên trình độ thực tế của
lớp mà lựa chọn phương pháp, hình thức phù hợp nhất hay phối hợp các phương
pháp, hình thức khác nhau để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học.
- Muốn học sinh nhớ lâu và không bị nhầm lẫn kiến thức giữa các bài học, giáo
viên cần tổ chức nhiều hình thức học tập, các hình thức phải vừa mang tính khoa
học nhưng không thiếu tính thực tế, mềm dẻo và sinh động qua từng câu hỏi.
- Việc linh hoạt tổ chức đối tượng học sinh hoạt động cũng cần được quan tâm,
tránh áp đặt cố định số lượng hoặc trình độ học sinh.Đối với các câu hỏi khó giáo
viên nên cho học sinh được trả lời hai lần để học sinh học chưa tốt có thể làm lại
được

bài.

- Giáo viên nên nắm rõ được mục đích của việc tổ chức trò chơi là giúp các em
phấn khởi, không bị nhàm chán, bó buộc trong yêu cầu của giáo viên khi báo cáo
lại kết quả làm việc, mà vẫn đem lại hiệu quả giáo dục cao.
- Giáo viên hãy dành ít thời gian để có những cuộc trao đổi nhỏ với các em, cho
các em được nêu lên những thắc mắc của mình về bài học này với bài học kia, …từ
đó sẽ giúp bản thân người dạy có những định hướng thêm chặt chẽ trong bài dạy
của mình. Trong bài dạy e-learning này cô trò trao đổi nhau bằng địa chỉ mail.
1.2 Đối với học sinh:
Phải phát huy vai trò chủ động trong hoạt động học qua việc sưu tầm những tư
liệu, tranh ảnh, thu thập thông tin từ báo chí, mạng internet, người thân, bạn bè,
môi trường sống xung quanh từ đó các em sẽ mạnh dạn trao đổi, nêu ý kiến thắc
6


mắc, tham gia tích cực các hoạt động ngoại khoá , câu lạc bộ, … tự học mọi lúc,

mọi nơi.
1.3 Môi trường học tập:
Môi trường học tập của các em đối với môn Tiếng Anh quả thật là rộng lớn, ở
trường, câu lạc bộ, các trang web ,… . Chính vì vậy các em cần có thói quen giao
tiếp với bạn bè, khách du lịch để phát huy các kỹ năng giao tiếp trong Tiếng Anh.
Vì đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá không chỉ đối với môn Tiếng anh nói
riêng, mà của tất cả các môn học khác. Bài giảng E- learning học sinh có thể học
mọi lúc mọi nơi, đặc biết các em được học, tìm hiểu gì đều có thể qua mạng
internet.
1.4 Phương tiện dạy học:
- Phương tiện dạy học trong bài giảng này có rất nhiều: hình ảnh, đoạn phim …
Khi sử dụng một phương tiện nào làm trực quan phải rõ ràng, chính xác và phải
làm nổi bật được nội dung bài dạy, nội dung cần tìm hiểu.
- Ngoài những phương tiện dạy học truyền thống đã rất quen thuộc đối với thầy
cô giáo đứng lớp, qua những buổi chuyên đề ở cấp Thành phố, cấp trường và ngay
tại lớp, chúng ta nhận ra rằng: Việc ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế bài
giảng luôn đem lại hiệu quả cao trong việc giảng dạy. Đặc biệt là đối với môn
Tiếng Anh.
1.5 Phương pháp dạy học:
- Phương pháp dạy học bắt nguồn từ nhu cầu của công cuộc đổi mới đang diễn
ra trên đất nước ta, một sự nghiệp đòi hỏi cần có những con người có năng lực, bản
lĩnh, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng với đời sống xã hội đang
từng bước, từng ngày đổi thay, đồng thời phù hợp với xu hướng giáo dục chung
của khu vực.
7


- Có rất nhiều phương pháp dạy học từ lâu đã trở nên quen thuộc với tất cả những
ai đã đứng trên bục giảng trong giai đoạn mới này. Đối với môn Tiếng Anh,
phương pháp trực quan được xem là một trong những phương pháp chủ đạo. Dù

vậy, không có phương pháp nào là vạn năng cả, cái khéo và thành công chính là
người giáo viên vận dụng phối hợp chúng như thế nào cho hài hòa, phát huy được
ưu thế và “khống chế” được các yếu điểm của các phương pháp, phù hợp với mục
tiêu bài, điều kiện, trình độ…..của học sinh, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
- Nếu tất cả biện pháp đều có sự kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng thì việc làm cho các
em học sinh yêu thích học môn học Tiếng Anh, ghi nhớ kiến thức về các phương
thức giao tiếp.
2. Hệ thống giải pháp:
2.1. Phương pháp thực hiện:
- Để giúp học sinh hình thành và ghi nhớ các kiến thức trong bộ môn Tiếng
Anh, thì việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất
quan trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp phù hợp với từng bài, với từng
đối tượng học sinh sao cho học sinh phải tự khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng
dẫn của giáo viên) vì hoạt động của trò là quá trình tự giác, tích cực, tự vận động,
nhận thức và phát triển nhưng phải được điều khiển, định hướng.
- Khi dạy học chúng ta cần lấy lợi ích của học sinh làm đích. Cần hiểu biết những
nhu cầu của người học từ đó quyết định những gì học sinh cần học.Riêng giáo viên
chỉ dạy “Những gì học sinh cần chứ không dạy những gì giáo viên có.
2.2. Cô và trò chuẩn bị sưu tầm tư liệu, tranh ảnh:
Như trên đã trình bày, một trong những phương pháp dạy học không thể thiếu được
khi dạy bộ môn Tiếng Anh là phương pháp trực quan sinh động. Những phương
tiện trực quan được sử dụng nhiều để dạy môn học là:
- Tranh ảnh.
8


- Các phương tiện nghe nhìn.
Giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh, đoạn phim cho chuẩn xác với từng bài.
2.4. Dạy học qua phần mềm tự học:
Việc hướng dẫn học sinh cách học bộ môn Tiếng Anh, việc thầy và trò chuẩn bị

sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, tất cả đều nhằm phục vụ cho việc dạy học ở trên lớp với
mục đích qua bài học học sinh phát huy được tính tích cực của mình thông qua
môn học.
Môn Tiếng Anhvốn dĩ là môn học được yêu thích của học sinh, bởi phương pháp
chính của môn học này là phương pháp trực quan. Các em được tiếp xúc nhiều với
các hìnhảnh tạo niềm thích thú và sinh động trong giờ học. Tuy nhiên, cơ sở vật
chất của một số trường không đáp ứng được nhu cầu của từng học sinh.Bài giảng
điện tử có thể đáp ứng được nhu cầu đó cho từng cá nhân, và nhất là việc tái hiện
lại kiến thức, tự ôn luyện, tự học cho các em.
Các bước học trong bài giảng điện tử:
Bước thứ nhất: Giáo viên cần phải định hướng được mục đích, nêu nhiệm vụ nhận
thức của tiết học.
Bước thứ hai: Giáo viên đưa ra các hình ảnh, thông tin liên quan đến mục tiêu dạy
học của bài giảng, để từ đó các em tự tìm kiếm, suy luận được bài học cần đạt qua
hệ thống bài tập.
Bước thứ ba: Học sinh tự kết luận kiến thức đã học thông qua hệ thống bài tập
củng cố. Giáo viên đưa ra kết luận cuối cùng.
Ưu điểm:
- Với phương pháp học thông qua bài giảng điện tử các em có thể tự mình suy
luận các kiến thức với sự hướng dẫn của bài giảng.
- Với một tiết dạy trên lớp, nếu giáo viên đưa ra một đoạn phim và các câu hỏi cho
đoạn phim đó. Không đảm bảo được 100% học sinh lớp 1 có thể theo kịp tiến trình
của đoạn phim và người GV không thể đáp ứng được nhu cầu xem lại nhiều lần
9


của mỗi HS. Tuy nhiên, với việc tự nghiên cứu thông qua bài giảng điện tử thì HS
có thể tự kiểm soát thời gian theo kịp bài học phù hợp với năng lực của mình.
- Tự suy luận ra kiến thức cũng như kiểm soát thời gian của mỗi bài học không tạo
ra áp lực học tập cho các học sinh.

Nhược điểm:
- Các em khó được thực hành, làm việc theocặp, nhóm.
- Ít có sự thi đua học tập.
III. Kết quả đạt được
Kết quả thực hiện thật sự đúng với mục tiêu mà tôi đã đặt ra.Cụ thể là học sinh
nắm được kiến thức cơ bản trọng tâm, nhớ tốt các kiến thức đã được học.Vận dụng
tốt các phương pháp và các biện pháp vào các hoạt động nhằm giúp học sinh chủ
động trong phần tìm hiểu bài.Từ đó giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức vào làm
các bài tập tương tác. Kết quả bước đầu thu được:
1. Kết quả về chất lượng và kết quả tình cảm về môn học:
Các em tự học, chủ động tìm hiểu nội dung bài, tự tin trước những câu hỏi bài tập.
Các em yêu thích môn học, hào hứng trước mỗi giờ học.
2. Kết quả năng lực học tập của học sinh:
Từ sự tự tin, từ năng lực chủ động, phát huy tính tích cực, tính tự học của mình
trong học, các em đã coi mỗi tiết học là một ngày hội, một cuộc thi nho nhỏ để tìm
ra kiến thức mới.
IV. Bài học kinh nghiệm
Những kinh nghiệm được trình bày trên đây đã được đúc kết từ những năm giảng
dạy.Qua từng giai đoạn học, tôi nhận thấy thầy và trò hiểu nhau hơn. Bản thân các
em trong tiết học cósự tiến bộ, luôn có sự mạnh dạn tin tưởng đưa ý kiến, câu hỏi
thắc mắc của mình đến cho giáo viên, cho các bạn trong lớp cũng như trong lúc tự
10


học. Và điều quan trọng các em đã nắm được kiến thức và rènđược khả năng tự
học. Điều này càng làm tôi phải không ngừng tìm tòi, nghiên cứu kiến thức trước
khi giải đáp cho các em.Đó còn là động lực để tôi tiếp tục hoàn thiện tốt vai trò của
người giáo viên trong thời đại.
Nói tóm lại giáo viên phải dạy cho học sinh nắm vững kiến thức.Không chỉ dừng
lại ở “biết” mà phải hiểu sâu về nó. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải thực

hiện:
- Nắm vững chương trình.
- Nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn.
- Sưu tầm tư liệu, tranh ảnh để minh hoạ.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy học.
Có như vậy thì thầy cũng nhàn mà học sinh cũng hứng thú, tạo hiệu quả cao
trong những tiết học, và vận dụngđược kiến thức
C.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Kết quả của mọi quá trình lao động đều được đánh giá dựa trên chất lượng
của sản phẩm. Các sản phẩm của các ngành nghề đều có thể phân ra theo từng
loại. Riêng sản phẩm của giáo dục không có một tiêu chí nào để có thể đánh giá
hay phân loại được mà tất cả các sản phẩm này phải là “thành phẩm” và tuyệt đối
không có khái niệm của “phế phẩm” . Ví vậy mỗi giáo viên phải là một “thợ thủ
công” điêu luyện, nhạy bén và linh hoạt trong sự phát triển mạnh mẽ của máy
móc hiện đại.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi rút ra được trong quá trình giảng dạy,
giúp học sinh nắm được kiến thức về các kỹ năng học ngôn ngữ. Tuy nhiên trong
quá trình viết đề tài sẽ có những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp nhiệt tình,
bổ sung ý kiến của đồng nghiệp, thầy cô để đem lại hiệu quả cao hơn trong những

11


lần viết sau.
Trân trọng cảm ơn.
II. Những ý kiến đề xuất
Nội dung của bài viết trên chỉ là ý kiến chủ quan của bản thân tôi. Mong quý thầy
cô góp ý và cho ý kiến.
Bài viết chỉ mới trình bày kiến thức chung về các cách giao tiếp-Ways of

Socialising. Mong quý thầy cô góp ý để tôi có thể trình bày tốt hơn ở các bài dạy
khác.

12



×