Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Vai trò của cơ quan công tố trong xử lý tội phạm về ma túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.2 KB, 6 trang )

Vai trò của Cơ quan công tố trong xử lý tội phạm về ma túy

1. Quy định của luật pháp quốc tế
Vai trò của Công tố viên trong điều tra tội phạm về ma túy được thể hiện
rất rõ trong “Các hướng dẫn về vai trò của Công tố viên năm 1990”,
được thông qua tại Đại hội Liên hợp quốc lần thứ 8 về Phòng ngừa tội
phạm và cách xử lí tội phạm tại Havana, Cuba năm 1990. Các Công tố
viên thể hiện vai trò chủ động trong vụ án, gồm tiến hành truy tố và nếu
được ủy quyền bởi luật hay tuân theo thực tế nước sở tại trong việc điều
tra, giám sát việc thực hiện quyết định của Tòa án và thực hiện các chức
năng khác, là đại diện của lợi ích công chúng.
Hoạt động của Cơ quan công tố trong điều tra, truy tố tội phạm ma tuý
được thể hiện cuốn Drug Law prosescution and judicial reference hand
book (Sổ tay tham khảo về hoạt động tư pháp và truy tố tội phạm ma
tuý), của Cơ quan phòng, chống ma tuý và tội phạm Liên hợp quốc
(UNODC), năm 2003. Cuốn sổ tay là tài liệu nghiên cứu, tổng hợp và
cung cấp hoạt động của những trường hợp truy tố hoặc hoạt động tư
pháp của mỗi quốc gia thành viên đã tham gia 3 Công ước của Liên hợp
quốc về phòng, chống và kiểm soát ma tuý (năm 1961, 1971, 1988).
UNODC cung cấp những thông tin và kinh nghiệm thực tế cho mục đích
nghiên cứu nhằm tăng cường sự hiểu biết cơ bản của sự cộng tác đấu


tranh chống tội phạm về ma tuý trên toàn cầu. Mỗi quốc gia có Bộ luật
Tố tụng hình sự (BLTTHS) khác nhau, có thể theo những hệ thống pháp
luật khác nhau, vấn đề xử lí tội phạm ma tuý chủ yếu bằng luật nội địa,
song hoạt động xử lý tội phạm về ma tuý đều phải tuân theo các thủ
tục của điều tra, truy tố và xét xử để xử lý tội phạm về ma tuý có hiệu
quả. Cuốn sách đặc biệt chú ý đến luật pháp và sự hợp tác chống tội
phạm ma tuý của 6 nước tiểu vùng sông Mê Kông, trong đó có Việt
Nam. Giải quyết các vụ án ma tuý liên quan đến người nước ngoài, Cơ


quan Công tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện các tương
trợ tư pháp cũng như yêu cầu tương trợ tư pháp.
Điểm chung nhất của Cơ quan công tố theo pháp luật quốc tế và pháp
luật mỗi nước là thay mặt cho nhà nước truy tố đối với người phạm
tội về ma túy và là đầu mối tương trợ tư pháp trong giải quyết các vụ án
ma túy có yếu tố nước ngoài.
2. Cơ quan công tố các nước Châu Á
Viện kiểm sát nhân dân Trung Quốc
Trung quốc là một quốc gia có hệ thống pháp luật về phòng, chống ma
túy đầy đủ, toàn diện. Ngoài BLTTHS, Trung Quốc có Luật phòng,
chống ma túy năm 2007, Nghị định về kiểm soát ma túy năm 1987, Nghị
định về quản lý các tiền chất, hóa chất năm 2005…
Theo quy định của BLTTHS Trung Quốc, trong giai đoạn điều tra,
VKSND kiểm sát thực hiện các hoạt động cụ thể là: kiểm sát việc khởi
tố của Cơ quan điều tra, thẩm tra, phê chuẩn lệnh bắt giữ của Cơ quan
điều tra. VKSND phải quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc
bắt giam trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu phê chuẩn
việc bắt giam của Cơ quan điều tra. Nếu VKSND không phê chuẩn việc
bắt thì khi nhận được thông báo đó Cơ quan điều tra phải thả ngay và
thông báo cho VKSND biết. VKSND có chức năng: kiểm sát việc chấp
hành pháp luật của Cơ quan điều tra, đảm bảo việc điều tra được thực
hiện đúng pháp luật, khắc phục tình trạng bắt giữ trái phép, ép cung, bức
cung, truy tố người phạm tội ra trước Toà án để xét xử.
VKSND cũng có quyền quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn lệnh bắt, lệnh tạm giam. Đối với trường hợp VKSND ra quyết


định bắt tạm giam thì trong thời hạn 24 giờ sau khi bắt tạm giam Kiểm
sát viên phải tiến hành thẩm vấn người bị bắt tạm giam. Theo Điều 117
BLTTHS Trung Quốc thì VKSND có thể kiểm tra hoặc phong toả tài

khoản, đồ vật gửi giữ của nghi can theo qui định.
Ở giai đoạn điều tra Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc khởi tố của
cơ quan Công an; phê chuẩn lệnh bắt giữ của cơ quan Công an; kiểm sát
việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan điều tra,
yêu cầu cơ quan Công an cung cấp chứng cứ cần thiết… bảo đảm cho
hoạt động điều tra được thực hiện đúng pháp luật; khắc phục tình trạng
bắt giữ trái phép, ép cung, bức cung, hãm hại, báo thù, khám xét trái
phép, xâm phạm thân thể, quyền dân chủ của công dân.

(Ảnh minh họa)
Chỉ đạo điều tra, truy tố của cơ quan Công tố Nhật Bản
Viện công tố Nhật Bản trong giải quyết án hình sự cũng như án ma tuý
theo TTHS: có thẩm quyền tiến hành điều tra; là cơ quan duy nhất có
quyền đề nghị Thẩm phán ra lệnh tạm giam; khởi tố, truy tố, tranh
tụng tại Toà; giám sát công tác thi hành các bản. Theo BLTTHS, Luật về
Viện Công tố và Luật Cảnh sát thì những vụ án do Cơ quan Cảnh sát
điều tra chuyển đến, Công tố viên sẽ cân nhắc truy tố hay không truy tố


hoặc điều tra bổ sung. Công tố viên có quyền chỉ huy, chỉ đạo đối
với Điều tra viên(của Cảnh sát), yêu cầu xử lý kỷ luật Điều tra viên
trong trường hợp Điều tra viên không tuân theo chỉ đạo của Công tố viên
mà BLHS qui định. Điều 246 Bộ luật này qui định: khi Cảnh sát điều tra
tội phạm, cần phải chuyển các vụ án tới Viện Công tố, trừ vụ án ít
nghiêm trọng và các vụ án khác do Công tố viên chỉ định. Khi Cảnh
sát bắt người để tạm giam, phải trình vụ việc cho Công tố viên trong
vòng 48 giờ kể từ khi bị bắt. Nếu Công tố viên cho rằng việc giam giữ là
cần thiết thì trong vòng 24 giờ kể từ khi nhận bị can phải yêu cầu Thẩm
phán ra lệnh giam giữ bị can, nếu không phải thả ngay bị can. Nếu Công
tố viên bắt một bị can, thì phải tuân thủ các thủ tục tương tự trong vòng

48 giờ kể từ khi bắt.
Công tố viên có quyền độc lập xét hỏi bị can hoặc những người tham
gia tố tụng khác. Trường hợp một tội phạm nằm trong một số khu vực
quản lý của Cảnh sát thì Công tố viên có thể chỉ huy thông thường đối
với Cảnh sát trong khu vực quản lý để yêu cầu hợp tác, phối hợp điều
tra. Tổng Công tố trưởng, Viện trưởng Viện Công tố có thể yêu cầu Uỷ
ban An ninh Nhà nước hoặc Uỷ ban An ninh tỉnh, thành phố cảnh
cáo, cách chức đối với Điều tra viên khi Điều tra viên không tuân thủ chỉ
thị hoặc chỉ huy của Công tố viên mà không có lý do chính đáng (Điều
194).
Công tố viên có quyền: bắt giam bị can; khám xét và tịch biên, lưu
giữ hồ sơ; kiểm tra đối tượng; kiểm soát việc giao nhận, thu chặn các
thông tin liên lạc với tội phạm có tổ chức nghiêm trọng; hỏi đối tượng
tình nghi và nhân chứng; đề nghị các cá nhân cung cấp thông tin; đề
nghị tạm giam, thả đối tượng; lấy lời khai nhân chứng.
Cơ quan Công tố Thái Lan
Trong giai đoạn điều tra vụ án, Cảnh sát điều tra độc lập. Theo qui định
của tố tụng hình sự Thái Lan thì Công tố viên chỉ tham gia vào hoạt
động tố tụng sau khi Cảnh sát kết thúc việc điều tra và chuyển hồ sơ cho
cơ quan Công tố.
Luật về Các biện pháp trấn áp người phạm tội liên quan đến ma túy ở
Thái Lan (năm 1991) qui định về hoạt động của Công tố viên: “Sau khi
Công tố viên đã ra lệnh truy tố và tài sản bị thu giữ hoặc bị niêm phong
theo lệnh của Uỷ ban như qui định ở Điều 22 là tại sao tài sản có dính líu


tới hành vi phạm tội liên quan đến ma túy, Công tố viên sẽ làm đơn đề
nghị Tòa án ra lệnh tịch biên tài sản đó” (Điều 27). Công tố viên có
quyền gửi đơn đề nghị lên Tòa án đề nghị ra lệnh tịch thu đối với
mọi dụng cụ, thiết bị, phương tiện đối tượng phạm tội đã sử dụng để vận

chuyển máy móc hoặc tài sản khác được sử dụng trong hành vi phạm tội
liên quan đến ma túy, hoặc được sử dụng như các phương tiện bổ trợ cho
sự phạm tội hoặc bị chiếm hữu để sử dụng trong việc phạm tội, sẽ bị tịch
thu, bất kể người đó có bị Tòa án kết tội hay không (Điều 30). Công tố
viên xem xét hồ sơ vụ án ma túy của Cảnh sát chuyển đến một cách độc
lập, nếu thấy không có chứng cứ để truy tố bị can thì có thể Công tố viên
sẽ không đưa vụ việc ra Tòa. Công tố viên có quyền quyết định việc
không truy tố, nếu việc truy tố đó không phục vụ lợi ích công cộng.
Cơ quan công tố Vương quốc Campuchia
Luật về kiểm soát ma tuý của Campuchia năm 1994, tại Điều 67 qui
định việc kiểm tra, khám xét và thu giữ tại những nơi sản xuất, vận
chuyển, tàng trữ trái phép các loại ma tuý cần phải có sự cho phép
bằng văn bản của Công tố viên hoặc Thẩm phán điều tra khi vụ án có
liên quan đến Công tố viên và Thẩm phán điều tra đó.
Trong quá trình giải quyết vụ án ma tuý “Công tố viên hoặc Thẩm phán
điều tra có thể: Tổ chức kiểm soát các tài khoản ngân hàng hoặc tài
khoản khác được coi như tài khoản ngân hàng; Tổ chức kiểm soát và
nghe lén đường dây điện thoại; Kiểm tra hệ thống máy tính; Yêu cầu
cung cấp tất cả các giấy tờ cá nhân đáng tin cậy và các tài liệu ngân
hàng, thương mại, tài chính. Khi có đầy đủ bằng chứng chứng minh rằng
những tài khoản, đường dây điện thoại hoặc hệ thống máy tính được sử
dụng có thể được sử dụng bởi những người bị nghi là tội phạm.
Cơ quan Công tố Philippines
Bộ luật kiểm soát toàn diện các chất ma tuý nguy hiểm năm 2002 của
Philippines qui định cụ thể một số hoạt động của Cơ quan Công tố:
Tại Phần 65. Trách nhiệm của Công tố viên trong quá trình tiến hành tố
tụng qui định: “Công tố viên cấp tỉnh hoặc thành phố hoặc trợ lí của họ
hoặc Kiểm sát viên cấp nhà nước có trách nhiệm chuẩn bị Cáo trạng
trong quá trình xét xử”.



Phần 90, Chương XI thẩm quyền xét xử các vụ án ma tuý nguy hiểm,
Công tố viên có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu:
“Sẽ bổ nhiệm các Công tố viên đặc biệt chuyên thụ lí các vụ án liên
quan đến các hành vi vi phạm Luật này. Hoạt động điều tra ban đầu đối
với các vụ án bị khởi tố theo Luật này sẽ phải hoàn thành trong vòng 30
ngày kể từ khi khởi tố vụ án.” Khi đã có đủ chứng cứ buộc tội, Công tố
viên đệ trình lên Toà án trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm kết thúc điều
tra.
Cơ quan công nước Cộng hoà Indonexia
Ngoài qui định của BLTTHS, Luật phòng, chống ma tuý của nước Cộng
hoà Indonexia qui định về hoạt động của Văn phòng Chưởng lý như sau:
Khi tiến hành tiêu huỷ chất ma tuý, Cơ quan điều tra Cảnh sát Quốc gia
sẽ tiến hành với sự tham gia của các quan chức Văn phòng Trưởng lý
khu vực sẽ quyết định có sử dụng hiện vật bị thu giữ làm bằng chứng
chứng minh trong vụ án xét xử không hoặc cho tiêu huỷ trong vòng
không quá 7 ngày kể từ khi nhận được thông báo về việc thu giữ hiện
vật từ Điều tra viên.
Tổng Chưởng lý yêu cầu và thủ tục về thực thi thẩm quyền sử dụng hiện
vật (ma tuý) bị thu giữ làm bằng chứng chứng minh trong xét xử vụ án
hoặc hiện vật là ma tuý đem tiêu huỷ. Điều 63 và Điều 64 của Luật này
qui định việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm ma tuý trước Toà án sẽ
được tiến hành theo qui định của pháp luật hiện hành, trừ trường hợp
Luật này qui định khác. Các vụ án về ma tuý sẽ được ưu tiên đưa ra Toà
án để xét xử và giải quyết trong thời gian ngắn nhất.
Mỗi quốc gia Châu Á có quy định khác nhau trong xử lý tội phạm về ma
tuý, song nhìn chung các quốc gia đều coi đó là vấn đề trọng yếu của
phòng, chống tội phạm, phải tăng cường hợp tác đấu tranh kiên quyết
chống loại tội phạm này./.




×