Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÀI THU HOẠCH CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP GV THCS HẠNG II GV với CÔNG tác tư vấn TRONG TRƯỜNG THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.81 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN CHỦ ĐỀ
Xuất phát từ đặc trưng của nhà trường hiện đại, các chuyên gia giáo dục cho
rằng, việc phát triển năng lực nghề nghiệp cho giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp
tiếp cận chuẩn trong khu vực và quốc tế là hướng đi phù hợp xu thế, hướng tới
đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Là một giáo viên của nhà trường hiện đại, tôi thấy cần bồi dưỡng phương
pháp giảng dạy cho giáo viên bằng những việc làm thiết thực, cụ thể. Theo đó,
bồi dưỡng thực hành các phương pháp mới phát huy được năng lực học sinh.
Bồi dưỡng phương pháp giảng dạy tích hợp, phân hóa, phương pháp kiểm tra
đánh giá kết quả học tập với nhiều hình thức đa dạng, hạn chế việc cung cấp lý
thuyết, coi trọng thực hành. Bồi dưỡng phương pháp tiếp cận thông tin, khai
thác thông tin, xử lý thông tin, ứng dụng thông tin vào thực tế giảng dạy. Giáo
dục phát triển năng lực người học đòi hỏi người giáo viên phải hướng dẫn người
học cách học, đưa học sinh vào thế giới hiện thực thông qua các hoạt động học
tập. Vì vậy tôi đã đăng ký khóa bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp giáo viên
THCS hạng II tại Phòng Giáo dục & Đào tạo Phú Tân do trường ĐHAG tổ chức.
Gần đây, công tác tham vấn đã trở thành một loại hình hoạt động phổ biến
trong xã hội và từng bước khẳng định vai trò quan trọng của mình trong đời
sống tinh thần của nhiều người.
Đối tượng học sinh cần được hướng dẫn, cần được giúp đỡ, cần được
tham vấn tâm lý nhiều nhất có lẽ là học sinh Trung học cơ sở (THCS) - lứa tuổi
chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn. Học sinh trong lứa tuổi này chịu áp lực từ
những sự kiện lớn lao như: sự trưởng thành về hình thể, sự dậy thì, sự xuất hiện
cảm giác “mình đã là người lớn”, sự cải tổ “cái tôi”…v.v… Điều này tạo nên
1


một thời kỳ phát triển tâm lý mạnh mẽ, đầy biến động và “không phẳng lặng”
trong cuộc đời các em. Trong nhiều trường hợp, những biến cố chỉ là tạm thời,
là tự nhiên, thậm chí là cần thiết cho sự phát triển nhân cách của các em. Tuy


nhiên, trong bối cảnh xã hội không có nhiều sự ổn định, những khó khăn tâm lý
của học sinh trở nên nặng nề, vượt quá khả năng kiểm soát và tự giải quyết của
các em.
Bên cạnh đó, hiện nay, học sinh THCS còn phải đối mặt với vấn đề mới
của bản thân là hiện tượng dậy thì sớm. Do đời sống kinh tế được nâng cao, dinh
dưỡng đầy đủ, cơ thể của các em phát triển nhanh và các hệ cơ quan chín mùi
trước khi các em có đầy đủ kiến thức về bản thân. Nói cách khác sự trưởng
thành về mặt sinh học đến với các em sớm hơn là sự trưởng thành về mặt xã hội
nên các em gặp nhiều khó khăn trong việc làm chủ cảm xúc, làm chủ hành vi
của mình. Các em có thể sa vào con đường yêu đương quá sớm, quan hệ tình
dục không an toàn, mang thai ngoài ý muốn…
Mặt khác, học sinh THCS cũng là người chịu ảnh hưởng nặng nề từ mặt trái
nền kinh tế thị trường khi cha mẹ tập trung thời gian, sức lực, trí tuệ vào công
ăn, việc làm và vì vậy, thời gian dành cho sự quan tâm, chăm sóc, quản lý con cái
còn rất ít thậm chí là không có. Có thể điều này đối với một số em học sinh
THCS là cơ hội để phát huy tính độc lập, tự chủ, một số còn lại rơi vào tình trạng
được thừa hưởng đầy đủ về vật chất nhưng thiếu thốn về mặt tinh thần. Các
em tự bù đấp bằng cách chơi game online, hút thuốc lá…
Ngược lại, có những gia đình quá lo sợ trước tác động xấu của mặt trái xã hội
đã chăm sóc, bảo bọc con em mình quá kỹ, vì vậy, con em họ trở nên yếu đuối, lệ
thuộc, thiếu tự tin và hạn chế kỹ năng hoà nhập cuộc sống. Các em lúng túng,
vụng về khi thiết lập mối quan hệ với thầy cô thậm chí không biết làm cách
nào để hoà nhập vào bạn bè trong trường và khi bản thân gặp phải vấn đề không
2


mong đợi, các em chỉ biết chán nản, buông xuôi và tệ hơn nữa là tìm đến chất
kích thích như rượu, bia, ma tuý và cả cái chết.
Vai trò là một Hiệu trưởng của một trường, tôi quyết định chọn đề tài: “Giáo
viên với công tác tư vấn học sinh trong trường THCS” làm đề tài cho bài thu

hoạch cuối khóa nhằm đánh giá chính xác nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh
THCS Phú Thạnh để đưa ra những giải pháp, nội dung cần thiết cho hoạt động
tham vấn tâm lý học đường trong trường tôi đang công tác.
II. CÁC NHIỆM VỤ CỦA BÀI THU HOẠCH
- Tìm hiểu nhu cầu nhu cầu tham vấn, tư vấn tâm lý của học sinh THCS Phú
Thạnh huyện Phú Tân.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt công tác cầu tham
vấn, tư vấn tâm lý của học sinh THCS Phú Thạnh huyện Phú Tân.
- Đánh giá khả năng đáp ứng của giáo viên với cầu nhu cầu tham vấn, tư vấn
tâm lý của học sinh tại đơn vị.
- Rút ra một số bài học cho bản thân.
NỘI DUNG
PHẦN 1: KẾT QUẢ THU HOẠCH KHI THAM GIA KHÓA BỒI
DƯỠNG
1. Qua thời gian học tập, được bồi dưỡng kiến thức thuộc lớp bồi
dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II được
Quý thầy, cô của trường ĐHAG truyền đạt những kiến thức và kỹ năng
gồm những nội dung:
Chuyên đề 1. Lý luận về nhà nước và hành chính nhà nước.
Chuyên đề 2. Chiến lược và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo.
Chuyên đề 3. Quản lý giáo dục và chính sách phát triển giáo dục trong cơ chế
thị trường định hướng XHCN.
Chuyên đề 4. Giáo viên với công tác tư vấn học sinh trong trường THCS.
3


Chuyên đề 5. Tổ chức hoạt động dạy học, xây dựng và phát triển kế hoạch
giáo dục ở trường THCS.
Chuyên đề 6. Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II.
Chuyên đề 7. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường THCS.

Chuyên đề 8. Thanh tra kiểm tra và một số hoạt động đảm bảo chất lượng
trường THCS.
Chuyên đề 9. Sinh hoạt tổ chuyên môn và công tác bồi dưỡng giáo viên trong
trường THCS.
Chuyên đề 10 . Xây dựng mối quan hệ trong và ngoài nhà trường để nâng cao
chất lượng giáo dục và phát triển trường THCS.
Đây là những nội dung hết sức bổ ích và cần thiết cho người quản lí, giáo
viên giảng dạy trong việc thực thi nhiệm vụ tại đơn vị đang công tác. Với 10
chuyên đề đã giúp cho học viên nhận thức được nhiều vấn đề về lý luận và thực
tiễn mới trong công tác dạy và học. Qua một thời gian học tập bản thân đã tiếp thu
được nhiều kiến thức bổ ích qua đó mạnh dạn đưa ra một số bài học nhằm phục vụ
cho quá trình công tác sau này tuy nhiên do thời gian hoàn thiện ngắn, việc nghiên
cứu chưa được sâu và kinh nghiệm bản thân có hạn do đó dù đã cố gắng rất nhiều
nhưng bài viết này chắc chắn còn những hạn chế, rất mong được sự đóng góp ý
kiến của Quý thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
2. Thời gian học tập và nghiên cứu các chuyên đề: Từ 01/8/2018 đến
16/9/2018
3. Sử dụng những kiến thức được học qua lớp bồi dưỡng, em đã nghiên
cứu thực tế về nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh trường THCS Phú
Thạnh huyện Phú Tân như sau:
3.1. Nhu cầu tham vấn tâm lý
Nhu cầu tinh thần là một trong 2 loại nhu cầu cơ bản của con người. Nó bao
gồm nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu học hành để mở rộng vốn hiểu biết, nhu
cầu được quan tâm, giúp đỡ, yêu thương đến nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về
4


lòng tự trọng, nhu cầu thành đạt trong cuộc sống,…. Nhu cầu tinh thần của con
người phát triển theo sự tiến bộ của xã hội nên ngày càng phong phú và đa dạng,
vì vậy, trong quá trình tìm kiếm điều kiện thoả mãn nó, con người có thể gặp

phải một số trở ngại nhất định, đặc biệt là những trở ngại về mặt tinh thần hay
còn gọi là khó khăn tâm lý. Khi gặp khó khăn tâm lý, một số người có đủ kinh
nghiệm, bản lĩnh, kỹ năng thì có thể vượt qua, một số người khác vì lý do nào
đó, trong một thời điểm nhất định, họ không thể tự vượt qua được dù rất muốn
làm điều đó và bấy giờ, họ sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ tinh thần từ người khác, tức là
bản thân họ nảy sinh nhu cầu tham vấn.
Ở một hướng khác, tốc độ phát triển xã hội quá nhanh đã làm nảy sinh những
vấn đề mới lạ ngay trong cuộc sống của cá nhân mà bản thân cá nhân chưa
kịp nhận thức đã phải tiến hành các giải pháp để giải quyết theo yêu cầu của xã
hội, của bản thân. Điều này đã, đang và sẽ tạo ra những áp lực lớn lên cuộc
sống của mỗi cá nhân, tạo nên những xung đột tâm lý, những căng thẳng kéo
dài có ảnh hưởng xấu đến đời sống cá nhân, cộng đồng và khi đó, cá nhân sẽ tìm
đến những người có chuyên môn về tham vấn tâm lý để được hỗ trợ, tức là họ đi
tham vấn tâm lý.
Từ sự phân tích trên cho thấy: Nhu cầu tham vấn tâm lý là nhu cầu về sự hỗ
trợ của người có chuyên môn về tham vấn tâm lý (nhà tham vấn tâm lý) khi chủ
thể gặp phải những khó khăn tâm lý hoặc những xung đột tâm lý mà bản thân
không thể tự giải quyết được.
3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THCS
Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THCS là nhu cầu được nhà tham
vấn giúp đỡ để học sinh có thể tự giải quyết được những khó khăn tâm lý và
xung đột tâm lý mà các em đang gặp phải. Nói cách khác nhu cầu tham vấn tâm
5


lý của học sinh THCS là nhu cầu được cùng nhà tham vấn trò chuyện, lắng
nghe, chia sẻ, định hướng hành động để qua đó học sinh THCS thấy được sự
đồng cảm, tôn trọng, có niềm tin và quyết tâm giải quyết những khó khăn,
những xung đột tâm lý mà các em chưa tự giải quyết được.
- Các em thiếu phương pháp học tập.

- Hoàn cảnh kinh tế gia đình của các em khó khăn.
- Kiến thức của các em bị mất căn bản từ lớp dưới.
- Tính mộng mơ và suy tư của giai đoạn dậy thì có thể gây trở ngại cho việc
học tập.
- Thầy cô dạy không hấp dẫn, khó hiểu, không tạo được sự hứng thú ở học
sinh.
- Số môn học, giờ học ở trường tăng lên quá nhiều.
- Áp lực từ sự kỳ vọng của cha mẹ và thầy cô.
Từ những vấn đề trên cho thấy, những khó khăn, xung đột trong lĩnh vực học tập
thật sự là một thách thức với tâm lý còn non nớt của học sinh THCS. Bên cạnh
những khó khăn trong hoạt động học tập, học sinh THCS còn gặp rất nhiều khó
khăn khi giao tiếp với người lớn (thầy cô, cha mẹ) và bạn bè cùng tuổi.
Một số khó khăn, xung đột tâm lý thường nảy sinh trong mối quan hệ giữa
người lớn và học sinh THCS:
- Bất đồng ý kiến, quan điểm với cha mẹ, thầy cô về lối sống, tác phong,
chuyện học hành, bè bạn….
- Người lớn ít có thời gian để học sinh THCS tiếp xúc, trao đổi và xin ý kiến.
- Mâu thuẫn giữa khả năng của bản thân với kỳ vọng của cha mẹ, thầy cô.
- Căng thẳng, áp lực và xung đột khi người lớn không thấu hiểu, không tin
tưởng.
- Mất niềm tin ở bản thân, ở người lớn khi bị áp đặt, chê bai và thiếu tôn trọng
6


Những mâu thuẫn, xung đột tâm lý trên có nguyên nhân từ cả hai phía: học sinh
THCS và người lớn. Thông thường, học sinh THCS sẽ đi tìm sự thông cảm, chia sẻ
của bạn bè cùng tuổi. Tuy nhiên, trong mối quan hệ rất có ý nghĩa và giá trị này, các
em cũng gặp không ít khó khăn như:
- Mâu thuẫn giữa nhu cầu được tôn trọng, được thừa nhận với tâm trạng căng
thẳng, khó chịu, khó chấp nhận sự phê phán, góp ý của bạn bè.

- Mâu thuẫn giữa năng lực thực của bản thân với mức độ hiểu biết về những
phẩm chất của tình bạn.
- Xung đột giữa những qui định trong “bộ luật bạn bè” với chuẩn mực xã hội,
với những điều mà các em biết rằng không nên làm.
- Mâu thuẫn nảy sinh khi các em vừa muốn được người khác giới chú ý vừa lo
sợ điều đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập.
- Chán nản, mất tự tin khi không thiết lập được mối quan hệ bạn bè.
- Xung đột giữa quan hệ bạn bè và quan hệ với người lớn.
- Trong tình bạn khác giới, các em có nguy cơ sa vào tình yêu quá sớm làm ảnh
hưởng đến việc học hành và phát triển nhân cách. Mặt khác, các em bị bạn bè trêu
chọc, người lớn ngăn cấm trong khi bản thân vừa không thể kìm nén sự tò mò,
thích thú. Sở dĩ có sự xung đột này là vì ngay trong hiện tượng dậy thì của bản
thân, các em đã gặp không ít trở ngại.
Hiện tượng dậy thì làm cho học sinh THCS có sự trưởng thành về mặt sinh
học đến trước sự trưởng thành về mặt xã hội. Điều này tạo ra một số khó khăn:
- Các em lo sợ thậm chí hoang mang khi phát hiện ra những biến đổi khác lạ
của cơ thể như nổi mụn, mọc râu, …
- Các em căng thẳng, áp lực khi biết tính khí mình thất thường dù bản thân
không muốn.
- Các em thiếu tự tin khi giao tiếp với người khác.
- Các em chưa kiểm tra tình cảm và hành vi, chưa biết xây dựng mối quan hệ
đúng đắn với bạn khác giới nhưng thích được các bạn khác giới chú ý. Trong
những khó khăn này, có những khó khăn các em có thể tự giải quyết được, có
những khó khăn phải nhờ đến thầy cô, cha mẹ hoặc bạn bè và có cả những khó
7


khăn không biết nhờ ai. Nếu có chuyên viên TVTL, chắc chắn các em tránh được
những bối rối, những căng thẳng, những quyết định thiếu sáng suốt.
Như vậy, không phải khó khăn nào cũng làm nảy sinh nhu cầu TVTL nhưng

trong thực tế tham vấn ở Việt Nam, nguyên nhân chủ yếu làm nảy sinh nhu cầu
TVTL ở học sinh THCS đa phần là những khó khăn tâm lý và những xung đột tâm
lý trong đời sống của các em. Khi được hỗ trợ để giải quyết những khó khăn này,
học sinh THCS không chỉ giải toả được về mặt tâm lý mà còn tích luỹ được kinh
nghiệm, kỹ năng để nâng cao năng lực ứng phó với những khó khăn khác của bản
thân để lớn lên, trưởng thành về mặt xã hội, nói cách khác, nhu cầu tham vấn tâm lý
là nhu cầu chính đáng của học sinh THCS và như vậy, nó cần được tôn trọng và
thoả mãn.
Nội dung nhu cầu TVTL của học sinh THCS
Như phân tích ở trên, nhu cầu TVTL của học sinh THCS nảy sinh chủ yếu từ
những khó khăn tâm lý trong học tập, giao tiếp và trong giai đoạn dậy thì của bản
thân, vì vậy, nội dung nhu cầu TVTL của học sinh THCS chủ yếu xoay quanh
những vấn đề đó.
Nhu cầu TVTL về học tập như phương pháp, kỹ năng, cách thức học tập hiệu quả
ở bậc THCS; xác định và hình thành động cơ, mục đích học tập cụ thể, rõ ràng, phù
hợp với khả năng, điều kiện, hoàn cảnh; kỹ năng lập kế hoạch học tập hài hoà với
các hoạt động vui chơi, giải trí, phụ giúp gia đình; kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp
đỡ của người khác trong lĩnh vực học tập; kỹ năng vượt qua những áp lực học tập;
kỹ năng giải quyết những vấn đề không mong muốn nảy sinh trong học tập….
Nhu cầu TVTL về vui chơi, giải trí lành mạnh như thông tin về các loại hình vui
chơi giải trí lành mạnh; lựa chọn loại hình, môi trường giải trí lành mạnh, bổ ích; kỹ
năng kiềm chế bản thân và từ chối những rủ rê, lôi kéo của những người xấu và
8


những trò chơi vô bổ thậm chí độc hại…
Nhu cầu TVTL về giao tiếp với thầy cô, cha mẹ, bạn bè như kỹ năng giao tiếp (kỹ
năng thuyết trình, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng biểu cảm, tranh
luận…); phương pháp xây dựng lòng tin; phương pháp trao dồi những phẩm chất tốt
được nhiều người yêu thích, tin cậy; phương pháp từ bỏ những thói quen xấu; kỹ

năng vượt lên những hiểu lầm; kỹ năng giải quyết mâu thuẫn bạn bè…
Nhu cầu TVTL về bản thân trong giai đoạn dậy thì như hiểu đúng và nhận ra giá
trị của những biểu hiện của giai đoạn dậy thì; phương pháp rèn luyện lòng tự tin và
biết tôn trọng cơ thể; phương pháp xây dựng tình bạn khác giới trong sánh, lành
mạnh; kiến thức về sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản; giáo dục giới tính…
Nhu cầu TVTL về nghề nghiệp như nhận thức về nghề nghiệp; động cơ chọn
nghề; những phẩm chất, năng lực phù hợp với nghề; triển vọng của nghề trong
tương lai…
Nhu cầu TVTL về các vấn đề xã hội như thần tượng, thời trang, phim ảnh, tệ nạn
xã hội, vấn nạn ly hôn,..
3.3. Đặc điểm nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THCS
Đối tượng của nhu cầu TVTL của học sinh THCS là cái mà các em muốn chiếm
lĩnh khi tham gia vào quá trình tham vấn tâm lý. Cụ thể đó là:
• Được có thông tin: thông qua hoạt động tham vấn, học sinh THCS muốn có
những thông tin để hiểu rõ về cuộc sống, hiểu rõ về sự biến đổi phức tạp của bản
thân cũng như những vấn đề gắn liền với lứa tuổi các em như học tập, bạn bè, định
hướng tương lai…
• Được tháo gỡ những khó khăn: Các em mong muốn được cung cấp và rèn
9


luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng học tập tốt, kỹ năng ứng phó với những tình huống
khó khăn cũng như các em tìm kiếm một điểm tựa tinh thần đáng tin cậy.
• Được tôn trọng: Nhà tham vấn không chỉ lắng nghe còn có sự an ủi, đồng cảm,
nâng đỡ tinh thần, giúp học sinh THCS hiểu những giá trị của mình, từ đó có sự tự
khẳng định phù hợp. Học sinh THCS mong muốn tìm thấy ở nhà tham vấn một tình
cảm như một người bạn thân thiết, tin cậy, biết giữ bí mật (như bạn bè cùng tuổi)
đồng thời có nhiều kinh nghiệm thực tế (như người lớn).
• Được chăm sóc sức khoẻ tinh thần: Bằng kỹ thuật nói chuyện và những kỹ
năng chuyên nghiệp, nhà tham vấn có thể giúp học sinh THCS chia sẻ những tâm sự

buồn, những nổi niềm khó nói với bạn bè, người lớn hoặc san sẻ niềm vui rất riêng
của các em mà không e sợ sự đánh giá, phán xét. Nhờ đó, nhà tham vấn giúp các em
giải toả những căng thẳng, áp lực trong học tập, trong quan hệ giao tiếp với người
khác và vượt qua khủng hoảng của bản thân để có thể có cuộc sống vui vẻ, hồn
nhiên, thoải mái.
Tóm lại lứa tuổi học sinh THCS là một lứa tuổi có một ý nghĩa đặc biệt đối với
cuộc đời mỗi người, vì nó chuyển từ thời kỳ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Sự
chuyển tiếp này tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt đặc thù, phức tạp về mọi
mặt của lứa tuổi, nói cách khác, sự chuyển tiếp đã hình thành những cấu tạo mới về
chất trong tất cả mọi mặt của lứa tuổi. Sự biến đổi của cơ thể, của tự ý thức, của
kiểu quan hệ với người lớn và bạn cùng tuổi, của hoạt động học tập, hoạt động xã
hội… đã làm xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành. Quá trình hình thành
cái mới thường diễn ra không đồng đều giữa các học sinh THCS và cũng diễn ra
khác nhau giữa các mặt trong bản thân mỗi học sinh. Điều này không chỉ tạo nên
tính phức tạp mà còn tạo ra nhiều khó khăn, thử thách cho các em. Với bối cảnh xã
hội hiện nay, chính những khó khăn, thách thức này làm nảy sinh trong các em một
nhu cầu mới: nhu cầu tham vấn tâm lý.
10


Phương thức thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý chính là hoạt động đi tham vấn
tâm lý, nói cách khác, học sinh THCS có tham gia vào hoạt động TVTL mới có thể
thoả mãn được nhu cầu TVTL của bản thân. Tuy nhiên, trong tình hình thực tế hiện
nay, không phải trường THCS nào cũng có phòng tham vấn học đường hay chuyên
viên tham vấn tâm lý đồng thời học sinh THCS không có nhiều tiền cho nhu cầu
này cũng như sự hiểu biết về TVTL còn hạn chế, các em chọn một số hình thức
TVTL đơn giản, quen thuộc như tâm sự với bạn bè, tự tìm hiểu qua sách, báo, mạng
internet hay hỏi ý kiến thầy cô, người lớn…
Học sinh THCS tìm đến nhà tham vấn khi cảm thấy không hài lòng với thực tại
của mình. Các em mong muốn được trang bị kỹ năng để giải toả những áp lực,

những căng thẳng mà các em đang gặp phải. Các em cũng khao khát làm thay đổi
bản thân theo hướng được người khác chấp nhận, tôn trọng và đề cao.
Với những điều kiện sống và học tập, phát triển khác nhau, nội dung nhu cầu
TVTL cũng như phương thức thoả mãn nhu cầu TVTL của học sinh THCS sẽ khác
nhau. Xã hội càng phát triển càng đòi hỏi cao ở học sinh thì thách thức đến với các
em càng nhiều và nhu cầu TVTL của các em càng trở nên bức bách hơn.
Nguyên nhân hình thành nhu cầu TVTL của học sinh THCS
Giai đoạn lứa tuổi học sinh THCS là một giai đoạn phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ về tâm sinh lý đồng thời các em gặp phải sự biến đổi
không nhỏ của gia đình, nhà trường, xã hội nên học sinh THCS đứng trước rất
nhiều khó khăn, nổi bật nhất là khó khăn trong các lĩnh vực học tập, giao tiếp
với người lớn, với bạn bè cùng tuổi và sự dậy thì của bản thân.
3.4. Các giải pháp cơ bản để làm tốt công tác Tham vẫn, tư vấn tâm
lý cho học sinh THCS: Sau khi sử dụng hệ thống bảng biểu, câu hỏi điều
tra, phỏng vấn để tìm hiểu nhu cầu tham vẫn, tư vấn tâm lý cho học sinh
11


THCS Phú Thạnh, em rút ra một số giải pháp sau:
Những giải pháp nhằm giải toả áp lực từ thầy cô: Giáo viên công bằng
không thiên vị; Thầy cô hạn chế các hoạt động gây áp lực cho học sinh; Giáo
viên phải có sự thông cảm sâu sắc; Thầy cô không kỳ thị học sinh;
Những giải pháp nhằm giải khó khăn kinh tế: Hỗ trợ học sinh gặp khó
khăn về đời sống; Tìm nguồn học bổng cho học sinh;
Những giải pháp nhằm thoã mãn nhu cầu vui chơi giải trí: Tổ chức nhiều
sân chơi cho học sinh; Tổ chức nhiều hoạt động thể thao bổ ích; Tham gia các
hoạt động ngoại khóa; Tổ chức các buổi giao lưu ngoại khóa; Nhà trường giao
lưu trò chuyện với học sinh;
Những giải pháp nhằm giải quyết xung đột với cha mẹ: Cha mẹ lắng
nghe, gần gũi với con cái; Cha mẹ quan tâm nhiều hơn đến tâm tư nguyện

vọng của con cái; Cha mẹ không đòi hỏi quá cao ở con cái;
Những giải pháp nhằm giải quyết áp lực học tập: Dạy đúng trọng tâm;
Tổ chức các buổi tham quan thực tế; Giảm bớt tiết học và những môn không cần
thiết; Tổ chức các cuộc thi về bộ môn trong học tập; Tổ chức chương trình
khuyến học; Giảm bớt bài kiểm tra; Nhà trường tăng cường các buổi học ngoài
trời;
Những giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn liên quan đến hiện
tượng dậy thì: Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với xã hội; Có những buổi
chuyên đề tham vấn tâm lý cho học sinh;
Những giải pháp có tính chất chung cho nhiều lĩnh vực: Giải đáp thắc
mắc về nhiều lĩnh vực của học sinh; và Nhà trường lập hộp thư góp ý; trường
12


nghiêm khắc, kỷ luật những học sinh không tốt.
Nhóm giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh như giúp con hạn
chế xem các phim ảnh xấu; Kết hợp với phụ huynh khi thấy học sinh có biểu
hiện bất thường; Cần quan tâm học sinh cá biệt để có hướng giáo dục; Có
biện pháp răn đe, xử phạt các học sinh vi phạm.
Nhóm giải pháp nhằm giúp học sinh giải quyết khó khăn tâm lý trong
giao tiếp như Giáo viên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của học
sinh; Giáo viên công bằng trong đối xử với học sinh; Cha mẹ gần gũi con cái.
Nhóm giải pháp nhằm giúp học sinh giải quyết những khó khăn tâm lý
trong lứa tuổi dậy thì như: Nhà trường tổ chức giáo dục về tâm sinh lý cho
học sinh; Tham vấn về tâm lý lứa tuổi, tạo sự an tâm, tự tin trong cuộc sống.
Thành lập tổ sinh hoạt về mặt tâm lý trong nhà trường.
3.5. Khả năng đáp ứng của giáo viên trong trường về nhu cầu tham
vấn, tư vấn tâm lý học sinh:
Chiếu với những nguyên nhân, giải pháp tư vấn tâm lý học đường như trên bản
thân thấy với đội ngũ giáo viên hiện tại trong nhà trường chưa thể đáp ứng yêu

cầu giáo dục.
Cần được tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng tham vấn, tư vấn tâm
lý cho đội ngũ giáo viên bởi vì:
Giáo dục học sinh không phải chỉ là dạy cho các em về kiến thức, mà còn phải
giúp các em hình thành nhân cách; không chỉ là dạy chữ mà còn phải dạy người.
Vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục dược mệnh danh là "trồng người". Việc trồng
người này đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội, mà quan
13


trọng nhất là sự phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Thế nhưng
các bậc cha mẹ đôi khi cũng bế tắc trong việc giáo dục con ở tuổi thanh thiếu
niên. Một số bậc cha mẹ, khi con cái có vấn đề, đã trả lời giáo viên chủ nhiệm:
"Tôi lo làm kiếm tiền lo cho nó đi học, không có thời gian, có gì thì cô dạy dùm,
tôi cám ơn". Có người rất thật lòng: "Ở nhà tôi rầy cỡ nào nó cũng không nghe.
Tôi nói mười câu không bằng thầy nói một câu." Cũng có người thể hiện thái độ
bất hợp tác: khóa điện thoại khi thầy cô chủ nhiệm gọi đến, và khi đã liên lạc
được thì "Cô mà còn gọi nữa là tui cho nó nghỉ học!".
Với một số học sinh, gia đình không phải là chốn bình yên, không phải là nơi
mà em muốn quay về sau mỗi ngày đi học, bởi ở nhà, "ba con chỉ biết dùng từ
thô tục chửi con, đánh con. Con sợ đòn roi, nhưng con không sợ ba con, không
nể ba con,… Cô cho con một câu trả lời, cô cho con một lời nào giúp con đi cô!"
- Một em học sinh đã gửi đi lời cầu cứu đến cô chủ nhiệm của mình như thế! Có
em, vì cha mẹ không có con trai, nên ngay từ nhỏ, đã cho con gái ăn mặc quần
áo của con trai, đối xử như với con trai. Đến trường, em hung hăng, nghênh
ngang thể hiện bản lĩnh "đàn anh" của mình. Lúc này, cha mẹ mới khẩn khoản:
thầy cô làm ơn giúp dùm gia đình.
Và còn biết bao tình huống mà người giáo viên chủ nhiệm phải đối diện khi
quản lý một lớp học: các em có mâu thuẫn với giáo viên bộ môn và yêu cầu được
đổi giáo viên, bị thầy cô ép đi học thêm, thầy cô đối xử bất công hay hiều lầm, bị

thất tình, mâu thuẫn với bạn bè dẫn đến xô xát, muốn nghỉ học vì chán nản
chuyện gia đình, vì hoàn cảnh khó khăn,… Ở tuổi mới lớn, vì luôn muốn được
quan tâm, đôi khi các em thổi phồng vấn đề của mình lên quá mức, khiến cho
việc nhỏ trở nên trầm trọng. Nếu không được kịp thời giúp đỡ, khi cảm thấy
không ai quan tâm đến mình, các em sẽ tự giải quyết vấn đề và thông thường đó
là những cách xử lý tiêu cực, đôi khi gây ra hậu quả vô cùng trầm trọng.
14


Thiết nghĩ, trước những tình huống nảy sinh trong quá trình quản lý lớp học,
với vai trò là Hiệu trưởng, người thầy cần phải có đủ thời gian, đủ kiên nhẫn, đủ
bản lĩnh và quan trọng nhất là phải có đủ tình thương để có thể lắng nghe, thông
cảm, thấu hiểu, chia sẻ và định hướng cho các em cách giải quyết những vấn đề
khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, ta không nên chờ đến khi thật sự có vấn đề
rồi mới đi tìm cách giải quyết, mà phải phát hiện được vấn đề khi nó còn tiềm
ẩn, ngăn chặn những tình huống xấu phát sinh.
4. Kết quả thu hoạch về kỹ năng: Sau khi tham gia khóa học bồi dưỡng
chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II em đã được tiếp thu những kiến
thức bổ ích từ các chuyên đề như: các kiến thức về quản lý nhà nước, chiến lược
và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, quản lý giáo dục và chính sách
phát triển giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, tổ chức hoạt
động dạy học xây dựng và phát triển kế hoạch dạy học ở THCS, phát triển
năng lực nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II, thanh tra kiểm tra và một số
hoạt động đảm bảo chất lượng, dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh, giáo viên với công tác tư vấn học sinh. Trong các chuyên đề trên đều là
những kiến thức bổ ích phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ của bản thân
mỗi giáo viên.
Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học – từ chỗ
quan tâm tới việc học sinh học được gì đến chỗ quan tâm tới việc học sinh

học được cái gì qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải thực
hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một
chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành
năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ
nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải
15


quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá
trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhắm nâng cao chất lượng của
hoạt động dạy học và giáo dục.
Trong những năm qua, toàn thể giáo viên cả nước đã thực hiện nhiều công việc
trong đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đã đạt được những
thành công bước đầu. Đây là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến
tới việc việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển
năng lực của người học. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như
việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi
mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh… chưa
nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ năng chưa
được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá còn nhiều hạn chế, chú trọng đánh
giá cuối kì chưa chú trọng đánh giá cả quá trình học tập. Tất cả những điều đó
dẫn tới học sinh học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực
tiễn.
5. Ý nghĩa của hệ thống tri thức, kỹ năng thu nhận được sau khóa học:
Nắm bắt xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, các mô hình trường học mới. Những mặt được và mặt hạn chế
của các mô hình trường học đó. Vận dụng sáng tạo và đánh giá được việc vận
dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào thực tiễn giáo
dục học sinh trung học của bản thân và đồng nghiệp. Chủ động, tích cực phối
họp với đồng nghiệp, cha mẹ học sinh và cộng đồng để nâng cao chất lượng

giáo dục học sinh tiểu học.
Nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục
16


trung học; chủ động tuyên truyền và vận động đồng nghiệp cùng thực hiện tốt
chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giáo dục nói chung và giáo
dục trung học nói riêng. Hiểu rõ chương trình và kế hoạch giáo dục trung học;
hướng dẫn được đồng nghiệp cùng thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục
trung học.
PHẦN 2: KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG CỦA BẢN THÂN SAU KHÓA BỒI
DƯỠNG
1. Yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp với bản thân: Bản thân mỗi người
giáo viên trung học cần tự học tập, bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu của người giáo
viên hiện đại, theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học do BGD ban hành
2. Kế hoạch hoạt động cá nhân sau khi tham gia khóa học nhằm đáp ứng
yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học:
Trước hết, cần phải làm nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc các vấn đề liên
quan đến phát triển chuyên môn của mình
Hiện nay, nhiều giáo viên chưa hiểu đúng về năng lực bản thân và chưa chấp
nhận bản thân và đồng nghiệp. Mỗi khi có đánh giá, nhận xét hay xếp loại chuyên
môn trong các kỳ đánh giá xếp loại theo quy định của Phòng, Sở Giáo dục và Đào
tạo, giáo viên thường có xu hướng tự nâng mức bản thân bằng hoặc cao hơn người
khác. Giáo viên thường tự đánh giá mình đạt mức tốt, khá (hiếm khi tự đánh giá
trung bình, yếu). Đặc biệt, với những giáo viên được coi là giáo viên giỏi luôn bằng
lòng với kết quả đánh giá hiện tại và không tiếp tục phấn đấu, học hỏi chuyên môn.
Họ không phấn đấu đạt được những tiêu chuẩn cao hơn của người giáo viên trong
thời kỳ mới. Thậm chí, ngay cả khi nhu cầu học tập hiện tại của học sinh chưa được
đáp ứng họ cũng chưa nhận ra hoặc chưa quan tâm đến.

17


Rèn khả năng nhận ra, biết chấp nhận mỗi cá nhân học sinh
Khi biết chấp nhận học sinh như một cá thể độc lập, họ sẽ biết chấp nhận bản
thân và ngược lại. Chấp nhận học sinh là điều kiện cần để tiến hành giáo dục theo
quan điểm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm. Người giáo viên có biết chấp nhận
học sinh thì mới có thể tạo ra môi trường học tập thoải mái và tiến hành bài học có
ý nghĩa. Họ có thể thể hiện tình yêu thương, trân trọng với tất cả học sinh như con
em của chính mình.
Hiện nay, các cấp quản lý giáo dục luôn yêu cầu và mong muốn giáo viên quan
tâm đến mọi đối tượng học sinh (đặc biệt những học sinh có khó khăn trong học
tập) trong quá trình dạy học nhưng nhận ra lúc nào cần phải quan tâm như thế nào,
làm thế nào để học có thói quen tự giác, thường xuyên quan tâm đến học sinh thì
không dễ dàng.
Hiểu đúng và áp dụng được phương pháp giáo dục mới vào thực tế giảng
dạy hàng ngày
Thực tế hiện nay đội ngũ giáo viên được đào tạo và bồi dưỡng hàng năm về
phương pháp dạy học mới. Nhưng giữa lý thuyết và thực tế, giữa nhận thức và hành
động luôn có khoảng cách lớn. Trong những chương trình bồi dưỡng vẫn còn nhiều
giáo viên chưa hiểu đúng và đủ bản chất vấn đề. Chỉ khi bắt đầu vào vận dụng thực
tế dạy học trên lớp, họ mới thực sự gặp phải khó khăn.
Nhiều giáo viên có thể biết và hiểu lý thuyết nhưng trong thực hành tác nghiệp,
trước những tình huống đa dạng, phức tạp nảy sinh trong việc học của học sinh,
việc vận dụng lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tế còn nhiều khó khăn. Thậm
chí, do có nhiều giáo viên hiểu chưa đúng, nên số đông trong số họ còn e ngại và
thiếu quyết tâm vận dụng cái mới.
18



Khi thực hiện Chương trình Giáo dục, nhiều giáo viên vẫn tin rằng chỉ cần cố
gắng dạy học theo đúng, đủ những gì theo SGK, SGV là tốt rồi. Từ đó có ý thức
thực hiện dạy học theo khuôn mẫu một cách thụ động. Khi họ muốn thay đổi cho
phù hợp thực tế nhưng lại gặp khó khăn khi không biết phải thay đổi như thế nào và
làm cách nào để thay đổi.
Tích cực tự học nâng cao năng lực và đổi mới phương pháp dạy học
Chủ trương của ngành Giáo dục - Đào tạo khuyến khích giáo viên tự học nâng
cao năng lực chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học, song trên thực tế thì
việc khuyến khích và hỗ trợ giáo viên thực hiện việc tự học còn hạn chế. Giáo viên
sẽ tự học những gì, như thế nào, lúc nào và ở đâu để đảm bảo hiệu quả thiết thực
cho công việc dạy học hàng ngày, đáp ứng tốt việc học của học sinh là những câu
hỏi lớn mỗi giáo viên không thể tự mình giải quyết. Mặc dù hầu hết giáo viên đều
được khuyến khích học để nâng cao trình độ đào tạo (đạt chuẩn và trên chuẩn trình
độ đào tạo) nhưng năng lực chuyên môn đáp ứng đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng lấy học sinh làm trung tâm còn nhiều hạn chế. Điều này thể hiện ở thực
trạng hiện nay, trước định hướng của các cấp quản lý giáo dục cho phép và khuyến
khích giáo viên vận dụng, điều chỉnh nội dung các bài học trong SGK cho phù hợp
với các đối tượng học sinh nhưng do chưa có hiểu biết sâu rộng về nội dung bài học
đó nên nhiều giáo viên chưa dám hoặc không có khả năng thực hiện, họ vẫn chỉ dạy
những gì có sẵn trong SGK. Mặc dù tỉ lệ giáo viên đạt trình độ đào tạo trên chuẩn
(đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng) khá cao nhưng năng lực chuyên môn vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
PHẦN III: KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
1. Nội dung các chuyên đề: Phù hợp với nhu cầu học tập đáp ứng chuẩn nghề
nghiệp của giáo viên
19


2. Hình thức tổ chức lớp học: Phù hợp với tính chất công việc của giáo viên đang
đứng lớp. (Học trong hè)

3. Đội ngũ giảng viên giảng dạy: Đều là những giảng viên có trình độ chuyên môn
cao, nhiệt tình truyền đạt kiến thức đến học viên, thân thiện và hòa đồng, giúp học
viên dễ dàng trao đổi khi cần.
Như vậy qua khóa bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng
II tôi thấy đây là một khóa học bổ ích cho mỗi cán bộ giáo viên tham gia học tập.
Mỗi cán bộ giáo viên đều học tập và tích lũy cho mình những kiến thức quý báu từ
các chuyên đề và áp dụng trong quản lý nhà trường và trong công tác dạy học để
ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cho địa phương.
……………, ngày …/…/20…
Người viết thu hoạch

…………………….

20



×