Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Một số biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần xây dựng CTGT 118.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.44 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện bước chuyển đổi cơ chế kinh
tế. Việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gặp không ít khó khăn vì cơ sở hạ tầng lạc hậu kỹ thuật,
không đáp ứng được yêu cầu mục tiêu đề ra. Vì vậy, phải có một sự đổi mới
toàn diện về giao thông, kiến trúc đô thị... Ngành xây dựng cơ bản là một
ngành sản xuất vật chất kỹ thuật hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế, đóng vai
trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cho đến nay, ngành này đã khắc phục được tình trạng xuống cấp của
hệ thống giao thông trọng yếu, xây dựng các cầu cống, sân bay các tuyến
đường giao thông mới đáp ứng nhu cầu vận tải lưu thông giữa các vùng , các
quốc gia.
Chính vì tầm quan trọng của ngành xây dựng cơ bản trong phát triển
kinh tế, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm chú trọng phát triển loại hình
sản xuất kinh doanh này. Vấn đề đặt ra là phải làm sao quản lý một cách có
hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí trong kinh doanh xây lắp.
Cũng như các doanh nghiệp khác chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm là thước đo trình độ công nghệ sản xuất và trình độ tổ chức quản lý của
doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. Thông qua những thông tin về chi phí sản
xuất với giá thành sản phẩm do kế toán cung cấp nhà quản lý doanh nghiệp
sẽ nắm được chi phí của từng hoạt động cụ thể,giá thành của từng sản phẩm
để đánh giá tình hình thực hiện định mức, kế hoạch của doanh nghiệp mình.
Từ đó, doanh nghiệp tìm cách cải tiến đổi mới công nghệ sản xuất,đổi mới
phương pháp quản lý nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của quản lý chi phí và hạ
giá thành sản phẩm. Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần xây dựng
CTGT 118, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp tăng cường
quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần xây dựng
CTGT 118 ”.
Được sự hướng dẫn của Thầy Giáo kết hợp với sự giúp đỡ của Ban
lãnh đạo và Phòng tài chính kế toán của Công ty, em đã hoàn thành báo cáo


này. Báo cáo này gồm 3 chương chính:
Chương1: Lý luận chung về chi phí và tính giá thành sản phẩm ở các
doanh nghiệp xây lắp .
Chương2: Thực trạng công tác quản lý chi phí Và tính giá thành sản
phẩm của Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118

Chương3: Một số biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118.
1 1
Chương I.
Lý luận chung về chi phí và
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
I. CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1. Khái niệm và đối tượng tính chi phí sản xuất
1.1 Khái niệm chi phí sản xuất
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải huy động, sử dụng các
nguồn tài lực, vật lực (sức lao động, vật tư, tiền vốn...) để phục vụ cho việc
sản xuất, chế tạo sản phẩm hàng hoá, thực hiện các công việc lao vụ, thu
mua dự trữ hàng hoá, luân chuyển lưu thông sản phẩm, thực hiện các hoạt
động đầu tư,... kể cả chi cho công tác quản lý chung của doanh nghiệp. Điều
này có nghĩa là doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản hao phí về lao động sống
và lao động vật hoá cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Các chi phí mà doanh nghiệp chi ra cấu thành nên giá trị của sản phẩm. Giá
trị của hàng hoá bao gồm 3 bộ phận sau:
C + V + m
Trong đó:
C: Hao phí lao động vật hoá tức là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã
tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm như khấu hao TSCĐ, chi phí NVL,
công cụ dụng cụ...
V: Hao phí lao động sống tức là chi phí về tiền lương, tiền công phải

trả cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm.
m: Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động
tạo ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
Như vậy, chi phí sản xuất bao gồm hai bộ phận C + V, đây là chi phí
mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm. Những chi phí cho hoạt
động sản xuất kinh doanh này đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Có thể nói chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp
đã chi ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này
phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình thi công công
trình và hạng mục công trình.
1.2 Đối tượng tính chi phí sản xuất
Đối tượng tính chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để tập hợp các
chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Thực chất của việc xác định và tập hợp
chi phí sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí, nơi chịu chi phí.
Để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất hợp lý, phù hợp với
từng doanh nghiệp, các nhà quản trị thường căn cứ vào:
- Tính chất sản xuất, loại hình sản xuất và đặc điểm quy trình công
nghệ.
2 2
- Yêu cầu tính giá thành, yêu cầu quản lý, khả năng trình độ quản lý,
trình độ hạch toán của doanh nghiệp.
2. Vai trò của chi phí sản xuất và sự cần thiết phải quản lý chi phí
sản xuất trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do sản
xuất, tự do kinh doanh các mặt hàng phù hợp với các điều kiện của doanh
nghiệp. Từ đó đã nảy sinh việc nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất ra một loại
sản phẩm cung ứng cho thị trường. Trong điều kiện “trăm người mua, vạn
người bán”, doanh nghiệp phải có những biện pháp để chiếm lĩnh thị trường.
Với doanh nghiệp xây lắp, việc giảm chi phí ở từng công trình, hạng mục

công trình ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thi công cũng như lợi nhuận thu
được. Việc làm sao để giảm tối đa chi phí xây dựng mà không ảnh hưởng
đến chất lượng của công trình là việc làm tối quan trọng trong công tác quản
lý chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp xây lắp.
3. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Các chi phí phát sinh và cách thức mà chúng được xếp vào loại luôn
gắn với loại hình tính chất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự phân loại chi
phí có ý nghĩa hết sức to lớn và thiết yếu trong công tác quản lý hoạt động
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Việc phân loại chi phí vừa mang tính
khách quan vừa mang tính chủ quan. Khách quan vì nó phụ thuộc vào bản
chất của chi phí, còn chủ quan là xuất phát từ nhu cầu và mục đích quản lý
của doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, có nội dung,
tính chất kinh tế khác nhau, có mục đích và công dụng khác nhau. Sự thành
công của doanh nghiệp không chỉ được đánh giá trên lợi nhuận mà còn được
xem xét trên mức tiết kiệm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp đó. Đấy
mới chính là kết quả thực sự ẩn chứa sau bề mặt thành công về lợi nhuận mà
doanh nghiệp đạt được. Để làm được điều này, các nhà quản lý phải biết
kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện định mức chi phí ở từng bộ phận sản xuất và
toàn bộ doanh nghiệp trong từng thời gian nhất định. Do đó phải tiến hành
phân loại chi phí.
3.1 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của
chi phí
Theo cách phân loại này những chi phí có cùng nội dung kinh tế,
tính chất sẽ được xếp vào cùng một yếu tố chi phí không phân biệt chi phí đó
phát sinh ở lĩnh vực nào. Cách phân loại này còn gọi là phân loại chi phí sản
xuất theo yếu tố. Toàn bộ chi phí sản xuất được chia làm các yếu tố sau:
+ Chi phí NVL: Bao gồm toàn bộ chi phí về các loại vật liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản
mà doanh nghiệp đã sử dụng cho hoạt động sản xuất trong kỳ.

3 3
+ Chi phí nhân công: Là toàn bộ số lượng, tiền công phải trả, tiền trích
BHYT, BHXH, KPCĐ của nhân viên hoạt động sản xuất trong doanh
nghiệp.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: Là toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ
trong doanh nghiệp như các loại máy thi công, nhà xưởng, ô tô...
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền, doanh nghiệp
đã chi trả về các dịch vụ đã mua từ bên ngoài như tiền điện, tiền nước, điện
thoại, ... phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
+ Chi phí khác bằng tiền: Bao gồm toàn bộ chi phí khác phát sinh
trong quá trình sản xuất ngoài 4 yếu tố chi phí trên.
Phân loại theo nội dung, tính chất của chi phí giúp nhà quản lý biết
được kết cấu, tỷ trọng các chi phí chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh
đó. Qua đó doanh nghiệp đánh giá được tình hình dự toán chi phí thi công,
nó là cơ sở để lập báo cáo chi phí theo yếu tố trên bảng “thuyết minh báo cáo
tài chính”, xây dựng định mức vốn lưu động, lập kế hoạch mua sắm vật tư, tổ
chức lao động tiền lương thuê máy thi công.
3.2 Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi
phí
Theo cách phân loại này những chi phí có cùng mục đích, công dụng
đối với hoạt động sản xuất sẽ được xếp vào cùng một khoản mục chi phí,
không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Vì vậy, cách
phân loại này còn gọi là phân loại chi phí theo khoản mục. Chi phí sản xuất
được chia thành các khoản mục chi phí sau:
+ Chi phí NVL trực tiếp: Bao gồm chi phí về vật liệu chính vật liệu
phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp cho thi công công trình, hạng mục công
trình mà đơn vị xây lắp đã bỏ ra.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp
tiền lương và tiền công của công nhân trực tiếp sản xuất và hoàn thành sản
phẩm xây lắp.

+ Chi phí sử dụng máy thi công: Bao gồm các khoản chi phí liên quan
đến việc sử dụng máy thi công để thực hiện công tác xây lắp bằng máy thi
công hỗn hợp như: chi phí nhân công, chi phí NVL và các chi phí bằng tiền
khác.
+ Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí phục vụ cho nhân
viên quản lý tổ, đội, tiền lương của đội trưởng, của nhân viên giám sát, các
khoản BHXH, BHYT, CPCĐ tính theo tỷ lệ quy định trên tiền lương của
nhân công trực tiếp sản xuất, nhân viên quản lý đội, chi phí dịch vụ mua
ngoài và chi phí khác bằng tiền.
Cách phân loại chi phí theo khoản mục là cơ sở để xác định giá
thành công xưởng, giá thành toàn bộ, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch
giá thành cũng như là căn cứ để kiểm soát, quản lý chi phí. Đây là cách phân
4 4
loại thường dùng trong XDCB, phù hợp với phương pháp lập dự toán giá
thành sản phẩm.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là toàn bộ chi phí cho bộ máy quản
lý và điều hành doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của toàn doanh nghiệp.
3.3 Phân theo cách thức kết chuyển chi phí
Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được
chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
+ Chi phí sản phẩm: Là những chi phí gắn liền với quá trình sản xuất
sản phẩm hay quá trình mua hàng hoá để bán.
+ Chi phí thời kỳ: Là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào
đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm sản xuất ra hoặc mua nên
được xem là các phí tổn, cần được khấu hao ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà
chúng phát sinh.
3.4 Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản
phẩm hoàn thành
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời

làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh
doanh lại được phân theo quan hệ khối lượng công việc hoàn thành. Theo
cách này, được chia thành hai loại:
- Chi phí cố định: là những chi phí không đổi về tổng số so với khối
lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi
phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh ....
- Chi phí biến đổi: Là những chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ, so với
khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí nguyên vật liệu, nhân
công trực tiếp...
4. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp
4.1 Phương pháp trực tiếp:
Áp dụng phương pháp này với những chi phí có liên quan trực tiếp
đến đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phát sinh để tập hợp trực tiếp cho
từng đối tượng.
4.2 Phương pháp phân bổ gián tiếp
Áp dụng khi một chi phí sản xuất liên quan đến nhiều đối tượng kế
toán tập hợp chi phí sản xuất, không thể tập hợp trực tiếp. Chi phí sản xuất
phân bổ cho từng đối tượng được xác định theo công thức sau:
C
i
= x T
i
Trong đó:
C
i
: Chi phí sản xuất phân bổ cho đối tượng i
Σ C: Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp dùng để phân bổ
Σ T
i
: Tổng đại lượng tiêu chuẩn dùng để phân bổ

5 5
T
i
: Đại lượng tiêu chuẩn dùng để phân bổ của đối tượng i
II. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1. Khái niệm và đối tượng tính giá thành sản phẩm
1.1 Khái niệm giá thành sản phẩm
Trong sản xuất kinh doanh, chi phí mới chỉ là mặt thứ nhất thể hiện
sự hao phí . Còn để đánh giá chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi
phí chi ra phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai
cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất, đó là kết quả thu được biểu hiện
dưới hình thái tiền tệ, quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu “giá
thành sản phẩm”.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của
doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất
định.
Giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp biểu hiện chi phí cá biệt
của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Cùng một loại sản phẩm
có thể có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất nhưng do trình độ quản lý khác
nhau, giá thành sản phẩm đó sẽ khác nhau.
1.2 Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp xây lắp
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ do
doanh nghiệp sản xuất ra và cần phải tính tổng giá thành và giá thành đơn
vị.
Xuất phát từ đặc điểm của XDCB là sản phẩm mang tính đơn chiếc,
mỗi sản phẩm có giá dự toán riêng và yêu cầu quản lý chi phí theo dự toán
nên đối tượng tính giá thành trong XDCB là các công trình, hạng mục công
trình đã hoàn thành bàn giao.
1.3 Kỳ tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến

hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Xác định kỳ
tính giá thành hợp lý sẽ giúp cho việc tổ chức công tác tính giá thành sản
phẩm khoa học, đảm bảo cung cấp số liệu về giá thành thực tế của sản phẩm,
lao vụ kịp thời, phát huy đầy đủ chức năng giám sát tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành của doanh nghiệp.
Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất
sản phẩm, kỳ tính giá thành trong doanh nghiệp xây dựng cơ bản thường là:
- Đối với những công trình, hạng mục công trình được coi là hoàn
thành khi kết thúc mọi công việc trong thiết kế thì kỳ tính giá thành công
trình, hạng mục công trình đó là khi hoàn thành công trình, hạng mục công
trình.
- Đối với những công trình lớn, thời gian thi công dài, kỳ tính giá
thành là khi hoàn thành một bộ phận công trình có giá trị sử dụng được
nghiệm thu hoặc từng công việc xây lắp đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý
6 6
theo thiết kế kỹ thuật có ghi trong hợp đồng thi công hoặc được bàn giao
thanh toán.
Ngoài ra đối với những công trình lớn, thời gian thi công dài, kết
cấu phức tạp,... thì kỳ tính giá của doanh nghiệp có thể là hằng quý, sáu
tháng hay một năm.
2. Vai trò của việc tính giá thành sản phẩm
Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu giá thành
sản phẩm giữ vai trò quan trọng.
- Giá thành là thước đo mức hao phí từ hoạt động và tiêu thụ sản
phẩm, là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh. Để quyết định
lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải nắm
được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và mức hao phí sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy, mới xác định được hiệu quả sản xuất loại
sản phẩm đó để quyết định lựa chọn và quyết định khối lượng sản xuất sao
cho đạt hiệu quả tối đa.

- Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm tra
soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện
pháp tổ chức kỹ thuật, qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh
nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản xuất tác động
vào hiệu quả thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật để sản xuất, phát hiện
và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lý để có biện
pháp loại trừ.
3. Phân loại giá thành sản phẩm
3.1 Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành:
chia làm 3 loại:
- Giá thành kế hoạch: được xác định trên cơ sở chi phí, sản xuất kế
hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành do bộ phận kế hoạch của
doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh
nghiệp, là căn cứ để so sánh phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch
hạ giá thành sản phẩm.
- Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch giá thành định
mức cũng như được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy
nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở định mức bình
quân tiên tiến, và không biến đổi suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức
được xác định trên cơ sở định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm
nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là đầu tháng) nên giá thành định mức
luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được
trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu
chi phí số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ
cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế
7 7
là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp
trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế kỹ thuật tổ chức và công

nghệ... để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2 Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí
- Giá thành sản xuất sản phẩm: bao gồm các chi phí sản xuất, chế tạo
sản phẩm tính cho sản phẩm, công việc lao vụ đã hoàn thành. Chi phí sản
xuất gồm chi phí vật tư trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng
máy và chi phí sản xuất chung.
- Giá thành tiêu thụ: Bao gồm giá thành sản xuất, chi phí quản lý
doanh nghiệp, chi phí bán hàng tính cho sản phẩm tiêu thụ. Vì vậy, chi phí
tiêu thụ là chi phí phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến
việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công
thức:
= + +
4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
* Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp là phương pháp sử
dụng số liệu về chi phí sản xuất để tính tổng giá thành và giá thành thực tế
đơn vị, thực tế sản phẩm kế hoạch lao vụ đã hoàn thành theo những yếu tố
hoặc những khoản mục giá thành trong kỳ giá thành đã được xác định.
4.1 Phương pháp trực tiếp (giản đơn)
Theo phương pháp này, tập hợp tất cả chi phí sản xuất phát sinh trực
tiếp cho một công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn
thành chính là giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình đó. Trên
cơ sở số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ và chi phí của sản phẩm dở
dang đã xác định, giá thành sản phẩm tính cho từng khoản mục chi phí theo
công thức:
Z = D
đk
+ C - D
ck
Trong đó:

Z : Giá thành sản phẩm
D
đk
, D
ck
: Chi phí thực tế dở dang đầu kỳ và cuối kỳ
C: Chi phí thực tế phát sinh trong kỳ
4.2 Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng
Phương pháp này áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp nhận thầu
xây lắp theo đơn đặt hàng. Chi phí thực tế phát sinh được tập hợp trong kỳ
theo từng đơn đặt hàng, đó chính là toàn bộ chi phí được tập hợp khi khởi
công khi hoàn thành đơn đặt hàng.
4.3 Phương pháp tổng cộng chi phí:
Phương pháp này áp dụng thích hợp cho trường hợp doanh nghiệp
tập hợp chi phí theo đơn vị thi công hay khu vực thi công. Đối tượng tính giá
thành là sản phẩm cuối cùng. Cách tính như sau:
8 8
= + + +...+ -
4.4 Tính giá thành theo phương pháp hệ số:
Phương pháp hệ số được áp dụng trong những doanh nghiệp mà
trong cùng một quá trình sản xuất, cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một
lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi
phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung
cho cả quá trình sản xuất sản phẩm. Để tính được giá thành sản phẩm, ta còn
phải căn cứ vào hệ số giá thành quy định cho từng sản phẩm. Tiến hành theo
các bước sau:
- Quy đổi sản lượng thực tế từng loại sản phẩm theo hệ số để làm tiêu
thức phân bổ.
Σ sản lượng quy đổi =


=
n
i 1
SP
i
x Hệ số sản phẩm i
- Tính hệ số phân bổ chi phí của từng loại sản phẩm
=
- Tính tổng giá thành và giá thành đơn vị từng loại sản phẩm theo
khoản mục:
= ( +- ) x
4.5 Tính giá thành theo phương pháp tỷ lệ:
Trong các doanh nghiệp sản xuất, nhiều loại sản phẩm có quy cách,
để phẩm chất khác nhau khi đó chúng ta sẽ tính giá thành theo phương pháp
tỷ lệ.
= x
= x 100%
4.6 Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm tiêu thụ:
Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên
cạnh các sản phẩm chính thu được còn phải thu được các sản phẩm phụ (các
doanh nghiệp chế biến đường, rượu, bia, mì ăn liền... ) để tính giá trị sản
phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí
sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo phương
pháp như giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch...
= +- -
4.7 Phương pháp liên hợp:
Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản
xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc
tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh
nghiệp hoá chất... Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực

tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ...
5. Phương hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm
9 9
5.1 Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm
+ Các nhân tố về thị trường : Thi trường ở đây bao gồm các yếu tố đầu
vào như thị thường lao động , thị trường nguyên vật liệu , thị trường máy thi
công , thị trường vốn, thi trường đầu ra...
Đối với thị trường đầu vào ảnh hưởng tới doanh nghiệp xét trên khả năng
cung cấp và giá cả cuủa các yếu tố . Doanh nghiệp phải xem xét và lựa chọn
nhà cung cấp , phương thức thanh toán dể chi phí bỏ ra cho các yếu tố đầu
vào là thấp .
+ Các nhân tố khác như điều kiện tự nhiên, chính sách chế độ nhà
nước .
+ Nhân tố khoa học kỹ thuật và công nghệ: Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường việc đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ
trong doanh nghiệp được đặt ra là một vấn đề cấp bách bởi vì đổi mới sẽ tạo
ra năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá cả hạ và từ đó doanh nghiệp
có thể cạnh tranh được trên thị trường. Những doanh nghiệp có trình độ
trang thiết bị kỹ thuật hiện đại sẽ tiết kiệm được nguyên nhiên vật liệu, năng
lượng, giảm chi phí tiền lương từ đó hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh.
Việc đổi mới máy móc thiết bị, quy trình công nghệ trong sản xuất kinh
doanh trở thành vấn đề quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp là nhân tố để hạ
thấp chi phí. Vì vậy bắt buộc người quản lý, người xây dựng phải đặc biệt
chú ý tới nhân tố này.
+ Nhân tố tổ chức lao động và sử dụng lao động: Việc tổ chức lao
động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại
trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy có tác động lớn trong
việc nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Điều quan trọng
là nhà quản trị phải biết sử dụng yếu tố con người, biết động viên, bồi dưỡng

kiến thức, khơi dậy tài năng cho doanh nghiệp. Từ đó, tạo ra một khả năng to
lớn để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm của doanh
nghiệp
+ Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất và tài chính: Tổ chức quản lý sản
xuất đạt trình độ cao có thể giúp cho doanh nghiệp xác định mức sản xuất tối
ưu và phương pháp sản xuất tối ưu làm giá thành sản phẩm hạ. Nhờ vào việc
bố trí hợp lý, đáp ứng đầy đủ nhu cầu mua sắm vật tư sẽ tránh được tổn thất
cho sản xuất như việc ngừng sản xuất do thiếu NVL nhưng cũng cần hạn chế
được sự lãng phí của nguyên vật liệu.
5.2 Một số biện pháp hạ giá thành sản phẩm
+ Lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Là việc
xác định toàn bộ mọi khoản chi phí chi ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
của kỳ kế hoạch. Thông qua việc lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh,
10 10
doanh nghiệp có thể kiểm tra tình hình sử dụng chi phí, phát hiện khả năng
tiết kiệm chi phí để thúc đẩy quá trình lập kế hoạch chi phí sản xuất đòi hỏi
người quản lý, phải có dự tính tương đối chính xác các chi phí sản xuất để
xác định chỉ tiêu kế hoạch đồng thời theo dõi động viên các bộ phận trong
doanh nghiệp thực hiện.
+ Doanh nghiệp phải chú trọng tới trang thiết bị máy móc công nghệ.
Việc chú trọng tới trang thiết bị dây chuyền sản xuất đổi mới máy móc thiết
bị, cải tiến quy trình công nghệ để không bị đẩy lùi, tụt hậu do sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, đổi mới máy móc thiết bị đi đôi với việc tiết kiệm NVL,
tiết kiệm điện năng, giảm nhẹ biên chế, nâng cao năng suất lao động. Đổi
mới máy móc thiết bị là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp tuy nhiên phải
xem xét hiệu quả của sự đầu tư mang lại, phải nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt
tiến bộ khoa học kỹ thuật, công suất của máy móc hoạt động, tuổi thọ của
máy, lựa chọn đối tác đầu tư trước khi tiến hành mua.
+ Quản lý tốt lao động và sử dụng lao động có hiệu quả để giảm chi
phí tiền lương và tiền lương nhằm hạ giá thành sản phẩm. Muốn giảm chi phí

tiền lương và tiền công cần phải tăng nhanh năng suất lao động, đào tạo bồi
dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật và tay nghề, hoàn thiện định mức lao động,
tăng cường kỷ luật lao động, áp dụng hình thức tiền lương, tiền thưởng, trách
nhiệm vật chất để người lao động gắn bó và có trách nhiệm với công việc, từ
đó góp phần nâng cao năng suất lao động.
+ Tổ chức quản lý, bố trí các khâu sản xuất hợp lý làm tốt biện pháp
này sẽ góp phần hạn chế được lãng phí nhiên liệu, giảm thấp phế liệu liệu thu
hồi. Từ đó sẽ tiết kiệm được các chi phí gián tiếp, tổ chức quản lý sản xuất
phải được chú trọng từ trên xuống dưới, mỗi đồng chi phí bỏ ra được người
quản lý sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Tăng cường phát huy vai trò của tài chính trong việc quản lý chi phí
sản xuất. Thực hiện biện pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng cường
công tác kiểm tra tài chính đối với từng khoản chi phí: chi phí nguyên vật
liệu, chi phí nhân công, chi phí máy, chi phí sản xuất chung...
Trên đây là một số biện pháp nhằm quản lý tốt chi phí sản xuất kinh
doanh hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên trong thực tế do đặc điểm khác
nhau giữa các doanh nghiệp nên mỗi doanh nghiệp cần phải dựa trên những
biện pháp chung để đưa ra những biện pháp và phương hướng cụ thể phù
hợp với doanh nghiệp mình để quản lý chi phí sản xuất một cách có hiệu quả
nhất.
III.PHÂN BIỆT GIỮA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM. MỐI
QUAN HỆ GIỮA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1> Phân biệt giữa chi phí sản xuất và giá thành sản xuất.
Chi phí sản xuất là tổng hợp những khoản hao phí lao động sống và
lao động vật hoá biểu hiện bằng tiền trong một kỳ nhất định.Còn giá thành
11 11
sản phẩm lại là tổng hợp các hao phí có gắn liền với sản xuất sản phẩm
hoàn thành trong kỳ.
Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm tất cả những chi phí phát sinh
trong kỳ này không bao gồm chi phí trả trước phân bổ cho kỳ này và

những khoản chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trướcđược phân bỏ
trong kỳ này.
Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến chi phí sản xuất
sản phẩm đã hoàn hành trong kỳ mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở
dang cuối kỳ, sản phẩm hỏng. Còn gía thành sản phẩm không liên quan
đến chi phí sản xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng
lại liên quan đến sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Chi phí sản xuất không gắn liền với khối lượng, chủng loại sản phẩm
hoàn thành trong kỳ đó. Còn giá thành sản phẩm lại liên quan đến khối
lượng, chủng loại sản phẩm hoàn thành dẫn đến đối tượng tập hợp chi phí
khác đối tượng tính giá thành .
2. Mối quan hệ giữ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Trong quản trị doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý doanh nghiệp
quan tâm vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu phản
ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tính đúng, tính đủ chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm là tiền đề để tiến hành hạch toán và xác
định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xét về bản
chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm giống nhau,
chúng đều là các hao phí về lao động và các chỉ tiêu khác của doanh nghiệp.
Tuy vậy, giữa chi phí sản xuất và sản phẩm cũng có sự khác nhau trên các
phương diện.
- Nói đến chi phí sản xuất là xét các hao phí trong một thời kỳ, còn
nói đến giá thành sản phẩm là xem xét, đề cập đến các mối quan hệ của
chi phí đến quá trình công nghệ sản xuất chế tạo sản phẩm. Do đó hai mặt
của quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
12 12
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG CTGT

118
I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG CÔNG
TRÌNH GIAO THÔNG 118.
1.Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118 được thành lập theo quyết định
số 528/2001/QĐ/BGTVT ngày 28 tháng 2 năm 2002 của bộ trưởng bộ
GTVT . Trụ sở chính của công ty đặt tại thị trấn Cầu Diễn huyện Từ Liêm
Hà Nội . Là một đơn vị kinh tế trực thuộc Tổng công ty XDCTGT-BGTVT,
công ty thực hiện chế độ kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp
nhân và mở tài khoản tại các ngân hàng trong cả nước.
Tiền thân của công ty cổ phần xây dựng CTGT118 là công ty118 được
thành lập vào tháng 10 năm 1982, lúc đầu có nhiệm vụ tiếp nhận một phần
máy móc thiết bị do Liên Xô viện trợ để thi công các công trình giao thông
đường sắt, đường bộ thuộc khu đầu mối và vành đai Hà Nội . Sau này có
nhiệm vụ thi công các công trình giao thông và các công trình khác trong cả
nước.
Trải qua 20 năm hình thành phát triển , Công ty luôn luôn hoàn thành
trách nhiệm được giao và đạt được rất nhiều thành quả góp phần cải thiện và
phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Cụ thể công ty đã tham gia thi công
nhiều công trình như:
- Đường Bắc Thăng Long Nội Bài
- Quốc lộ 18
Ngoài ra hiện nay công ty đang đồng thời thi công nhiều công trình
khác lớn như :
- Mở rộng quốc lộ 1A
- Xây dựng đường HCM đoạn đường Hương Sơn- Hà Tĩnh
- Khu công nghiệp Dung Quất
..........
Và hàng loạt các công trình giao thông ở đìa phương trên cả nước.
Do nhiều thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty đã

được nhà nước trao tặng nhiều huân chương như:
- Huân chương lao động hạng 2
- Huân chương lao động hạng 3
- Nhiều bằng khen của Chính Phủ, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt
Nam của bộ Giao Thông Vận Tải
- Ba năm liền (1999,2000,2001) được tặng cờ thi đua đơn vị thi đua
sản xuất nhất của tổng công ty xây dựng Giao Thông Vận Tải.
13 13
Đóng góp vào thành của mà công ty đã đạt được trong những năm qua
phải kể đến đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty – những người trực
tiếp tạo lên sự thành công của công ty trong những năm qua.
Tính đến thời điểm 31-12-2003 Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118
đã có một đội ngũ lao động tương đối hùng hậu với tổng số cán bộ công
nhân viên là 347 người.
Có thể khẳng định rằng họ là những con người năng động có khả năng
kinh doanh và làm việc có hiệu quả.Điều này được thể hiện ở chỗ: nhận
thức được qui luật cạnh tranh gay gắt của thị trường, những người lãnh đạo,
quản lý Công Ty đã chủ động đổi mới mạnh mẽ và toàn diện ở các khâu như
con người, công nghệ thiết bị, mở rộng ngành kinh tế kinh doanh .... Và đã
tạo được những bước nhảy vọt khá khâm phục : sau 3 năm đổi mới, sản
lượng năm 2001 đã tăng lên 10 lần so với năm 1998(từ 8,9 tỷ đồng năm
1998 tăng lên81,5 tỷ đồng năm 2001). Đồng thời thu nhập bình quân của cán
bộ công nhân viên cũng được tăng lên. Tính đến nay thu nhập bình quân mỗi
người khoảng 1.000.000 đồng/tháng đến 1.300.000đồng/tháng (so với năm
1998 là 300000 đồng người/tháng).Để đạt được kết quả to lớn trong kinh
doanh, Công tyluôn phấn đấu không ngừng để đạt được kết quả to lớn hơn.
Đó là phương châm hoạt động của bất cứ một doanh nghiệp nào và công ty
cổ phần xây dựng CTGT 118 không phải là một ngoại lệ. Chính vì thế mà
hiện nay công ty đang đưa bộ tiêu chuẩn ISO 9001-2000vào công tác quản lý
chất lượng và phấn đấu đến cuối năm 2002 được cấp chứng chỉ quốc tế về bộ

tiêu chuẩn này.
2 Đặc điểm sản xuất, tổ chức và quản lý công ty cổ phần xây dựng công trình
giao thông118.
2.1 Đặc điểm sản xuất:
Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng các hoạt
động chủ yếu của công ty gồm:
- Xây dựng các công trình giao thông trong cả nước,bao gồm:cầu,
đường, sân bay, bến cảng, san lấp mặt đường.
- Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, thuỷ lợi và đường
điện 35 KV.
- Khai thác khoáng sản và kinh doanh vật liệu xây dựng, cấu kiện
thép, cấu kiện bê tông đúc sẵn, bê tông nhựa.
- Sửa chữa xe máy, thiết bị thi công, gia công cơ khí.
- Tư vấn thiết kế, thí nghiệm vật liệu, đầu tư giám sát công trình do
công ty thi công.
- Kinh doanh bất động sản
- Buôn bán tư liệu sản xuất tư liệu tiêu dùng
- Vận tải hành khách và hàng hoá
- Kinh doanh dịch vụ khách sạn, du lịch, vui chơi giải trí
Với đặc thù riêng có của ngành XDCB là tạo nên cơ sở hạ tầng cho
nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm của ngành xây dựng là những công
14 14
trình(nhà máy, cầu đường, công trình phúc lợi ....) có đủ điều kiện đưa vào
sản xuất hoặc ngay khi hoàn thành. Xuất phát từ những đặc điểm đó, quá
trình sản xuất của công ty mang tính liên tục, đa dạng và phức tạp, trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi công trình đều có dự toán, thiết kế riêng, địa
điểm thi công khác nhau.Vì vậy để tổ chức sản xuất kinh doanh công ty đã
lập ra các đội khác nhau và các đội cầu để các đội sản xuất này trực tiếp thực
hiện các giai đoạn trong quá trình công nghệ các giai đoạn để thi công công
trình của công ty được tiến hành theo sơ đồ sau:

Sơ đồ 1:
Khảo sát thi công
Thi công
Hoàn thiện
Nghiệm thu
Bàn giao

Giai đoạn khảo sát thi công: đây là giai đoạn quan trọng nhất trong
quá trình thi công một công trình nó quyết định trực tiếp đến quá trình tồn tại
của công trình. Ở giai đoạn này, ngay sau khi nhận làm giao tuyến, công ty
sẽ thành lập ngay đội khảo sát thiết kế, được trang bị đầy đủ các thiết bị,
dụng cụ khảo sát thiết kế cho dự án. Đội khảo sát sẽ tiến hành ngay công tác
đo đạc, kiểm tra hệ thống cọc mốc, cọc tim và các cọc dấu trên toàn
tuyến.Từ đó thiết kế và thi chọn phương án thi công hợp lý.
Giai đoạn thi công: đối với công ty cầu công ty áp dụng phương pháp
đóng cọc, đổ trụ làm dầm bê tông để thi công cầu có qui mô vừa và nhỏ.Còn
thi công đường có qui trình như sau: Đào đất hữu cơ, rải vải địa kỹ thuật và
đắp cắt điện, đắp nền đường, đắp sỏi đỏ thi công lớp cấp đá dăm; tưới nhựa
thám, thi công lớp bê tông nhựa và thi công lề đường...
Giai đoạn hoàn thiện: thực hiện các công tác hoàn thiện cần thiết nhằm
đảm bảo tính thẩm mỹ của công trình.
Giai đoạn nghiệm thu: tiến hành kiểm tra thực tế các khoản mục công
trình đúng như thiết kế được duyệt thì tiến hành nghiệm thu.
15 15
Giai đoạn bàn giao: khi công trình đã nghiệm thu xong thì tiến hành bàn giao
đưa vào sử dụng.
2.2 Đặc điểm tổ chức và quản lý ở công ty cổ phần xây dựng công trình giao
thông 118.
Khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần xây
dựng công trình giao thông 118đã tổ chức lại bộ máy quản lý trên cơ sở

tiết kiệm và hiệu quả. Có những phòng ban được sát nhập vào với nhau,
các phòng ban kiêm nhiều nhiệm vụ khác nhau .
a, Bộ máy quản lý.
Trong công ty cơ quan quyền lực cao nhất là đại hội đồng cổ
đông(ĐHĐCĐ).ĐHĐCĐ thường xuyên do hội đồng quản trị (HĐQT) triệu
tập họp mỗi năm một lần để thông qua báo cáo tài chính và thông qua định
hướng phát triển của công ty ĐHĐCĐ cũng có quyền quyết định chào bán cổ
phần và mức cổ phần tức hàng năm của mọi cổ phần.
Dưới ĐHĐCĐ là HĐQT cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền
nhân danh công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi
của công ty. HĐQT có 9 thành viên trong đó có chủ tịch HĐQT, phó chủ tịch
HĐQT và các thành viên khác. Ban kiểm soát gồm 3 người trong đó có 1
trưởng ban và 2 kiểm soát viên.
Giám đốc điều hành do HĐQT bổ nhiệm có nhiệm vụ trực tiếp quản lý
và điều hành hoạt động của công ty theo nghị quyết của HĐQT và phương
án kinh doanh của công ty, là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Giúp việc cho giám đốc điều hành có 3 phó giám đốc điều hành, kế
toán trưởng. Họ sẽ thông tin cho giám đốc điều hành về tình hình sản xuất
kinh doanh và tình hình tài chính, tham mưu cho giám đốc cho việc xây
dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh, ký kết các hợp đồng kinh tế.
b, Tổ chức công ty.
+ Phòng TC-KT. Tham mưu giúp việc cho giám đốc điều hành về
công tác quản lý tổ chức toàn công ty theo đúng chức năng giám đốc đồng
tiền. Thanh quyết toán với các đối tác bên trong và bên ngoài công ty.
+ Phòng kinh tế kỹ thuật: thực hiện giám sát, kiểm tra kỹ thuật công
trình, có nhiệm vụ lập các bản thiết kế tính toán công trình nhằm đảm bảo
tiến độ thi công và an toàn lao động.
+ Phòng quản lý thiết bị: cung ứng vật tư đúng số lượng, chất lượng,
chủng loại và kịp thời cho các đội thi công. Quản lý về tài sản, diệt giá trần
mua vật liệu(cát đá xi măng..) cho các bộ cung ứng.

+ Văn phòng được sáp nhập từ phòng tổ chức hành chính, phòng thị
trường và văn phòng cũ. Có nhiệm vụ tư vấn về nhân sự, tìm kiếm các hợp
16 16
đồng nhằm tạo công ăn việc làm cho toàn công ty ngoài ra còn có nhiệm vụ
soạn thảo văn bản...
- Về các đơn vị sản xuất: khi có công trình thì các đơn vị này có nhiệm
vụ thi công.
Sơ đồ: 2
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 118.
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Giám đốc điều hành
PGĐ điều hành
PGĐ điều hành
PGĐ điều hành
Các đơn vị sản xuất
Bộ máy quản lý
Xưởng sửa chữa
Các đội thi công độc lập
Các BĐH dự án
Các đội thi công dự án
Văn phòng
Phòng tài chính kế toán
Phòng kinh tế kỹ thuật
Phòng quản lý thiết bị
Phòng tổ chức hành chính
17 17
3. Tổ chức công tác kế toán ở công ty.
Phòng tài chính kế toán là một bộ phận quan trọng trong bộ máy quản

lý của công ty, là một bộ phận hỗ trợ đắc lực cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong những năm qua, phòng TC-KT đã có những đóng góp không
nhỏ đối với những thành quả mà công ty đã đạt được. Tổ chức kế toán được
áp dụng theo mô hình tập trung, tức là việc hạch toán được thực hiện ở
phòng kế hoạch của công ty, ở các đội thi công có các nhân viên kinh tế làm
nhiệm vụ thống kê, hạch toán ban đầu.
Sơ đồ: 3
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN
18
Kế toán trưởng
Phó phòng kế toán
Thủ quỹ
Kê toán
tiền gửi
ngân hàng
KT vật
liệu, tiền
lương tài
KT công
nợ kiêm
kế toán
18

×