Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Luạn văn thạc sỹ quản lý giáo dục NGLL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.2 KB, 113 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế với những tác động của nền kinh tế trí
thức và toàn cầu hóa, nền kinh tế xã hội Việt Nam đã có những bước phát triển
đáng kể. Để đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế và thúc đẩy sự phát triển của đất
nước, một vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra đó là sự phát triển nguồn lực con
người. Đảng ta đã khẳng định: Con người là mục tiêu, là động lực của sự phát
triển. Nề kinh tế xã hội muốn có được sức mạnh để phát triển cần cần phải tạo ra
được trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại, nguồn lực chất xám cũng như nhân lực
kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, phát triển các
hoạt động dịch vụ... Vấn đề này đã tạo ra những cơ hội nhưng cũng đặt ra những
yêu cầu mới đối với giáo dục trong việc đào tạo đội ngũ lao động. Vì vậy giáo
dục đóng vai trò then chốt trong việc phát triển nền kinh tế xã hội thông qua việc
đào tạo con người, chủ thể sáng tạo và sử dụng tri thức. Việc Việt Nam ra nhập
WTO đã làm tăng nhu cầu của thị trường lao động đối với đội ngũ nguồn nhân
lực chất lượng cao. Nền kinh tế Việt Nam đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của toàn
cầu hóa, nên giáo dục cần đổi mới để đáp ứng với những yêu cầu của xã hội hiện
đại và toàn cầu hóa đặt ra, đặc biệt trong việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ có khả năng
hội nhập và cạnh tranh trong trong thị trường lao động và kinh tế quốc tế.
Từ những yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện toàn cầu
hóa và nền kinh tế tri thức nên trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và nhà
nước ta đã xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là con đường cơ bản để
CNH - HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã khẳng định: “mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là nhằm
xây dựng con người mới, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát


huy tính tiềm năng và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính
tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại”.
Vấn đề đặt ra cho việc giáo dục thế hệ trẻ là phải tạo mọi điều kiện để phát
triển cân đối hài hòa các tố chất, tiềm năng của mỗi người và cộng đồng như: Trí


tuệ, phẩm chất đạo đức, các yếu tố tâm lí, thể lực và các năng lực hoạt động của
mỗi người. Trong nhà trường phổ thông, nhân cách học sinh được hình thành chủ
yếu thông qua hai con đường cơ bản đó là dạy học và giáo dục, trong đó
HĐGDNGLL có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Việc tổ chức hoạt động ngoài
giờ lên lớp là một yêu cầu tất yếu của quá trình giáo dục nhằm mục góp phần
phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một
bộ phận rất cơ bản, quan trọng của kế hoạch giáo dục trong nhà trường THPT, đó
là những hoạt động tổ chức ngoài giờ học, là sự kết nối, bổ sung, hỗ trợ cho hoạt
động dạy học trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn tạo nên sự thống
nhất giữa nhận thức và hành động, giữa quá trình dạy học và quá trình giáo dục,
nhằm thực hiện nguyên lí: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục
gia đình và xã hội” (Luật giáo dục). Đặc biệt là tạo ra môi trường thân thiện
nhằm thúc đẩy học sinh hứng thú, say mê học tập.
Trước đây HĐGDNGLL do các trường tự tổ chức tùy theo điều kiện của
nhà trường, từ năm học 2006-2007 Bộ GD&ĐT đã đưa HĐGDNGLL vào
chương trình học tập chính khóa cho học sinh THPT. Tuy vậy trong thực tiễn còn
một bộ phận cán bộ quản lí, một số giáo viên, học sinh cũng như cha mẹ các em
chưa nhận thức đúng đắn vai trò của HĐGDNGLL, hoạt động này còn được coi
là hoạt động phụ khóa, mất thời gian, ảnh hưởng đến hoạt động dạy và học của
thầy và trò nên còn bị xem nhẹ. Mặc dù vẫn thực hiện theo qui định của chương

2


trình song nhiều GVCN không mấy hứng thú, không chủ động tự giác xây dựng
các HĐGDNGLL bởi công việc đòi hỏi mất nhiều thời gian, công sức trong khi
chế độ thanh toán, đãi ngộ còn quá ít chưa được cải thiện. Bên cạnh đó một số
GVCN còn hạn chế về năng lực tổ chức chỉ đạo hoạt động cho học sinh, kinh phí
tổ chức HĐGD ngoài lên lớp còn rất khó khăn, trong khi việc tổ chức hoạt động

lại rất tốn kém. Mặt khác, vẫn còn nhiều học sinh không tự giác, tích cực tham
gia hoạt động, còn ỷ lại vào GVCN và nhà trường tổ chức.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, đề tài: “Quản lí HĐGDNGLL ở các
trường THPT huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội” được lựa chọn để nghiên
cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác quản lí HĐGDNGLL ở các
trường THPT, đề xuất một số biện pháp quản lí HĐGDNGLL có tính khả thi
nhằm nâng cao chất lượng các HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội giúp học sinh hình thành phát triển nhân cách toàn diện,
đáp ứng yêu cầu giáo dục trong thời kỳ mới.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thạch Thất,
thành phố Hà Nội.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT.

3


4.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Đề tài chỉ thực hiện nghiên cứu và đề ra các biện pháp quản lý
HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
4.3. Giới hạn về khách thể khảo sát
Đề tài chỉ thực hiện khảo sát thực trạng về HĐGDNGLL và các biện pháp
quản lí HĐGDNGLL theo phạm vi chương trình do Bộ GD&ĐT ban hành của

bốn trường THPT Thạch Thất, Hai Bà Trưng, Phùng Khắc Khoan và Bắc Lương
Sơn thuộc huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
Trên cơ sở phân tích thực trạng HĐGDNGLL ở các trường THPT và khảo
sát công tác quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nội thì sẽ đề ra các biện pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả
HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để chứng minh cho giả thuyết khoa học thì đề tài nghiên cứu cần giải
quyết ba nội dung cơ bản sau:
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý HĐGDNGLL.
6.2. Phân tích thực trạng HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thạch
Thất, thành phố Hà Nội.
6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu, thông tư,
chỉ thị, nghị quyết, văn bản qui phạm pháp luật, sách báo, luận văn... có liên
quan đến đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.

4


7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Trò chuyện, phỏng vấn, quan sát, điều tra bằng phiếu, lấy ý kiến chuyên
gia, thống kê toán học nhằm tìm hiểu thực trạng quản lý HĐGDNGLL ở các
trường THPT huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội; từ đó đề xuất các biện pháp
góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT
huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
8. Dự kiến cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HĐGDNGLL Ở CÁC
TRƯỜNG THPT
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÍ HĐGDNGLL Ở CÁC
TRƯỜNG THPT HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÍ HĐGDNGLL Ở CÁC THPT HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HĐGDNGLL Ở CÁC TRƯỜNG THPT
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Ở nước ngoài
Trong quá trình nghiên cứu lịch sử phát triển giáo dục thế giới, hoạt động
dạy - học được nghiên cứu một cách có hệ thống từ thời Nguyên thủy cho đến
nay chúng ta thấy có rất nhiều nhà giáo dục đã đưa ra các phương pháp giáo dục
mà đến ngày hôm nay chúng ta vẫn còn giá trị và các phương pháp này có liên
quan đến các HĐGDNGLL như:
Trong thời kỳ văn hóa phục hưng đã xuất hiện hàng loạt các nhà giáo dục
Phục hưng đã lý giải các vấn đề giáo dục một cách mới mẻ theo khuynh hướng
khoa học, không bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến và triết lý nhà thờ, tư tưởng
của họ đã đặt tiền đề cho thời kỳ giáo dục mới: giáo dục cận đại. Tiêu biểu là
Thomas More (1478-1535), Ông đề cao: “phương pháp quan sát, thí nghiệm,
thực hành trong dạy học và giáo dục, theo Ông lao động là nghĩa vụ của mọi
người, song mỗi ngày chỉ làm việc 6 giờ, thời gian còn lại để học văn hóa và sinh
hoạt xã hội, giáo dục nhằm phát triển nhiều mặt ở trẻ em: về thể chất, đạo đức,
trí tuệ và kỹ năng lao động” [33, trang 80]. Một đại biểu xuất sắc nữa của chủ

nghĩa nhân đạo Pháp và tư tưởng giáo dục thời kỳ Phục hưng là Rabơle (14941553). Ông đòi hỏi việc giáo dục phải bao hàm các nội dung: “trí dục, đạo đức,
thể chất và thẩm mĩ và đã có sáng kiến tổ chức các hình thức giáo dục như ngoài
việc học ở lớp và ở nhà, còn có các buổi tham quan các xưởng thợ, các cửa hàng,
tiếp xúc với các nhà văn, các nghị sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một lần thầy và trò về
sống ở nông thôn một ngày” [15, trang 39]. Đây chính là tiếng nói tiến bộ của

6


loài người về lĩnh vực giáo dục trong thời kỳ văn hóa Phục hưng, đứng trên quan
điểm của chủ nghĩa nhân văn mà hai ông đề xuất lí luận và có ý định thực thi
một chế độ giáo dục mới tiến bộ để thay cho trật tự đương thời của phong kiến
về giáo dục.
Đến thế kỷ XX ông A.X. Ma-ca-ren-cô nhà sư phạm nổi tiếng của nước
Nga đã nói về tầm quan trọng của công tác giáo dục học sinh ngoài giờ học: “các
vấn đề giáo dục, phương pháp giáo dục không thể hạn chế trong các vấn đề
giảng dạy, lại càng không thể cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên lớp học,
mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước chúng ta... Nghĩa là trong
bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ
được tiến hành trên lớp. Công tác giáo dục chỉ đạo toàn bộ của trẻ”.[19, trang 63]
Đến những năm 60, 70 của thế kỷ XX, Liên Xô (cũ) đang trên con đường
xây dựng CNXH, việc giáo dục con người toàn diện được Đảng và Nhà nước
quan tâm. Các nghiên cứu về lý luận giáo dục nói chung và HĐGDNGLL nói
riêng được đẩy mạnh. Trong tác phẩm “Tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục ở
trường phổ thông”, tác giả I.X. Marienco đã trình bày sự thống nhất của công tác
giáo dục trong và ngoài giờ học, nội dung và các hình thức tổ chức
HĐGDNGLL, vị trí của người quản lý trong việc lãnh đạo HĐGD và các tổ chức
tham gia HĐGD.
1.1.2. Ở Việt Nam
HĐGDNGLL trước đây chưa được chú trọng nhiều. Cho đến những năm

80 của thế kỷ XX trở lại đây, các nhà giáo dục mới chú trọng đến vấn đề này.
Trước khi cải cách giáo dục lần thứ 3 (từ năm 1979 trở về trước),
HĐGDNGLL chưa được định hình và chưa có tên gọi như ngày hôm nay. Tuy
nhiên, Chủ Tịch Hồ Chí Minh có viết thư gửi học sinh nhân dịp khai trường năm

7


1945: “nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường tham gia vào các hội cứu
quốc để tập luyện cho quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ
nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”.[18, trang 101]
Tháng 7/1950 Hội đồng chính phủ thông qua đề án cải cách giáo dục lần
1. Mục tiêu đào tạo của nhà trường trong giai đoạn này là giáo dục bồi dưỡng thế
hệ trẻ thành người lao động tương lai, trung thành với chế độ dân chủ nhân dân
có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ nhân dân. Với quan điểm đào tạo thế hệ trẻ
có đủ phẩm chất và năng lực đã thể hiện quan điểm giáo dục toàn diện của nhà
nước ta.
Tháng 5/1956, Chính phủ thông qua đề án cải cách giáo dục lần 2 và giao
cho Bộ giáo dục triển khai đề án đó. Mục tiêu giáo dục được xác định là: Đào tạo
bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người phát triển về mọi mặt, những công
dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt, có tài, có đức để
phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng CNXH ở nước ta, đồng
thời thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Từ khi cải cách giáo dục lần 3 (1979) tới nay: Nghị quyết 14/TƯ ngày
11/1/1979 của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã khẳng định: “Nội dung giáo
dục ở trường phổ thông trung học mang tính toàn diện và kỹ thuật tổng hợp,
nhưng có chú ý đến việc phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân... Ở trường
phổ thông trung học, cần coi trọng giáo dục thẩm mĩ (âm nhạc, mĩ thuật...), giáo
dục và rèn luyện thể chất, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và
luyện tập quân sự”. Điều 27 Luật giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Mục tiêu

của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư

8


cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào
cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Để đáp ứng yêu cầu
giáo dục toàn diện cho học sinh, đã có nhiều nghiên cứu xung quanh việc xác
định khái niệm “HĐGDNGLL” và những nghiên cứu nhằm tổ chức có hiệu quả
HĐGDNGLL trong nhà trường.
PGS. TS Hà Nhật Thăng, sau khi lấy ý kiến chuyên gia và hội thảo ở các
địa phương đã dự thảo chương trình khung “Tổ chức HĐGDNGLL ở trường
THCS” vào năm 1998.
Nghiên cứu của nhóm cán bộ gồm GS. Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Đăng
Thìn, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Ký về HĐGDNGLL ở trường THCS, đã điểm
qua về vị trí, nhiệm vụ HĐGDNGLL, các hình thức và con đường chủ yếu thực
hiện HĐGDNGLL ở trường THCS. Đặc biệt đã giới thiệu qui trình chung của tổ
chức HĐGDNGLL và một số hình thức hoạt động mẫu.
Qua tài liệu bồi dưỡng giáo viên về HĐGDNGLL, nhóm tác giả Nguyễn
Dục Quang, Trần Quốc Thành, Lê Thanh Sử đã nêu được mục tiêu, nội dung và
phương pháp tổ chức HĐGDNGLL.
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu nghiên cứu cơ bản về
HĐGDNGLL, nghiên cứu thực nghiệm, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm
xây dựng qui trình tổ chức và đổi mới nội dung phương pháp HĐGDNGLL.
Đã có nhiều Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục nghiên cứu
đề tài HĐGDNGLL ở trường THPT như:
Luận văn “Các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý HĐGDNGLL của
Hiệu trưởng một số trường THPT phía Nam”, tác giả Nguyễn Thị Hoàng Trâm,

năm 2003.

9


Luận văn “Một số biện pháp quản lý HDDGD NGLL của Hiệu trưởng các
trường THPT Huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay”, tác giả
Nguyễn Như Ý, năm 2005.
Luận Văn “Các biện pháp quản lý HĐGDNGLL của Hiệu trưởng các
trường THPT tỉnh Đồng Tháp”, tác giả Nguyễn Đức Điền, năm 2007.
Luận văn “Các biện pháp quản lý thực hiện chương trình HĐGDNGLL ở
trường THPT Đại Từ - Thái Nguyên”, tác giả Phan Vĩnh Thái, năm 2008.
Luận văn “Biện pháp quản lí HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện
Phúc Thọ thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, tác giả Khuất Cao Bắc,
năm 2008.
Luận văn “Thực trạng quản lý HĐGDNGLL tại các trường THPT thành
phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang”, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Duyên, năm 2011.
Các luận văn trên tập trung nghiên cứu giải quyết các vấn đề thực tiễn cụ
thể ở một số địa bàn nghiên cứu khác nhau, đối tượng và khu vực cũng khác
nhau về HĐGDNGLL. Hiện nay, qua tìm hiểu chưa có tác giả nào nghiên cứu về
thực trạng, tổng kết kinh nghiện thực tiễn và đề xuất các biện pháp quản lý
HĐGDNGLL ở các các trường THPT huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Xuất phát từ các yêu cầu của giáo dục trong thời kỳ mới, các trường THPT
cần quan tâm đẩy mạnh các dạy và học. Chúng tôi thấy rằng việc nghiên cứu về
quản lý HĐGDNGLL ở trường THPT huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội là rất
cần thiết, từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý HĐGDNGLL.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm về quản lý , quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.2.1.1 Quản lý
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý:


10


Theo C.Mác, quản lý là loại lao động điều khiển mọi quá trình lao động và
phát triển xã hội.
Tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng: “Quản lý là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các
quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và
phù hợp với qui luật khách quan”[33, trang 40]
Theo từ điển giáo dục học của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, khái niệm
quản lý được định nghĩa: “Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng có
chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị
quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích
của tổ chức”.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa
thông tin, 1999; khái niệm quản lý được định nghĩa là:
- Tổ chức và điều khiển các hoạt động của một số đơn vị, cơ quan.
- Trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì.
Tuy có nhiều kiến giải khác nhau, nhưng xét trên tổng thể, phần lớn các
nhà nghiên cứu đã thống nhất: Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ
dichd của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm làm cho tổ chức có hiệu
quả cao.
Quản lý là một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội
phát triển càng cao thì vai trò của quản lý càng lớn, phạm vi càng rộng và nội
dung càng phong phú, phức tạp.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành, phân phối của các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công


11


tác đào tạo thế hệ trẻ, theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát
triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ
mà cho mọi người. Tuy nhiên, trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ. Cho nên quản
lý giáo dục được hiểu là sự điều hành của hệ thống giáo dục Quốc dân, các
trường trong hệ thống giáo dục Quốc dân”.[25, trang 124]
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những
tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật)
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh,
CMHS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có
chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”.[15, trang 37,38]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát
là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”. [20, trang 9]
Như vậy có thể hiểu: Quản lý giáo dục là tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý giáo dục lên khách thể và đối tượng nhằm sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, những cơ hội của tổ chức để đạt được những mục tiêu đề
ra trong điều kiện biến động của môi trường, làm cho tổ chức vận hành có hiệu
quả.
Ngày nay, với quan điểm học thường xuyên, học suốt đời, công tác giáo
dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người, nên quản lý giáo dục
được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống
giáo dục quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường

12



Quản lý nhà trường là quản lý vi mô. Nó là hệ thống con của quản lý vĩ
mô: Quản lý giáo dục. Quản lý nhà trường là những tác động của các cơ quan
quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng
dạy, học tập giáo dục của nhà trường.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, quản lý nhà trường là tập hợp những
tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ
khác, nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội
đóng góp và lao động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt
động của nhà trường, mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ thực hiện có
chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.[12, trang 22]
Quản lý nhà trường là một hoạt động thực hiện trên cơ sở những qui luật
chung của quản lý, đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng. Quản lý nhà
trường khác với các loại quản lý xã hội, được qui định bởi bản chất hoạt động sư
phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục trong đó mọi
thành viên của nhà trường vừa là đối tượng quản lý vừa là chủ thể hoạt động của
bản thân mình. Sản phẩm tạo ra của nhà trường là nhân cách của người học được
hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu của xã hội
và được xã hội thừa nhận.
Quản lý nhà trường phải quản lý toàn diện nhằm hoàn thiện và phát triển
nhân cách thế hệ trẻ một cách hợp lý, hợp qui luật, khoa học và hiệu quả. Hiệu
quả giáo dục của nhà trường phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của nhà trường kể cả

13



về lực lượng hỗ trợ các đoàn thể, tổ chức hội trong và ngoài nhà trường. Muốn
có hiệu quả công tác quản lý, người quản lý phải xem xét đến những điều kiện
đặc thù, phải chú trọng tới việc cải tiến công tác quản lý giáo dục để quản lý có
có hiệu các hoạt động của nhà trường, nhằm nâng cao chất lượng GD&ĐT.
Công tác quản lý nhà trường bao gồm các nội dung:
- Chỉ đạo thực hiện theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT và của Sở
- Tổ chức đội ngũ các thầy giáo, cô giáo, cán bộ công nhân viên và tập thể
học sinh thực hiện tốt các nhiệm vụ trong chương trình công tác của nhà trường.
Giáo dục học sinh phấn đấu, học tập tu dưỡng trở thành người công dân ưu tú.
- Chỉ đạo tốt các hoạt động chuyên môn theo chương trình của Bộ
GD&ĐT làm sao để chương trình được thực hiện nghiêm túc và các phương
pháp giáo dục luôn được cải tiến, chất lượng dạy và học ngày một nâng cao.
Biện pháp quản lý là theo dõi sát sao mọi công việc, kiểm tra kịp thời, thanh tra
để uốn nắn...
- Quản lý tốt việc học tập của học sinh theo qui chế của Bộ GD&ĐT. Quản
lý học sinh bao hàm cả quản lý thời gian và chất lượng học tập, quản lý tinh thần
thái độ và phương pháp học tập.
- Quản lý toàn bộ CSVC và thiết bị nhà trường nhằm phục vụtốt nhất cho
công tác giảng dạy, học tập và giáo dục học sinh. Quản lý tốt CSVC không đơn
thuần chỉ là việc bảo quản tốt mà phải phát huy tối đa khả năng cho dạy học và
giáo dục, đồng thời phải làm sao để có thể thường xuyên bổ sung thêm những
thiết bị mới có giá trị.
- Quản lý nguồn tài chính hiện có của nhà trường theo đúng nguyên tắc
quản lý tài chính của Nhà nước và của ngành giáo dục. Đồng thời biết động viên,

14


thu hút các nguồn tài chính khác xây dựng CSVC, mua sắm thiết bị phục vụ các
HĐGD và dạy học.

- Quản lý nhà trường cũng có nghĩa là chăm lo đến đời sống vật chất và
tinh thần của tập thể giáo viên, công nhân viên. Cần tạo một phong trào thi đua
phấn đấu liên tục trong nhà trường.
- Quản lý giáo dục trên cơ sở quản lý nhà trường là một phương hướng cải
tiến quản lý giáo dục theo nguyên tắc tăng cường phân cấp quản lý nhà trường
nhằm phat huy tối đa năng lực, trách nhiệm và quyền hạn của các chủ thể quản
lý trực tiếp thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo mã xã hội đang yêu ầu. Như vậy
quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý giáo
dục trong việc vận hành nguyên lý, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm
đạt được những mục tiêu đề ra. Những tác đó thực chất là những tác động khoa
học đến nhà trường, làm cho nhà trườn tổ chức một cách khoa học, có kế hoạch
quá trình dạy và học theo mục tiêu đào tạo.
1.2.2. Khái niệm HĐGD và HĐGDNGLL; HĐGDNGLL
1.2.2.1. Hoạt động giáo dục
Hoạt động là sự tương tác giữa chủ thể và đối tượng nhằm biến đổi đối
tượng theo mục tiêu mà chủ thể đặt ra. Quá trình chủ thể tác động vào đối tượng
nhằm tạo ra sản phẩm.
HĐGD là dưới tác động chủ đạo của thầy giáo, người học chủ động thực
hiện hoạt động nhằm lĩnh hội tri thức khoa học, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát
triển trí tuệ, hình thành thế giới quan khoa học và phẩm chất, nhân cách.
Luật Giáo dục năm 2005 đã ghi: “HĐGD phải được thực hiện theo nguyên
lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với
thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.

15


Nguyên lý giáo dục là nguyên tắc chung, phương pháp tổng quát của HĐGD.
CBQL giáo dục tất cả các cấp đều phải vận hành hệ thống giáo dục theo nguyên
lý này. Các chương trình bộ môn, kế hoạch dạy - học đều phải được xây dựng

theo nguyên tắc chung đó.
Nội dung của nguyên lý này gồm bốn điểm cần lưu ý:
- Học đi đôi với hành. Mục đích của học là để hành, để phát triển, để sống.
“Hành” có nhiều nghĩa: từ lời nói trong đối đáp, hành vi trong ứng xử đến lao
động để kiếm sống và tổng quát hơn, xa hơn là định ra lý tưởng để sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói học phải kết hợp với hành, chống lối
học vẹt. Trong dịp nói chuyện với cán bộ giảng dạy và sinh viên trường Đại học
Sư phạm Hà Nội (ngày 21 tháng 10 năm 1964), Bác nói: “Các cháu học sinh
không nên học gạo, không nên học vẹt... Học phải suy nghĩ, phải liên hệ với thực
tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”.[12,
trang 149]
- Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, đây là tư tưởng giáo dục của
nhà trường hiện đại. Học tập kết hợp với lao động sản xuất là hạt nhân của của
toàn bộ nguyên lý giáo dục. Mục tiêu tổng quát của giáo dục là phát triển toàn
diện con người; và đối với xã hội, phát triển toàn diện con người để phát triển
kinh tế-xã hội; đối với từng người để có năng lực nghề nghiệp, để sống và đóng
góp cho gia đình, cho cộng đồng. Giáo dục làm phát triển tổng hợp năng lực vật
chất và năng lực trí tuệ tồn tại trong cơ thể và nhân cách của mỗi con người. Đạo
đức và tay nghề là hai yêu cầu hết sức cơ bản mà giáo dục phải hình thành nên ở
mỗi người.

16


- Lý luận gắn liền với thực tiễn, đây là một yêu cầu quan trọng đối với quá
trình GD&ĐT trong nhà trường Việt Nam. Lý luận được đúc kết từ thực tiễn và
nghiên cứu khoa học thành các tri thức, quy luật.
Trong khi giảng dạy lý thuyết, giáo viên thường xuyên liên hệ với thực
tiễn sinh động của cuộc sống, với những diễn biến sôi động hàng ngày, hàng giờ
trong nước và trên thế giới, đây là những minh họa vô cùng quan trọng giúp học

sinh nắm vững lý thuyết và hiểu rõ thực tiễn. Học tập có liên hệ với thực tiễn làm
cho lý thuyết không còn khô khan, khó tiếp thu mà trở nên sinh động và ngược
lại, các sự kiện, hiện tượng thực tiễn được phân tích, được soi sáng bằng những
lý luận khoa học vững chắc.
- Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Giáo dục là quá trình có nhiều lực lượng tham gia, trong đó có ba lực lượng quan
trọng nhất: gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội. Ba lực lượng giáo dục
này đều có chung một mục đích là hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ.
Gia đình là nơi đem đến cho trẻ những bài học đầu tiên và thường xuyên,
liên tục từ lúc mới sinh đến tuổi trưởng thành, từ lời du của mẹ, tình thương và
tấm gương, đến lời khuyên bảo của ông bà, cha mẹ, anh chị... Như vậy, giáo dục
gia đình giữ một vị trí đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển nhân cách,
nhất là giáo dục tính người, tình người từ tuổi ấu thơ.
Các tổ chức xã hội như đoàn hội, đội mà các em tham gia, cộng đồng mà
các em sinh sống, câu lạc bộ, nơi vui chơi,... mà các em hay lui tới cũng có nội
dung giáo dục với các hình thức riêng và cũng có ảnh hưởng đáng kể đến giáo
dục thế hệ trẻ. Đó chính là nơi thể hiện kết quả giáo dục của gia đình và nhà
trường, nhất là đối với nội dung giáo dục tinh thần xã hội, ứng xử xã hội, trách
nhiệm xã hội,... cho thế hệ trẻ.

17


Mối liên hệ giữa nhà trường, gia đình với các tổ chức xã hội và các cơ
quan kinh tế, văn hóa đóng ở địa phương càng chặt chẽ, càng đem lại những
thành công cho giáo dục, trong đó nhà trường phải chịu trách nhiệm chính trong
sự phối hợp với tất cả các lực lượng giáo dục.
1.2.2.2. Khái niệm HĐGDNGLL
HĐGDNGLL là một HĐGD được thực hiện một cách có mục đích, có kế
hoạch, có tổ chức nhằm góp phần thực thi quá trình đào tạo học sinh, đáp ứng

những nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội.
Hoạt động này do nhà trường quản lý, tiến hành ngoài giờ dạy học trên lớp
(theo chương trình, kế hoạch dạy học). Nó được tiến hành xen kẽ hoặc nối tiếp
chương trình dạy học trong phạm vi nhà trường hoặc trong đời sống xã hội, được
diễn ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo
dục, làm cho quá trình đó có thể thực hiện mọi nơi mọi lúc.
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt: “HĐGDNGLL là việc tổ chức giáo dục thông
qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học kỹ thuật, lao động công ích,
hoạt động xã hội, hoạt động nhân văn, văn hóa văn nghệ, thẩm mỹ, thể dục thể
thao, vui chơi giải trí...để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách”[8,
trang 16]
HĐGDNGLL ở trường THPT giúp các em học sinh có cơ hội tham gia các
hoạt động thực tiễn. Học sinh khi được hòa mình vào đời sống xã hội sẽ có thêm
những hiểu biết, học thêm được kinh nghiệm giao tiếp... để làm tăng thêm vốn
sống của mình, để rèn luyện mình trở thành những người có nhân cách.
HĐGDNGLL có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động dạy học và tạo điều
kiện gắn lý thuyết với thực hành, thống nhất giữa nhận thức với hành động góp
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển các kỹ năng, tình cảm, niềm

18


tin, tạo cơ sở cho việc phát triển nhân cách toàn diện học sinh trong giai đoạn
hiện nay.
1.2.2.3. Khái niệm quản lý HĐGDNGLL
HĐGDNGLL bao gồm các công việc:
- Chuẩn bị cho hoạt động của giáo viên và học sinh.
- Tổ chức hoạt động theo kế hoạch đã đề ra.
- Tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động.
Như vậy, quản lý HĐGDNGLL là quá trình tác động có mục đích, có tổ

chức khoa học của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng và bộ máy giúp việc của hiệu
trưởng) đến tập thể giáo viên, học sinh và những lực lượng trong và ngoài nhà
trường nhằm huy động họ tham gia tổ chức thực hiện HĐGDNGLL theo những
qui luật khách quan nhằm đạt được mục tiêu giáo dục học sinh một cách toàn
diện.
Quản lý thực hiện chương trình HĐGDNGLL ở trường THPT là một trong
các nội dung quản lý cơ bản ở trường THPT.
1.2.3. Khái niệm biện pháp quản lý HĐGDNGLL
Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ
thể.
Biện pháp quản lý là cách thức chủ thể quản lý tiến hành sử dụng các công
cụ quản lý tác động vào việc thực hiện từng khâu của chức năng quản lý trong
mỗi quá trình quản lý để đạt được các mục tiêu quản lý đề ra.
Các biện pháp quản lý thực hiện HĐGDNGLL ở trường THPT là các thao
tác, hành động quản lý nhà nước ở bậc giáo dục THPT, của chủ thể quản lý đến
đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện HĐGDNGLL. Các biện pháp
quản lý thực hiện HĐGDNGLL được thực hiện song song với HĐGD ở trên lớp

19


là sự bổ trợ, củng cố những tri thức học sinh đã được học trên lớp và rèn luyện
các kỹ năng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh bậc THPT.
Quản lý thực hiện HĐGDNGLL là HĐGD có mục tiêu với các biện pháp
khoa học của Hiệu trưởng đến tập thể giáo viên và những lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường nhằm huy động mọi nguồn lực trong việc chỉ đạo quản
lý thực hiện HĐGDNGLL theo những qui luật khách quan; có sự thống nhất thực
hiện mục tiêu phát triển nhân cách toàn diện của học sinh bậc THPT
1.3. HĐGDNGLL ở trường THPT
1.3.1. Mục tiêu, vị trí, vai trò của HĐGDNGLL ở trường THPT

1.3.1.1. Mục tiêu của HĐGDNGLL
HĐGDNGLL là một bộ phận trong quá trình giáo dục ở nhà trường THPT.
Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các bộ môn văn hóa có trong
thời khóa biểu qui định. Theo sách giáo viên về hướng dẫn thực hiện
HĐGDNGLL ở trường THPT của Bộ GD&ĐT [6, trang 3], HĐGDNGLL có
mục tiêu giúp cho học sinh:
- Nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như
những giá trị tốt đẹp của nhân loại; góp phần củng cố, mở rộng và khắc sâu kiến
thức đã học ở trên lớp; có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình , nhà trường và xã hội; bước đầu có định hướng nghề nghiệp.
- Củng cố vững chắc các kỹ năng cơ bản được rèn luyện từ các cấp học
trước, trên cơ sở đó tiếp tục hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu như:
năng lực tự hoàn thiện, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực hạt động
chính trị - xã hội, năng lực tổ chức quản lý, năng lực hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh.

20


- Có thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống, biết phân biệt
đánh giá để tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân, hướng tới mục tiêu: chân,
thiện, mỹ.
1.3.1.2. Vị trí của HĐGDNGLL
Quá trình dạy học và quá trình giá dục là những bộ phận cảu quá trình sư
phạm tổng thể. Trong quá trình dạy học, ngoài việc truyền thụ cho học sinh
những tri thức khoa học cơ bản và có hệ thống còn phải luôn mang lại hiệu quả
giáo dục nhân cách cho các em. Ngược lại, trong quá trình giáo dục, ngoài việc
hình thành cho học sinh ý thức và niềm tin, về thái độ ứng xử đúng đắn trong các
quan hệ giao tiếp hàng ngày, về hành vi và kỹ năng hoạt động còn phải tạo cơ sở
để học sinh bổ sung và hoàn thiện những tri thức đã được học trên lớp. Quá trình

giáo dục diễn ra hai hoạt động chủ yếu: Hoạt động dạy học trên lớp và
HĐGDNGLL. Vì thế HĐGDNGLL là một bộ phận cấu thành trong HĐGD.
HĐGDNGLL là cầu nối tạo ra mối liên hệ hai chiều giữa nhà trường và xã
hội. Thông qua HĐGDNGLL nhà trường có điều kiện phát huy vai trò tích cực
của mình đối với cuộc sống.
Ở mỗi địa phương trên địa bàn quận, huyện, thị xã đều có một hoặc nhiều
trường THPT. Nhà trường thông qua các HĐ NGLL như lao động, văn hóa, văn
nghệ, lao động sản xuất... để phục vụ cuộc sống, xã hội gắn nhà trường với địa
phương.
HĐGDNGLL là điều kiện và phương tiện để huy động sức mạnh cộng
đồng cả về vật chất và tinh thần nhằm thúc đẩy sự phát triển của nhà trường và
sự nghiệp giáo dục chung.
HĐGDNGLL có vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục học sinh nói
chung và càng quan trọng đối với học sinh THPT, lứa tuổi đang tập làm người

21


lớn. Ở lứa tuổi này, nét nổi bật về tính cách của các em là khuynh hướng ham
hoạt động, năng động, tự lập, ham hiểu biết. Các em mạnh dạn hơn, suy nghĩ táo
bạo hơn, có những nhu cầu mới hơn, đặc biệt là nhu cầu về hoạt động. Mặc dù
hoạt động học tập vẫn là chủ đạo, song nội dung và tính chất hoạt động học tập ở
lứa tuổi này khác rất nhiều so với các lứa tuổi trước. Nó đòi hỏi các em tính năng
động và độc lập cao hơn, tư duy logic nhiều hơn.
Vì vậy, HĐGDNGLL đối với lứa tuổi học sinh THPT có vị trí then chốt
trong quá trình giáo dục, nhằm điều chỉnh, định hướng quá trình giáo dục toàn
diện đạt hiệu quả.
1.3.1.3. Vai trò của HĐGDNGLL
HĐGDNGLL là sự nối tiếp hoạt động dạy - học. Do đó, tạo nên sự hài
hòa, cân đối của quá trình sư phạm toàn diện, thống nhất “nhằm hiện thực hóa”

mục tiêu của cấp học.
HĐGDNGLL giúp học sinh bổ sung, củng cố và hoàn thiện những tri thức
đã được học trên lớp. Giúp học sinh biết vận dụng những tri thức đã học để giải
quyết các vấn đề do đời sống thực tiễn đặt ra.
HĐGDNGLL giúp học sinh hướng nhận thức, biết tự điều chỉnh hành vi
đạo đức, lối sống cho phù hợp. Qua đó cũng làm giàu thêm những kinh nghiệm
thực tế cho bản thân.
HĐGDNGLL thu hút và phát huy được tiềm năng của các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Đồng
thời cũng giúp các nhà giáo dục phát hiện được năng khiếu của học sinh, giúp
các em phát triển năng khiếu, sở thích bản thân trong học tập và cuộc sống.
HĐGDNGLL phát huy cao độ tính chủ thể, tính chủ động, tích cực của
học sinh, giảm thiểu tình trạng yếu kém đạo đức của học sinh. Dưới sự cố vấn,

22


giúp đỡ của giáo viên, học sinh cùng nhau tổ chức các hoạt động tập thể khác
nhau trong đời sống hàng ngày ở trường, ngoài xã hội. HĐGDNGLL với nhiều
hình thức phong phú nên học sinh đầu tư thời gian vào các hoạt động bổ ích sẽ
giảm bớt thời gian tham gia vào các hoạt động không lành mạnh, hạn chế bớt
nhóm tự phát, tránh ảnh hưởng xấu. Tham gia vào các hoạt động, các em yếu
kém về đạo đức có nhiều cơ hội điều chỉnh nhận thức, hành vi sai lệch của mình.
Từ đó hình thành những kinh nghiệm giao tiếp ứng xử có văn hóa, giúp cho việc
hình thành và phát triển nhân cách ở các em.
Vai trò quan trọng nhất của HĐGDNGLL là góp phần phát triển tâm lực,
yếu tố nội lực tạo ra động cơ của sự phát triển nhân cách, khai thác nguồn tài
nguyên con người. Đó là mục tiêu của cuộc cách mạng giáo dục của nhân loại
cũng như của dân tộc ta đang tiến hành.
Như vậy với vị trí và vai trò quan trọng của mình, HĐGDNGLL thực sự là

một bộ phận cấu thành trong hệ thống các HĐGD ở trường THPT hiện nay. Thực
hiện các HĐGDNGLL tích cực và hiệu quả sẽ góp phần vào việc gắn liền nhà
trường với cuộc sống xã hội, thiết thực phục vụ sát những mục tiêu kinh tế - xã
hội và quốc phòng giai đoạn CNH-HĐH đất nước.
1.3.2. Nội dung của chương trình HĐGDNGLL ở trường THPT
Nội dung chương trình HĐGDNGLL được xây dựng trên cơ sở của yêu
cầu về nội dung giáo dục THPT theo điều 28 Luật giáo dục 2005: “Giáo dục
THPT phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở THCS, hoàn thành nội
dung giáo dục phổ thông; ngoài nội dung chủ yếu nhằm bảo đảm chuẩn kiến
thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh còn có nội
dung naag cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng
của học sinh”[17, trang 22].

23


Theo tài liệu phân phối chương trình THPT năm học 2009 - 2010 về
HĐGDNGLL của Bộ GD&ĐT hướng dẫn, HĐGDNGLL được thực hiện theo
quĩ thời gian là 2 tiết/tháng, nội dung HĐGDNGLL gồm 6 vấn đề chủ yếu sau:
* Lý tưởng sống của thanh niên trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước.
* Tình bạn, tình yêu và gia đình.
* Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc
* Truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng; bảo vệ di sản văn hóa.
* Thanh niên với vấn đề lập thân, lập nghiệp.
* Những vấn đề có tính toàn cầu như: bảo vệ môi trường; hạn chế sự bùng
nổ dân số; chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên; thực hiện Công ước Liên
hợp quốc về quyền trẻ em.
Những vấn đề trên được được cụ thể hóa thành 10 chủ đề hoạt động trong
12 tháng đó là:
- Tháng 9: Thanh niên học tập, rèn luyện vì sự nghiệp CNH-HĐH đất

nước.
- Tháng 10: Thanh niên với tình bạn, tình yêu và gia đình.
- Tháng 11: Thanh niên với truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo.
- Tháng 12: Thanh niên với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Tháng 1 Thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Tháng 2: Thanh niên với lý tưởng cách mạng.
- Tháng 3: Thanh niên với vấn đề lập nghiệp.
- Tháng 4: Thanh niên với hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
- Tháng 5: Thanh niên với Bác Hồ.
- Tháng 6,7,8: Mùa hè tình nguyện vì cuốc sống cộng đồng.

24


Căn cứ vào mục tiêu, nội dung chương trình của Bộ GD&ĐT, tình hình
thực tế cụ thể của mỗi trường, tài liệu tham khảo, có thể chia HĐGDNGLL theo
các nội dung chính sau:
+ Hoạt động chính trị, xã hội: HĐGDNGLL mang tính định hướng xã
hội cao nên các nội dung giáo dục trong hoạt động chứa đựng ý nghĩa xã hội rất
lớn. Đó là những hoạt động có liên quan đến những dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn
của dân tộc; các hoạt động nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động từ thiện;
các hoạt động tuyên truyền cổ động về nội qui nhà trường, những qui định về
pháp luật (như luật an toàn giao thông, trật tự công cộng...), những chính sách
của nhà nước (như dân số, bảo vệ môi trường, phòng chống các TNXH...); các
hoạt động trao đổi, thảo luận hoặc thi tìm hiểu về các sự kiện xã hội, kinh tế,
chính trị... trong và ngoài nước.
Thông qua các hoạt động trên không những giáo dục tư tưởng chính trị
cho học sinh mà còn hình thành cho các em nhiều phẩm chất khác như: Tình
đoàn kết, gắn bó yêu thương con người, tinh thần dân tộc, tự hào về Đảng, Bác
Hồ, về quê hương đất nước...

+ Hoạt động văn hóa nghệ thuật: là những hoạt động như thơ ca, múa
hát, kịch ngắn, kể chuyện, các cuộc thi khéo tay, hoặc trưng bày các bài văn hay,
các cách giải toán độc đáo, xem phim, xem biểu diễn nghệ thuật, du lịch, dã
ngoại... là những hoạt động giúp học sinh sảng khoái về tinh thần, bớt đi những
căng thẳng vốn có trong quá trình học tập của các em. Hoạt động văn hóa nghệ
thuật giáo dục học sinh biết cảm xúc với nghệ thuật, với cái hay, cái đẹp của con
người, của cuộc sống, của tự nhiên, tạo nên ở các em những tính cảm thẩm mỹ;
giúp học sinh có những hiểu biết, những tình cảm chân thành đối với con người,
với tổ quốc, với thiên nhiên và với chính mình.

25


×