Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

rèn kỹ năng đọc cho học sinh qua môn tiếng việt 1 Công nghệ giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.28 KB, 37 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG HẢI DƯƠNG
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

BÀI TậP
CứU KHOA

NGHIÊN
HọC

Tên đề tài: rèn kỹ năng đọc cho học sinh qua môn
tiếng việt 1 Công nghệ giáo dục

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Ngày sinh
Lớp

: Nguyễn Thị Ngọc Hằng
: Hà Thị Thùy Châm
: 26/05/1998
: K39

Hải Dương, năm 2018
MỤC LỤC


A.PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Bác Hồ đã dạy:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.


Lời dạy đó là “kim chỉ nam” cho mục tiêu giáo dục của Đảng. Chính vì
thế mà Đảng luôn coi “giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
toàn Đảng, toàn dân”, đặc biệt là đối với Tiểu học vì đây là bậc học đặt nền
móng cho sự phát triển toàn diện sau này của các em. Cùng với môn Toán, môn
Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho
học sinh. Năng lực hoạt động này thể hiện trong 4 hoạt động tương ứng với bốn
kĩ năng: nghe, nói, đọc và viết. Mà muốn hình thành cho học - Tập đọc là môn
khởi đầu, đồng thời cũng là công cụ học tập không chỉ trong nhà trường mà còn
trong cuộc sống nói chung. Trước hết, môn Tập đọc giúp cho học sinh rèn kĩ
năng đọc đúng, ngắt giọng, nhấn giọng, đọc diễn cảm một bài văn, khổ thơ làm
tiền đề cho việc tìm hiểu bài. Các quá trình đó có liên quan mật thiết với nhau,
bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được tri thức văn
hóa của dân tộc, tiếp thu nền văn minh của loài người thông qua sách vở, biết
đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Qua hoạt động học, tình cảm thẩm mĩ của các
em được nâng cao nên tầm hiểu biết để nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình
nhận thức của các em có chiều sâu hơn. Đọc đúng, đọc hay cũng là kĩ năng của
ngôn ngữ văn học. Qua đó có tác dụng giáo dục tình cảm, đạo đức cao đẹp cho
người học sinh. Đồng thời phát huy óc sáng tạo và khả năng tư duy như quá
trình phân tích tổng hợp cho các em. Mặt khác, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ


rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Đọc là một hoạt động của lời nói, là quá trình
chuyển dạng chữ viết sang lời nói âm thanh, là quá trình chuyển tiếp hình thức
chữ viết thành đơn vị nghĩa không có âm thanh.
Cả hai hình thức trên đều không thể tách rời nhau. Chính vì vậy, dạy đọc
có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học. Nó đã trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên
đối với người đi học. Đọc là một khả năng không thể thiếu đựơc của con người
trong thời đại văn minh.
Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ và rèn đọc
tiếng mẹ đẻ, thực tế hiện nay ngành giáo dục nói chung và bậc tiểu học nói

riêng, đã và đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy học đối với tất cả các môn
học trong đó có môn Tập đọc. Hiện nay ở nhà trường Tiểu học, việc rèn luyện
kỹ năng đọc đạt kết quả chưa cao. Có thể có nhiều nguyên nhân, song nguyên
nhân lớn nhất có lẽ là cách thức về phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng.
Thực tế nếu không có kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học các
môn khác, không thể tiếp thu nền văn minh của loài người. Vì vậy việc dạy đọc
cho học sinh có ý nghĩa to lớn. Thông qua dạy đọc, giáo viên giúp cho học sinh
đọc đúng, đọc hay và bồi dưỡng cho các em cái hay cái đẹp trong cuộc sống.
Giáo viên phải đặc biệt coi trọng và chú ý đến việc dạy văn kết hợp với việc dạy
ngữ cho học sinh tiếng mẹ đẻ một cách toàn diện. Dạy đọc đúng với dạy đọc
hay, dạy đọc (ngôn ngữ) với dạy (văn học). Đó chính là cơ sở dạy học cho học
sinh trưởng thành và phát triển cả về trí tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức.
Với học sinh lớp 1 các em bước đầu biết đọc thì giáo viên cần hướng dẫn, đọc
đúng, đọc nhanh, đọc lưu loát trôi chảy.
Với chương trình thay sách Tiếng Việt Tiểu học, tôi đã và đang từng bước thực
hiện nhiệm vụ dạy tốt môn Tiếng Việt trong đó có có phân môn Tập đọc. Từ đó
người giáo viên thấy rõ và xác định được việc dạy học tập đọc cho học sinh Tiểu
học nói chung học sinh lớp 1 nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết. Giáo
viên phải tìm phương pháp tiếp cận làm cho học sinh có cảm tình với bài đó,
thúc đẩy học sinh biểu lộ tình cảm, thái độ tự nhiên thông qua giọng đọc.
Trong thực tế hiện nay, để thực hiện được vấn đề này, người giáo viên
phải thay đổi cách dạy để các em có thể nắm bắt được tri thức - thực hiện việc
dạy theo hướng đổi mới.Mặt khác việc dạy đọc đúng cho học sinh đã có từ lâu
và cũng có nhiều tài liệu đề cập đến. Tất cả đều khẳng định vai trò quan trọng
của việc dạy đọc đúng - đọc hiểu cho học sinh. Vì vậy trong quá trình dạy phân
môn này giáo viên cần quan tâm đến tất cả các yếu tố cấu thành chất lượng phân


môn tập đọc và đặc biệt là việc dạy đọc đúng cho học sinh phải được coi trọng.
Thông qua việc dạy đọc đúng giúp các em hiểu được văn bản, tiếp thu và chiếm

lĩnh kiến thức.
Mặc dù lâu nay các thầy cô giáo đã và đang thực hiện việc rèn đọc đúng
cho học sinh, nhất là đối với học sinh Tiểu học nhưng điều đó vẫn còn bị hạn
chế.Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 1 tôi thấy được
quá trình dạy đọc đúng cho học sinh Tiểu học là rất quan trọng. Bởi vì các em
đều là học sinh mới làm quen với bài mới. Nhưng nếu được quan tâm rèn luyện
đọc thì các em sẽ đọc tốt. Thực tế khảo sát chất lượng phân môn tập đọc đầu
năm của học sinh cho ta thấy học sinh phát âm còn ngọng, hay sai phụ âm đầu
vần và dấu thanh. Học sinh thường phát âm sai phụ âm: l, n, ch, tr và các thanh
hỏi – ngã. Giáo viên dựa trên hướng dẫn của sách giáo khoa để tổ chức lớp bằng
phương thức giáo viên hỏi- học sinh trả lời. Chính vì vậy mà đã bộc lộ nhiều
nhược điểm trong việc quản lí lớp cũng như khả năng kích thích hứng thú học
tập của học sinh tham gia tìm hiểu xây dựng bài. Đặc biệt là việc rèn luyện kĩ
năng đọc cho học sinh còn hạn chế học sinh không quan tâm tới phương pháp
đọc của mình. Do đó, các em rất yếu về năng lực đọc.
Chính vì vậy, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi rất băn khoăn những
vấn đề tồn tại trên. Vậy tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 1 qua môn Tập đọc” với mong muốn nâng cao trình
độ nghiệp vụ nhằm giúp học sinh biết đọc đúng, hay và ngày càng hứng thú đọc
sách.
Khi viết đề tài này tôi đã phát huy tất cả những kiến thức được học, được
bồi dưỡng qua các lớp học chuyên môn và học hỏi kinh nghiệm của đồng
nghiệp. Đặc biệt là kinh nghiệm thực tế qua các giờ dạy mà đối tượng chính là
học sinh của mình. Do đó, tôi muốn đưa ra những phương pháp đặc trưng ở góc
độ chủ quan mà tôi đã tiếp thu được trong quá trình tập của mình.Là một giáo
viên dạy lớp 1 của trường,tôi luôn luôn trăn trở về kết quả học tập của học sinh
lớp 1. Nếu các em không đọc thông viết thạo thì các em làm toán cũng rất khó
khăn và học các môn học khác cũng rất chậm, như vậy các em học lên các lớp
trên sẽ bị hỏng kiến thức. Từ thực tế đó tôi rút ra kết luận nếu các em lớp 1
không đọc thông viết thạo thì sẽ không học tốt các môn học khác.Vì vậy tôi đã

chọn đề tài: Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1.


II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU.
Trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX có rất nhiều giáo trình nói về đọc
diễn cảm. Các tác giả của các công trình nghiên cứu chia làm hai phái.
Một phái theo khuynh hướng ngữ văn, cho rằng nhiệm vụ chính của đọc
diễn
cảm là nâng cao trình độ ngôn ngữ văn hóa của học sinh và làm cho các giờ
học tiếng mẹ đẻ trở nên sinh động. Còn phái thứ hai đi theo khuynh hướng
nghệ thuật tâm lý. Họ cho rằng đọc diễn cảm là nghệ thuật đọc và cho rằng
nhiệm vụ hàng đầu là giáo dục thẩm mĩ.
Tác phẩm thể hiện khuynh hướng nghệ thuật – tâm lý điển hình nhất là
tác phẩm của E.V. Iagovixki “Đọc điễn cảm là một phương tiện giáo dục
thẩm mĩ” (Lêningrat 1963, xuất bản lấn thứ hai). G.P.Phia Xốp. Đó là một tác
phẩm nghiên cứu âm thanh và ngữ điệu của ngôn ngữ trong các giờ học tiếng
Nga (Maxcơva, 1959).
Quyển sách của L.A Gorbusina “Đọc diễn cảm và kể chuyện của các thầy giáo”
(Maxcơva, 1965) dành cho thầy giáo cấp I. Tác phẩm đề cập đến:thuật đọc và
các bài tập, các quy tắc phát âm chuẩn mực, các thành phần
của ngữ điệu, vấn đề đọc diễn cảm và các hình thức kể chuyện khác nhau.
Theo tác giả Lê Phương Nga trong cuốn “ Phương pháp dạy học Tiếng
Việt ở tiểu học” (2006) NXB ĐHSP đã cho rằng: Đọc diễn cảm ở đây được
hiểu là đọc hay, là một yêu cầu đặt ra khi học những văn bản văn chương
hoặc các yếu tố của ngôn ngữ văn chương.
Đọc diễn cảm phản ánh cách hiểu bài văn, bài thơ và việc hiểu là cơ sở
để đọc diễn cảm. Vì vậy, đọc diễn cảm trước hết phải xác định nội dung,
nghĩa lý của bài đọc, sắc thái tình cảm, cảm xúc, giọng điệu nói chung của
bài.
Trong cuốn “Phương pháp đọc diễn cảm (2007) – Hà Nguyễn Kim

Giang – NXB ĐHSP khẳng định: “Đọc diễn cảm, hoạt động đọc nói chung là
hoạt động lao động sáng tạo. Đọc diễn cảm là một quá trình bao gồm quá
trình tiếp nhận văn bản viết và quá trình thông báo, truyền đạt những văn bản
viết thành văn bản đọc. Đó là quá trình tái tạo, chuyển đổi nội dung ý nghĩa
nghệ thuật của văn bản thành âm thanh, nhịp điệu, tốc độ, sự ngừng nghỉ và
sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ và thái độ thẩm mĩ của người đọc.”
Trên tạp chí “Văn học tuổi trẻ” số 9/(2006)NxbGD – Bộ GD và ĐT có
viết: “Muốn đọc diễn cảm một văn bản phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ


điệu, phù hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc
điểm của nhân vật hay tình cảm thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội
dung miêu tả.”
Việc nghiên cứu phương pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học
sinh ở bậc Tiểu học không còn là vấn đề mới mẻ, nó đã được đề cập một cách
khách quan hay cụ thể trên các bài báo, tạp chí, trong các công trình khoa học
và các cuốn sách như: “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học”–
Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Thị Thu Hương; “Dạy học Tập đọc ở Tiểu
học”– Lê Phương Nga; “Nghệ thuật đọc diễn cảm”– Vũ Nho; “Phương pháp
dạy học Tiếng Việt”– Nguyễn Trí, Lê Phương Nga ; “Tìm vẻ đẹp bài văn ở
Tiểu học”– Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hoàn ;Trên Tạp chí: “Dạy và học
ngày nay” (số 7 – 2008); “ Dạy học Tập đọc ở lớp 4 và việc hướng dẫn học
sinh đọc đúng chỗ ngắt giọng”; hay “Báo văn học và tuổi trẻ”( số 9 (123) –
2006) ; Các cuốn “Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt”- Nguyễn Minh Thuyết;
Các chuyên đề “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm” của các giáo viên Tiểu học …
Mỗi ý kiến, quan niệm, công trình nghiên cứu đều đề cập sâu sắc một khía
cạnh nhất định, tuy nhiên không có phương pháp nào là khuôn mẫu và tuyệt
đối cho mọi đối tượng học sinh.
Từ trước tới nay, lý luận dạy học đã từng chỉ ra rằng, nội dung quyết
định phương pháp dạy học. Trên cơ sở nội dung bài học, giáo viên lựa chọn

phương pháp. Điều đó hoàn toàn đúng, song thực tiễn lại cho thấy rằng, đối
tượng học sinh mới là cơ sở quan trọng và quyết định tới phương pháp dạy
học. Đối tượng học sinh như thế nào sẽ phải có phương pháp dạy học cho
thích ứng. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay,
dạy học sát đối tượng trở thành yêu cầu bắt buộc mà mỗi giáo viên trong các
nhà trường phải thực hiện.
Thông qua đề tài này, tôi không có tham vọng đưa ra một phương pháp
dạy học mới hay một sự cải cách nào đó về nội dung giờ dạy Tập đọc nói
chung và dạy đọc diễn cảm nói riêng, mà chỉ đưa ra một vài ý kiến của bản
thân.


III. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
1. Mục đích:
Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm ra phương pháp
và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng lực
đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh.
-Về đọc đúng: Học sinh đọc đúng các phụ âm đầu vần, thanh, đọc đúng tiếng từ,
câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ.
-Đọc hay, đọc diễn cảm: Học sinh khi đọc bài văn, bài thơ phải biết ngắt nghỉ
đúng các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm. Khi đọc biết lên
giọng, hạ giọng ở những câu văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai.
-Học sinh hiểu được nội dung văn bản và thể loại (văn xuôi hay thơ), từ đó học
sinh có thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống.
- Tìm ra biện pháp đọc đúng, đọc hay, tốt nhất để giúp học sinh học tốt phân
môn Tập đọc lớp ....
- Giúp học sinh yêu thích phân môn Tập đọc, phát huy khả năng học Tiếng Việt
để từ đó tiếp thu tốt các môn học khác.
- Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt nói riêng và chất
lượng giáo dục trong nhà trường nói chung.

Thông qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn
học, hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao tiếp
nhằm góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển
toàn diện về mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh
2. Đối tượng nghiên cứu.
2.1 Thực trạng:
a. Đối với giáo viên:
Giáo viên tự học hỏi kinh nghiệm và phương pháp truyền thụ ở những đồng
nghiệp có kinh nghiệm trong giảng dạy về những điểm hợp lý và chưa hợp lý.
Phải xem các giáo viên thường sử dụng phương pháp gì trong quá trình rèn đọc
đúng và đọc diễn cảm.
Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên với chương trình thử
nghiệm 2000 để rút ra những phương pháp tối ưu nhất.
Thường xuyên dự giờ thăm lớp các đồng nghiệp để học tập và rút kinh
nghiệm cho bản thân.
Tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ và tham dự các chuyên đề
do trường, phòng giáo dục tổ chức để đưa ra các phương pháp cải tiến. Trên cơ


sở phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy truyền thống áp dụng vào dạy
học theo hướng đổi mới phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
Dạy một số giờ theo sách thử nghiệm để giáo viên trong tổ và chuyên môn
trường dự giờ góp ý.
Thường xuyên tiến hành khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc hàng tháng,
kỳ khi mà học sinh đã được rèn đọc để so sánh thấy được hiệu quả của phương
pháp mới.
b. Đối với học sinh:
Học sinh trong lớp phải đủ sách giáo khoa Tiếng Việt tập 1 và tập 2 của
chương trình Tiểu học 2000. Có đủ vở Bài tập Tiếng Việt – Bài tập Tiếng Việt
nâng cao để phục vụ cho học sinh học phân môn Tập đọc.

*) Giả thiết khoa học:
Đối với phân môn Tập đọc, muốn học tốt học sinh phải có kỹ năng đọc và
hiểu nội dung bài, giá trị nghệ thuật của bài. Từ đó học sinh biết cách thể hiện
cảm xúc của giọng đọc một cách đúng mức.
Khi đã được trang bị năng lực đọc, kỹ năng đọc tốt, học sinh sẽ ham thích
tìm hiểu, biết bộc lộ tình cảm một cách đúng mức trong cuộc sống xã hội.
Ngoài ra để học tốt các em cần phải có vốn ngôn ngữ phong phú, đa dạng.
Có như vậy các em sẽ có đủ điều kiện học tốt các môn học khác.
Dạy học tốt phân môn Tập đọc còn giúp học sinh có một vốn ngữ chuẩn
mực để tiếp thu tri thức khoa học và tự nhiên xã hội.
Nhiều tài liệu và các chuyên gia nghiên cứu đã nhận định: Dạy - Học tốt
phân môn Tập đọc sẽ tạo tiền đề cho các em bước vào lĩnh vực khoa học một
cách vững chắc.
2.2 Biện pháp:
Để đạt được mục đích rèn đọc cho học sinh tôi đã sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, phỏng vấn và trao đổi trực tiếp với học
sinh, giáo viên, dùng phiếu thăm dò.
- Phương pháp trao đổi và toạ đàm với đồng nghiệp.
- Tìm kiếm sự hỗ trợ, tư vấn của các nhà nghiên cứu về Tiếng Việt, viết sách
Tiếng Việt Tiểu học.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài, tìm hiểu sách giáo
khoa Tiếng Việt 2, sách giáo viên.
- Dạy thực nghiệm.


- Kiểm tra đánh giá sau thực nghiệm.
- Tổng kết, đánh giá.
3. Phạm vi nguyên cứu.
3.1 Nội dung nghiên cứu:

Để tiến hành làm đề tài này, tôi đã nghiên cứu sách giáo khoa phân môn
Tập đọc lớp 1 để tìm hiểu nội dung, cấu trúc của chương trình. Tìm hiểu việc
dạy và học của các em có hệ thống nội dung bài học (nội dung sách giáo khoa
thử nghiệm Tiếng Việt Tiểu học 2000). Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn dành cho
giáo viên của môn Tiếng Việt trong đó có phân môn Tập đọc lớp 1. Nghiên
cứu .rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy để rút ra những điều cần thực hiện.
Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến môn Tiếng Việt nhất là phân môn
Tập đọc.
3.2 Thời gian:
Từ tháng ..... năm 2018 - tháng .... năm 2018
3.3 Đối tượng nghiên cứu:
Ở đề tài này tôi tập trung nghiên cứu các đối tượng là học sinh lớp 1
trường Tiểu học Minh Phú ( huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội )


B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Cơ sở lý luận:
Sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết.
Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt các em.
Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ và rèn đọc
cho các em học tiếng mẹ đẻ. Hiện nay, ngành Giáo dục nói chung và bậc Tiểu
học nói riêng, đã và đang tiến hành phương pháp dạy học đối với tất cả các môn
học trong đó có môn Tập đọc. Mặt khác, tập đọc là một phân môn mang tính
tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi kiến thức về Tiếng
Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho học
sinh. Phân môn Tập đọc góp phần hình thành và phát triển kỹ năng đọc cho học
sinh bằng một trong bốn kỹ năng cơ bản mà học sinh Tiểu học cần phải nắm
vững. Hiện nay, ở nhà trường Tiểu học, việc rèn kỹ năng đọc đạt kết quả chưa
cao. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất là cách

thức về phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng. Trên thực tế, nếu không có
kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học các môn học khác, không
thể tiếp thu tri thức của nhân loại. Vì vậy, việc dạy đọc cho học sinh có ý nghĩa
to lớn. Thông qua dạy đọc, giáo viên giúp học sinh đọc đúng, đọc hay và bồi
dưỡng cho các em cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. Giáo viên phải đặc biệt coi
trọng và chú ý đến việc dạy văn kết hợp với dạy ngữ cho học sinh học tiếng mẹ
đẻ một cách toàn diện. Dạy đọc đúng với dạy đọc hay, dạy đọc “ngôn ngữ” với
dạy đọc “văn học”. Đó chính là cơ sở dạy học cho học sinh trưởng thành và phát
triển cả về trí tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức.
Với học sinh lớp 1, các em bước đầu biết đọc thì giáo viên cần hướng dẫn
đọc đúng, đọc nhanh, đọc lưu loát trôi chảy. Với học sinh lớp 3, giáo viên yêu
cầu cao hơn nữa. Không chỉ đọc đúng, đọc nhanh mà còn phải đọc diễn cảm,
đọc phải thể hiện được nội dung tình cảm của bài. Để từ đó các em có thể bộc lộ
tình cảm của mình qua mỗi bài đọc một cách khác nhau. Với chương trình thử
nghiệm Tiếng Việt Tiểu học 2000, tôi đã và đang từng bước thực hiện nhiệm vụ
dạy tốt môn Tiếng Việt, trong đó có phân môn Tập đọc. Từ đó người giáo viên
thấy rõ và xác định được việc dạy học tập đọc cho học sinh Tiểu học nói chung
và học sinh lớp 1 nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết. Chúng ta phải làm
thế nào để thông qua môn Tập đọc giúp học sinh không những đạt được năng


lực đọc mà phải hiểu nội dung của văn bản và các thể loại từ văn xuôi đến thơ
ca. Hiểu được ý đồ của tác giả và bút pháp nghệ thuật mà mỗi tác giả đã thể hiện
trong tác phẩm. Hay nói một cách khác, giáo viên phải tìm phương pháp tiếp cận
làm cho học sinh có cảm tình với bài đó, thúc đẩy học sinh biểu lộ tình cảm, thái
độ tự nhiên thông qua giọng đọc.
Trong thực tế hiện nay, để thực hiện được vấn đề này, người giáo viên phải
thay đổi cách truyền thụ để các em có thể nắm bắt được tri thức, thực hiện việc
dạy theo hướng đổi mới.
Mặt khác, việc dạy đọc cho học sinh đã có từ lâu và cũng có nhiều tài liệu

đề cập đến. Tất cả đều khẳng định vai trò của việc dạy đọc - đọc hiểu - đọc diễn
cảm cho học sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy phân môn Tập đọc, giáo viên cần
quan tâm đến tất cả các yếu tố cấu thành chất lượng phân môn Tập đọc và đặc
biệt là việc dạy đọc cho học sinh phải được coi trọng. Thông qua việc dạy đọc
giúp các em hiểu văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức. Biết đọc diễn cảm là
thể hiện được những cảm xúc, tình cảm theo từng nội dung.Trong xã hội hiện
nay rất nhiều người nói về giáo dục, về chất lượng học sinh lên lớp,về những
học sinh ngồi nhầm lớp từ khi có cuộc vận động “ hai không” của Bộ trưởng Bộ
giáo dục. Tôi không khỏi suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để“sản phẩm”
của mình phải có chất lượng, những lí do trên đã thôi thúc tôi cần phảicó kế
hoạch và biện pháp cụ thể góp phần đưa chất lượng học sinh trong nhà trường
đạt hiệu quả tốt.
2. Cơ sở thực tiễn:
Mặc dù lâu nay các thầy cô giáo đã và đang thực hiện viậc rèn đọc đúng,
đọc diễn cảm cho học sinh, nhất là đối với học sinh tiểu học, nhưng điều đó vẫn
còn bị hạn chế.
Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 1 với
chương trình Tiểu học 2000, tôi thấy được quá trình dạy đọc đúng - đọc diễn
cảm cho học sinh Tiểu học là rất quan trọng. Đối với học sinh lớp 4-5, việc đọc
diễn cảm và đọc đúng đã là vấn đề khó thì đối với học sinh lớp 1 lại càng khó
hơn nhiều. Bởi vì các em đều là học sinh mới bắt đầu đến trường, việc làm quen
với các con số và mặt chữ còn khó khăn thì việc đòi hỏi các em đọc đúng, đọc
diền cảm lại càng khó.Nhưng nếu được quan tâm rèn luyện thì các em dần dần
sẽ tiếp thu được.
Thực tế khảo sát chất lượng của phân môn Tập đọc đầu năm của học sinh
cho thấy, học sinh phát âm sai rất nhiều, phổ biến là sai các phụ âm đầu, vần và


dấu thanh. Học sinh thường phát âm sai phụ âm đầu l/n, ch/tr, s/x và các thanh
hỏi – ngã. Học sinh đọc bài chưa biết ngắt nghỉ dấu chấm, dấu phẩy trong một

bài văn, bài thơ. Các em chưa biết đọc diễn cảm, hạ giọng hay kéo dài giọng…
ở câu thơ, câu văn nào để người nghe cảm thấy cái hay của bài thơ hoặc bài
văn đó.
Về giáo viên, việc rèn cho học sinh kỹ năng đọc còn có một số hạn chế cần
khắc phục. Hơn nữa quy trình phân môn Tập đọc thử nghiệm Tiểu học 2000 còn
mới mẻ nên tôi phải vừa làm, vừa tìm tòi học hỏi để tự bồi dưỡng bản thân,
trang bị cho mình một vũ khí sắc bén để dạy học đạt kết quả cao. Là một giáo
viên, tôi không thể không lo ngại trước kết quả khảo sát phân môn Tập đọc của
lớp 1A.
Cụ thể đầu năm 2009 – 2010 tôi tiến hành khảo sát như sau:
TSHS/2
7

Đọc ngọng

Đọc
p/âm

TS

%

TS

15

12

Khảo
sát đầu 4

năm

sai

Đọc sai dấu Đọc đúng

Đọc
cảm

diễn

%

TS

%

TS

%

TS

%

44

3

11


8

30

0

0

Xuất phát từ cơ sở lý luận và trước thực tế trên của lớp thì với yêu cầu của
chương trình thực nghiệm môn Tiếng Việt tiểu học 2000. Tôi có băn khoăn suy
nghĩ là phải làm gì và làm như thế nào để các em phát âm chuẩn, đọc đúng, đọc
diễn cảm.
Với đề tài này, tôi mạnh dạn trình bày một số phương pháp rèn kỹ năng đọc
cho học sinh lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy đọc. Khi viết đề tài này tôi
đã phát huy tất cả kiến thức được học, được bồi dưỡng qua các lớp học chuyên
môn và học hỏi, kế thừa kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước. Đặc biệt là kinh
nghiệm thực tế qua các giờ dạy mà đối tượng chính là học sinh của mình. Do đó
tôi muốn đưa ra những phương pháp đặc trưng ở góc độ chủ quan mà tôi đã tiếp
thu được trong đợt bồi dưỡng hè 2004. Từ nhận thức trên, bản thân tôi đã rút ra
bài học “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 thông qua môn Tập đọc”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Tổng quan
Học sinh Tiểu học ở độ tuổi 6-12 tuổi là giai đoạn phát triển mới của tư
duy. Ở lứa tuổi này trẻ em có những đặc điểm riêng, đó là tri giác của các em


còn mang tính trực quan cụ thể vì kinh nghiệm sống của các em còn hạn chế. Vì
thế, trẻ thường lẫn các đối tượng có hình dạng hay cách phát âm các âm, tiếng,
từ na ná giống nhau, chưa biết phân biệt đâu là đúng, là sai. Ở lứa tuổi học sinh

Tiểu học, các em chủ yếu học và chơi. Đây là hai hoạt động đan xen nhau. Trẻ
em nặng tính hồn nhiên, ngây thơ trong sáng. Các em dễ tin và nghe lời thầy cô,
tin vào khả năng học tập của chính bản thân các em, tin vào những điều nhà
trường, gia đình, xã hội đã dạy dỗ các em nên người. Ở lứa tuổi này tâm lý của
các em là thích được khen hơn chê, cho nên khi các em đọc bài tốt, đạt điểm
cao, được thầy cô khen, bạn bè quý mến các em rất thích. Vì vậy người giáo
viên Tiểu học phải nắm bắt được tâm sinh lý học sinh Tiểu học. Do đó khi
nghiên cứu đề tài sử dụng phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua môn Tập
đọc là rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em.
2. Nội dung vấn đề nghiên cứu
2.1. Các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua:
Hội thảo Quốc gia về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học đã đề ra các
quan điểm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học, cụ thể là:
Quán triệt và vận dụng hợp lý mục tiêu của giáo dục Tiểu học trong mọi
trường học ở bậc Tiểu học.
Trong mọi hoạt động dạy học phải đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội phát triển
năng lực và sở trường của từng học sinh hay là quan điểm của dạy học cá thể
hoá.
Đổi mới quá trình dạy học, phương pháp dạy học là một quá trình lâu dài
nó gắn liền với đổi mới mục tiêu nội dung, cơ sở vật chất để phù hợp với điều
kiện từng địa phương. Đưa các hình thức tổ chức dạy học mới vào trường Tiểu
học tạo điều kiện cho giáo viên có thể tổ chức dạy học mới theo các hình thức đã
và đang được triển khai ở một số địa phương.
Với đề tài này cho phép các nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều phương
diện ở nhiều góc độ, tiếp cận trong các phạm vi lớn nhỏ, ở những địa phương có
đặc thù khác nhau.
Thông qua kết quả của việc điều tra, khảo sát chất lượng bộ môn Tập đọc
lớp 1; tìm hiểu kinh nghiệm đúc kết của giáo viên trực tiếp giảng dạy thông qua
việc nghiên cứu chương trình, tài liệu để có phương pháp rèn kỹ năng đọc cho
học sinh các lớp 1 nói riêng đạt kết quả cao nhất.



2.2. Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa:
Qua việc nghiên cứu một số tài liệu Sư phạm tôi đã rút ra một số điểm đáng
lưu ý như sau:
- Giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” trong các phương pháp dạy
Tập đọc có phương pháp trực quan và phương pháp luyện tập là hết sức quan
trọng. Trực quan không chỉ là tranh ảnh hay vật thực mà nó còn là giọng đọc
mẫu của giáo viên - một hình thức sinh động và có hiệu quả. Giáo viên phải đọc
đúng thể loại, đúng ngữ điệu, biểu hiện tình cảm qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
Bên cạnh đó còn hình thức trực quan thứ hai là ghi các tiếng khó, câu khó, đoạn
khó đọc vào bảng phụ để học sinh tri giác cụ thể hơn. Giáo viên cần chép rõ
ràng và hướng dẫn tỉ mỉ. Đó chính là các hình thức trực quan rất cần thiết cho
việc rèn đọc. Các em có đọc đúng thì mới có thể viết được đúng. Ở phương pháp
luyện tập sẽ có các quá trình luyện tập là: đọc đúng âm, tiếng, câu; biết ngắt
nghỉ đúng chỗ khi đọc. Giọng đọc phải thể hiện qua bài văn hay bài thơ và thể
hiện cảm xúc qua nội dung bài đọc. Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách
hiểu sai nghĩa hoặc ít ra một cách đọc không để ý đến nghĩa.
Vì vậy, đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đọc đúng nói riêng vừa
là mục đích của việc dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh
chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Bài này chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ pháp của
chỗ ngắt giọng, chỗ cần phát âm đúng. Thực tế học sinh lớp 1 luyện đọc đúng
là nhiệm vụ trọng tâm bởi theo chương trình Tập đọc trong sách Tiếng Việt 1
chỉ có 13 tuần bao gồm cả nội dung ôn tập và thi. Bên cạnh đó học sinh vừa
chuyển từ phần vần sang tập đọc thì mục tiêu chính là giúp các em nhận diện
chữ để đọc đúng, đọc trôi chảy lưu loát, biết ngắt nghỉ hơi hợp lý, lưu ý cả
cách đọc nhấn giọng.
- Giáo trình “Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt”. Muốn rèn cho các em có kỹ
năng, phương pháp đọc tốt thì trước tiên giáo viên cần phát hiện những nguyên
nhân dẫn đến đọc sai, từ đó áp dụng các cách thức, các kỹ năng sử dụng Tiếng

Việt trong quá trình áp dụng qua việc nghiên cứu để hướng dẫn học sinh.
Việc áp dụng ngữ điệu đọc phù hợp làm tiêu chuẩn tức là cách xác định
chính xác tiết tấu của giọng đọc, nhịp điệu đọc, cường độ, độ cao, sắc thái giọng
đọc, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ trong khi đọc để người nghe dễ hiểu, cảm nhận
được cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ.
Về tốc độ âm lượng đọc: Mỗi bài Tập đọc có tốc độ âm lượng đọc khác
nhau. Như vậy người giáo viên cần phải nắm chắc các kỹ thuật trên để làm mẫu


cho học sinh và hướng dẫn truyền thụ lại cho các em những kỹ thuật đó. Khi học
sinh đã hoàn chỉnh các kỹ thuật trên cũng chính là đã đạt đỉnh cao của phương
pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học.
Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1:
Chương trình Tiếng Việt 1 chia thành 3 phần cơ bản.
+ Học vần: Chữ cái: Tuần 1 - Tuần 6
Vần : Tuần 7 - Tuầm 24
+ Tập đọc: Tuần 25 - Tuần 35.
Chương trình Tập đọc lớp 1 bao gồm cả phần nội dung kiến thức mới và nội
dung kiến thức ôn tập là 13 tuần. Trong đó cũng được phân thành các chủ đề
sau:
+ Chủ đề nhà trường
: 4 tuần
+ Chủ đề gia đình
: 4 tuần
+ Chủ đề thiên nhiên - Đất nước: 4 tuần
Riêng tuần 35 dành cho phần ôn tập và kiểm tra.
Các bài Tập đọc được xếp theo chủ đề gần gũi, đan xen, kết hợp, phân bố
rất hợp lý.
Nội dung là những bài văn, bài thơ, những câu chuyện ngắn, hay, hấp dẫn,
gắn với cuộc sống sinh hoạt của các em.

Đặc biệt ở mỗi bài Tập đọc thường có tranh minh hoạ với màu sắc đẹp,
hình ảnh sinh động phù hợp với nội dung từng bài.
2.3. Những vấn đề thực tiễn:
Tôi tiến hành điều tra trường Tiểu học An Sinh A - Đông Triều:
2.3.1. Về giáo viên:
Phương thức điều tra giáo viên bằng phiếu thăm dò: Đánh dấu vào ô trống
theo đồng chí là đúng, là thường thực hiện dạy tập đọc hoặc nêu hình thức mà
giáo viên thường làm.
Câu 1: Đồng chí cho biết trong một giờ Tập đọc ở lớp 1, đồng chí đã rèn đọc
cho học sinh như thế nào, hãy kể cách làm cụ thể?
Câu 2: Trong một giờ Tập đọc, đồng chí đã chú ý đối tượng học sinh nào?
Đồng chí hãy đánh dấu x vào ô trống mà đồng chí cho là đúng:
Học sinh khá – giỏi
Học sinh trung bình
Học sinh yếu kém


Câu 3: Trong số hình thức dạy học sau đây, đồng chí thường chọn những
hình thức nào? Hãy đánh dấu x vào ô mà đồng chí cho là đúng:
Dạy học cá nhân
Dạy học theo nhóm
Dạy học cả lớp
Hình thức dạy học nào là quan trọng nhất (ghi cụ thể tên hình thức dạy đó).
Câu 4: Đồng chí hãy kể tên những phương pháp mà đồng chí đã vận dụng để
dạy một giờ Tập đọc cho học sinh lớp 1.
*Thực trạng của giáo viên:
a. Ưu điểm:
Thực tế dạy học ở trường tiểu học An Sinh A cho thấy: Giáo viên đã tìm
hiểu kỹ bài dạy và truyền đạt đủ kiến thức cơ bản theo yêu cầu sách giáo khoa
với việc phát huy tính tích cực của học sinh. Họ dành thời gian cho học sinh làm

việc với sách giáo khoa. Kết hợp nhiều phương pháp trong một tiết dạy như:
giảng giải trực quan, vấn đáp, gợi mở để dẫn dắt học sinh tìm ra kiến thức. Giáo
viên luôn có sự chuẩn bị đồ dùng trực quan.
b. Một số tồn tại:
Khi dạy một tiết Tập đọc, nhiều giáo viên chưa thực sự chú ý rèn đọc cho
học sinh khi học sinh đọc sai. Số ít giáo viên chưa chú ý tới việc luyện cách đọc
một câu văn dài, học sinh đọc còn gặp nhiều khó khăn.
Hầu hết các tiết dạy về Tập đọc, khi sử dụng các hình thức trực quan thì chỉ
dừng ở chỗ giáo viên làm động tác minh hoạ hoặc đưa ra vật thực. Một số bài
dạy chay không phóng to được hình vẽ. Nhiều khi ác tranh đưa ra còn hạn hẹp,
kém về hình thức. Điều này không gây được hứng thú học tập cho các em. Do
tập tục địa phương nên các em rất hay đọc ngọng phụ âm l/n, ch/tr, s/x và ngọng
về dấu hỏi – ngã.
Mặt khác, số ít giáo viên chưa chú ý cho học sinh cách đọc đúng nhịp điệu
thơ, đọc ngắc ngứ những câu văn dài. Trong khi tìm hiểu nội dung bài, một số
giáo viên dành nhiều thời gian để giảng giải, đàm thoại (thầy hỏi – trò suy nghĩ,
sau đó gọi 1 – 2 em lên trả lời). Vì vậy, giáo viên chưa kiểm soát được số đông
học sinh trong lớp và dành nhiều thời gian hợp lý cho các em hoạt động tự tìm
kiếm, lĩnh hội kiến thức theo khả năng của mình.
* Nguyên nhân:


Nguyên nhân của một số tồn tại kể trên là do giáo viên chưa nghiên cứu kỹ
nội dung của sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy để từ đó chọn phương
pháp dạy và nội dung dạy học một cách thích hợp nhất.
2.3.2. Thực trạng của học sinh:
Tôi đã tiến hành điều tra học sinh lớp 1A tổng số là 27 em.
Phương thức điều tra 1: Bằng hình thức thăm dò điền vào dàn ý, vào ô trống mà
em cho là đúng hoặc hình thức lựa chọn từ thích hợp để điền vào ô trống.
Câu 1: Điền vào chỗ trống n hoặc l.

Cây ….úa, ……ấu cơm, ……ăn tròn.
Câu 2: Điền vào chỗ trống chao hay trao.
………… ơi!, …………giải thưởng.
Câu 3: Điền vào chỗ trống n hoặc ng.
Cây bà……., bà….. ghế.
Điều tra kết quả phương thức 1:
Câu 1: 65,5% học sinh trả lời đúng.
Câu 2: 87% học sinh trả lời đúng.
Câu 3: 50% học sinh trả lời đúng.
Từ kết quả điều tra phương thức trên tôi thấy học sinh đọc sai nhiều nhất là
phụ âm l/n, s/x. Hai phụ âm này học sinh hay đọc sai, trong đó có một phần lỗi
học sinh chưa chú ý và giáo viên đọc chưa chuẩn.
Phương thức điều tra 2:
Tôi tiến hành điều tra vào lớp giảng dạy và khảo sát cụ thể qua việc đọc của
từng học sinh.
Qua điều tra thực tế việc đọc của học sinh, tôi thấy thực trạng của học sinh
lớp tôi có ưu nhược điểm sau đây:
Ưu điểm:
Năm học 2009 – 2010, học sinh đã được học nhiều bài Tập đọc bằng giáo án
điện tử tạo điều kiện tốt cho học sinh trong giờ học. Nói chung đa số học sinh
đọc được nội dung bài và bước đầu có kỹ năng đọc đúng. Đã có một số em biết
áp dụng vào giờ ngoại khoá.
Một số em đã biết đọc diễn cảm và có ý thức học tập tốt, hăng hái phát biểu
ý kiến xây dựng bài.
Hạn chế:
Một số em chưa thực sự hiếu học, hay quên đồ dung học tập, chưa chuẩn bị
đầy đủ trước khi đến lớp. Một số học sinh yếu vừa đọc vừa đánh vần, số đông


học sinh khác đọc trôi chảy song chưa biết nhấn mạnh ở các từ ngữ cần chú ý

cũng như cách ngắt nghỉ đúng dấu câu.
Ví dụ: Chỗ ngừng giọng giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa động từ và bổ ngữ.
Đó là chưa kể trong thơ, hầu như người ta đã bỏ các dấu câu, nhiều bài văn xuôi
tác giả không dùng các dấu phẩy như yêu cầu của nhà trường. Đây là nguyên
nhân dẫn đến học sinh không đọc đúng chỗ ngắt giọng ở những câu dài có cấu
trúc ngữ pháp phức tạp.
Ngắt giọng hay là đích của dạy học và cũng là một trong những phương tiện
để dạy tiếp cận, chiếm lĩnh văn bản được đọc. Từ đó các em đọc đúng phụ âm
đầu, ngắt giọng đúng và hay; tôi đã hướng dẫn để các em cảm thụ được nội dung
bài học theo từng chủ điểm. Nhờ đó các em trau dồi cho mình vốn từ phong phú,
cách viết trong sáng, mạch lạc, bố cục chặt chẽ, nội dung hấp dẫn trong phân
môn Tập đọc.
Qua quá trình thực tế dạy Tập đọc cho học sinh lớp 1 nhiều em tiếp thu bài
nhanh, đọc tốt, song vẫn còn tồn tại một số em đọc chưa thạo.
Học sinh lớp 1 Trường Tiểu học Minh Phú, trong không khí xã hội hóa giáo
dục của ngày khai giảng năm học mới, phụ huynh đưa con em đến trường, các
em từ nhiều vùng quê khác nhau theo cha mẹ đến đây lập nghiệp. Tiếng nói địa
phương mang tính chất vùng miền đã để lộ sự giao thoa đến cách phát âm của
một số học sinh trong lớp. Chủ yếu là lẫn lộn phụ âm đầu l/n. Một số em khi
được gọi đọc bài còn mắc nhiều lỗi phát âm, đọc và trả lời các câu hỏi còn nhỏ,
trả lời không đủ câu, đọc kéo dài….Có thể nói, đó là nguyên nhân khách quan
tác động “vô thức” đến một số ít học sinh.
3. Nội dung chương trình dạy tập đọc lớp 1.
3.1. Mục tiêu của việc rèn đọc trong giờ Tập đọc
Môn Tập đọc ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực này được thể hiện thống nhất trong 4
hoạt động tương ứng với chúng là 4 chức năng: nghe, nói, đọc, viết. Như vậy,
đọc là một hoạt động ngôn ngữ là quá trình chuyển dạng thức viết sang lời nói
có âm thanh và thông hiểu chúng. Đọc không chỉ là công việc giải quyết một bộ
mã (gồm 2 phần) chữ viết và âm thanh nghĩa là nó không phải chỉ là sự đánh

vần lên thành tiếng theo đúng như kí hiệu chữ viết, mà còn là quá trình nhận
thức, để có kĩ năng thông hiểu những gì đọc được. Trên thực tế nhiều khi người
ta đã không hiểu khái niệm đọc một cách đầy đủ. Nhiều chỗ, người ta chỉ nói


đến đọc như nói việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyền từ âm sang nghĩa
đã không được chú ý đúng mực.
Phần lớn những tri thức, kinh nghiệm của đời sống những thành tựu văn
hoá khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người
đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con
người không thể tiếp thu được nền văn minh của loài người. Không thể sống
một cuộc sống bình thường, không thể làm chủ trong xã hội hiện đại. Ngược lại,
biết đọc con người có thể dễ dàng tiếp thu nền văn minh của nhân loại. Vì thế,
học có những hiểu biết, có khả năng chế ngự một phương tiện văn học cơ bản
giúp cho họ giao tiếp với thế giới bên trong của người khác, đặc biệt khi đọc bài
(Tập đọc, học thuộc lòng). Con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức, mà còn
rung động tình cảm nảy nở những ước mơ cao đẹp. Đọc khơi dậy tiềm lực hành
động, sức sáng tạo, cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc, con
người sẽ không có điều kiện giáo dục mà xã hội dành cho họ. Họ chỉ hình thành
một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời buổi bùng nổ thông tin, biết đọc
ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người ta sử dụng các nguồn thông tin.
Đọc chính là học nữa, học mãi đọc để tự học, học cả đời.
Chính vì vậy Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Nó
trở thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ
phải học đọc sau đó đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong
giao tiếp và học tập nó cũng là một công cụ để học các môn học khác nó tạo ra
hứng thú và động cơ học tập. Đồng thời nó tạo điều kiện để học sinh có khả
năng tự học. Tập đọc là khả năng không thể thiếu của con người trong thời đại
văn minh. Biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn, hướng các em tới cái
thiện, cái đẹp, dạy cho học sinh biết cách suy nghĩ lô gíc, tư duy có hình

ảnh.Như vậy việc dạy đọc có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì nó bao gồm
nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Ở Tiểu học phân môn Tập đọc có một vị trí rất quan trọng, dạy tốt phân
môn này là đáp ứng một trong bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Đối với học sinh
lớp ......, việc rèn đọc vô cùng quan trọng nó giúp các em hiểu đúng nội dung
văn bản. Giáo dục các em lòng yêu sách trở thành một thứ không thể thiếu được
trong nhà trường và gia đình. Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ và tư duy cho các
em, giáo dục tư tưởng tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ cho các em.Đọc là giáo dục
lòng ham đọc sách hình thành phong cách và thói quen làm việc với sách của
học sinh. Nói cách khác thông qua việc dạy đọc phải giúp cho học sinh thích đọc


và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi cho các em trong cuộc đời, phải làm
cho các em thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một
cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Ngoài việc dạy đọc còn có nhiệm vụ khác như:
- Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, về đời sống và kiến thức về văn học cho học
sinh.
- Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.
- Giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
- Giúp học sinh biết đọc để giao tiếp và giải trí.
3.2Phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Trong thực tế mỗi bài Tập đọc đều có hai phần lớn: Luyện đọc và tìm hiểu
nội dung. Hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc hoặc đan xen vào nhau
hoặc cũng có thể dạy tách theo hai phần. Tuỳ theo từng bài mà giáo viên lựa
chọn, dù dạy như thế nào thì hai phần này luôn có mối quan hệ khăng khít với
nhau, cần tìm hiểu bài giúp học sinh hiểu kĩ nội dung, nghệ thuật của bài. Từ đó
các em đọc đúng, biết đọc ngắt giọng, nhấn giọng để thể hiện nội dung của bài,
thể hiện những hiểu biết của mình xung quanh bài đọc. Vì vậy việc rèn đọc
trong bài Tập đọc rất quan trọng, góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ vào

đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Từ đó góp phần hình thành ở các
em những phẩm chất, nhân cách tốt.
Trong quá trình tìm hiểu bài cho học sinh phải biết tìm hiểu nội dung và
nghệ thuật của từng đoạn. Từ đó mới hiểu được nội dung của từng bài và tìm ra
cách đọc tốt nhất (đọc thầm, đọc thành tiếng). Vì vậy người giáo viên phải từng
bước hình thành cho học sinh cách đọc. Sau khi chia bài thành các đoạn giáo
viên tiếp tục tổ chức, điều khiển, hướng dẫn tìm hiểu nội dung của từng đoạn
bằng phương pháp như: Vấn đáp, trực quan, giảng giải và có thể sử dụng các
loại kĩ thuật khác trong giờ dạy như giải nghĩa từ. Còn với học sinh mỗi đoạn,
mỗi bài là một chủ thể luyện tập, các em phải được suy nghĩ, được nói lên ý
nghĩa đó được luyện trong bài.
Dạy Tập đọc cần dạy sát đối tượng, sát trình độ để đảm bào tính vừa sức.
III. ĐỀ RA GIẢI PHÁP.
1. Một số phương pháp thông dụng nhất.
1.1 Phương pháp trực quan:
Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý, lứa tuổi học sinh. Trực quan
bằng giọng đọc của giáo viên. Giọng đọc mẫu của giáo viên là hình thức trực


quan sinh động và có hiệu quả cao, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc.
Mỗi bài văn, bài thơ viết ở thể loại khác nhau. Có bài giọng đọc náo nức, phấn
khởi; có bài giọng đọc trang nghiêm trầm lắng; có bài giọng đọc ân cần khuyên
nhủ, nghĩa là mỗi bài một vẻ. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại ngữ điệu,
tránh đọc đều đều, không cảm xúc kết hợp biểu hiện tình cảm, qua ánh mắt, nét
mặt, nụ cười. Khi giới thiệu bài nên dùng trực quan bằng tranh ảnh, vật thật giúp
các em háo hức tìm hiểu và cảm thụ bài đọc. Trực quan bằng một đoạn văn chép
sẵn được ngắt theo cụm từ để các em đọc ngắt hơi, nghỉ hơi đúng chỗ. Có thể
trực quan bằng cách nghe giọng đọc hay của học sinh trong lớp.
1.2 Phương pháp đàm thoại
Phương pháp này phù hợp với tâm lí trẻ nhỏ. Các em thích hoạt động ( hoạt

động lời nói) giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài để học sinh trả
lời tìm ra cái hay của tác phẩm. Muốn đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc
diễn cảm trước tiên phải đọc tốt (đọc lưu loát, rõ ràng) và cảm thụ tốt bài văn
bằng những câu hỏi đàm thoại để hiểu phương pháp luyện đọc. Phương pháp
này đựợc dùng chủ yếu trong giờ Tập đọc dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học
sinh luyện đọc nhiều lần.
Phương pháp dùng phiếu bài tập có thể thấy ngay lỗi mà học sinh thường
mắc qua việc yêu cầu học sinh đọc đúng một đoạn văn, thơ ngắn với những âm
thanh, vần dễ lẫn.
Tóm lại để giờ học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải sử dụng linh
hoạt các phương pháp trên một cách hợp lý sao cho giờ học không bị ngắt
quãng, gián đoạn. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn các
em tìm ra cách đọc, luôn lấy học sinh làm trung tâm.
Yêu cầu về kiến thức kĩ năng học sinh cần đạt được sau khi học phân môn
Tập đọc:
Tập đọc là một môn học mang tính chất tổng hợp, vì ngoài nhiệm vụ dạy
đọc nó còn có nhiệm vụ trau rồi kiến thức về Tiếng Việt. Cho nên sau khi học
môn Tập đọc yêu cầu học sinh cần đạt được là:
Rèn kĩ năng đọc (đọc đúng, đọc diễn cảm)
Biết ngắt giọng, nhấn giọng
Cảm thụ tốt bài văn
Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp ....... yêu cầu học sinh phải đọc rõ ràng,
rành mạch. Không đọc lí nhí, giọng quá nhỏ, không dừng lâu quá để đánh vần,
nghỉ hơi ở dấu chấm, dấu phẩy, chỗ cần tách ý. Biết đọc liền các tiếng trong từ


ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra còn biết đọc đúng giọng câu kể, câu
hỏi, câu cảm biết phân biệt lời dẫn chuyện với lời đối thoại. Dù đọc ở mức độ
nào cũng đều yêu cầu phát âm đúng. Khi đọc thầm yêu cầu học sinh phải luyện
thành thói quen để tạo được hứng thú khi đọc sách báo.

Cảm thụ bài đọc đối với học sinh lớp ..... không yêu cầu khai thác sâu, kĩ
bài văn bài thơ mà học sinh chỉ cần nắm được ý để trả lời các câu hỏi.
2 Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua phân môn tập đọc.
Trên cơ sở lí luận của việc dạy học nói chung và dạy môn Tập đọc nói
riêng. Tôi nhận thấy thực tiễn dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học ở
Tiểu học. Để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm có trong thực
tế, tôi xin đưa ra một số biện pháp mà tôi áp dụng có hiệu quả của việc dạy học
(đọc thầm, đọc thành tiếng).
Tập đọc là phân môn chủ yếu rèn cho học sinh kỹ năng đọc, từ mức độ nhận biết
để đọc đúng, rõ rang đến mức độ cao hơn là đọc lưu loát, biết ngắt nghỉ, lên xuống giọng và thể hiện thái độ tình cảm qua bài Tập đọc, học sinh hiểu được
nội dung của bài.
Để đạt được mục đích ấy, trước hết người giáo viên phải có phương pháp rèn
đọc đúng, có các hình thức rèn đọc cũng như tinh thần trách nhiệm đối với nghề
trên cơ sở giúp học sinh nhận thức được việc rèn đọc trong trường Tiểu học. Từ
đó áp dụng các phương pháp rèn đọc linh hoạt sẽ đem lại kết quả khả quan hơn.
2.1. Phương pháp trực quan:
a.Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý lứa tuổi ở bậc Tiểu học:
Ở phương pháp này giáo viên đưa ra những bức tranh minh hoạ bằng vật
thật cho từng bài (gọi chung là đồ dung học tập) để phục vụ cho quá trình rèn
đọc của học sinh kết hợp đọc hiểu và bước vào đọc diễn cảm tốt.
b. Các hình thức trực quan (Cách dạy):
* Giọng đọc mẫu của giáo viên: Đây là một hình thức trực quan sinh động và
có hiệu quả đáng kể, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Do đó, muốn
rèn đọc cho học sinh tôi luôn chuẩn bị trước các bài ở nhà để cho học sinh đọc
đúng các thể loại, đúng ngữ điệu, tránh đọc đều đều mà cần phải biết biểu hiện
tình cảm của mình qua cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười khi đọc.
*Luyện đọc từ khó:
Khi hướng dẫn học sinh phát âm tôi thường phân tích cho các em thấy sự
khác biệt giữa cách phát âm đúng với cách phát âm sai mà học sinh thường mắc
như các tiếng có phụ âm l/n, ch/tr, s/x.



Điều này cần hướng dẫn tỉ mỉ và có trực quan cho các em thấy được sự khác
nhau của nó để phân biệt rõ khi đọc phát âm cho đúng. Đặc biệt đối với học sinh
yếu, tôi còn sử dụng các trực quan cụ thể để các em thấy được hệ thống cách
phát âm như môi, răng, lưỡi (bộ máy phát âm) khi phát âm nó như thế nào. Cụ
thể hơn, tôi làm mẫu trực tiếp để học sinh quan sát và luyện cách phát âm.
Ngoài hình thức trên, tôi còn ghi các từ khó để luyện đọc bằng phấn màu
lên bảng (bảng phụ) . Tôi dùng phấn màu ghi các phụ âm, vần khó, làm nổi bật
các phụ âm, vần khó trong các từ luyện đọc để các em được nhìn (bằng mắt),
được tập phát âm (bằng miệng), được nghe (bằng tai) và có thể được viết bằng
tay vào bảng con. Có như vậy các em sẽ nhớ lâu và đọc đúng.
Giáo viên đọc mẫu – Học sinh giỏi luyện đọc.
Học sinh thường đọc sai phụ âm, sai vần luyện đọc. Học sinh yếu cần luyện
nhiều và tôi yêu cầu học sinh phân tích các từ có tiếng, vần mà các em hay đọc
sai để nắm bắt rõ hơn. Đa số học sinh đọc tốt, trừ một số trường hợp đặc biệt
(các em bị dị tật về bộ máy phát âm) còn lại với cách rèn đọc trên các em đã đọc
tốt.
*Luyện đọc câu – đoạn – bài:
Kết hợp với rèn phát âm đúng tiếng, từ có phụ âm, có vần học sinh hay phát
âm sai; tôi còn rèn cho học sinh biết ngắt, nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy và đọc
lưu loát (đây là yêu cầu trọng tâm của hcọ sinh lớp 1).
Bước sáng phần đọc, đa số các em còn đọc chưa chuẩn, đọc còn ngắc ngứ,
đọc từng âm, tiếng. Một số học sinh yếu còn phải dừng lại để đánh vần. Nhiều
em chưa biết nghỉ hơi đúng lúc, đúng chỗ. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã
dành nhiều thời gian hơn cho việc luyện đọc. Tuy nhiên vẫn đảm bảo đủ nội
dung trong một giờ Tập đọc. Dùng thời gian thích đáng cho việc luyện đọc (ở
lớp và ở nhà).
Khi học sinh đọc tôi theo dõi để nhắc nhở học sinh ngắt nghỉ đúng dấu
chấm, dấu phẩy. Đọc rõ từng cụm từ, câu, tránh đọc kéo dài giọng.

Đối với học sinh yếu phần luyện đọc chưa đạt yêu cầu, các em dung bút chì
đánh dấu vào sách giáo khoa, về nhà tự luyện đọc, tiết học sau tôi kiểm tra.
Rèn kỹ năng đọc: đọc câu, đoạn hay cả bài, tôi luôn hướng dẫn các em rất tỉ
mỉ. Trong các giờ Tập đọc, tôi thường chép sẵn các đoạn văn hay thơ cần lưu ý
về cách đọc. Nếu là bài đọc thuộc long cũng cần phải chép ra bảng phụ để học
sinh tri giác cụ thể, cần chép rõ rang mới có tác dụng trực quan tốt.


Khi dạy học thuộc long, tôi chép bài lên bảng (bảng phụ) rồi luyện đọc cho
các em bằng phương pháp xoá dần chỉ để lại từ điểm tựa. Phần này làm trực
quan tốt thì các em học dễ nhớ và thuộc bài nhanh hơn so với phương pháp để
học sinh đọc ở sách giáo khoa.
*Dùng tranh ảnh, vật thật:
Đây là phương pháp có tác dụng không khó trong việc rèn kỹ năng đọc cho
học sinh. Nhưng khi đã sử dụng tranh ảnh thì các bức tranh đó phải to, đẹp, rõ
rang. Nếu không có điều kiện phóng to, tôi sử dụng tranh ảnh minh hoạ ngay ở
trong sách giáo khoa. Tuỳ từng bài để ta có thể sử dụng trực quan cho phù hợp.
Tôi yêu cầu học sinh khi đọc phải nhấn mạnh các từ chỉ màu, sắc, độ.
Học sinh phải nhớ từ cần nhấn mạnh. Luyện đọc từ cần nhấn mạnh, ngay cả
các em yếu cũng đọc được.
Sử dụng phương pháp này giúp học sinh có kỹ năng đọc và tiếp thu bài tốt,
đọc diễn cảm bài.
Giúp học sinh dễ hiểu bài hơn và gây hứng thú cho học sinh khi đọc, nhằm
khắc sâu kỹ năng đọc và nắm nội dung bài của học sinh. Phương pháp này nhằm
củng cố niềm tin vững chắc cho học sinh.
2.2. Phương pháp đàm thoại:
a. Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ nhỏ, các em thích được hoạt động
(hoạt động lời nói).
Phương pháp đàm thoại được thực hiện trên cơ sở trao đổi câu hỏi phục vụ
cho nội dung bài. Ở đây có thể thấy, giáo viên nêu câu hỏi dẫn dắt, gợi mở; trò

tìm tòi, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Ngược lại, trò có thể nêu câu hỏi thắc
mắc để giáo viên có thể hướng dẫn và giải đáp.
b. Các hình thức đàm thoại:
- Bước 1: Rèn cho học sinh.
Khi rèn kỹ năng đọc và hiểu cho học sinh, tôi thường chuẩn bị trước câu hỏi
sao cho phù hợp với học sinh và bài đọc. Muốn học sinh hiểu nội dung, trước
hết học sinh phải có kỹ năng đọc đó là: Đọc đúng lưu loát, trôi chảy bài đọc. Có
đọc thông văn bản thì các em mới hiểu nội dung bài và hiểu giá trị nghệ thuật
của bài dẫn đến sự cảm thụ tốt và đọc diễn cảm tốt hơn. Để đạt những yêu cầu
đó, tôi thường đưa ra những câu hỏi cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp
với từng bài đọc.
Bước 2: Rèn đọc hiểu cho học sinh.


Kết hợp với việc rèn đọc đúng, cần rèn đọc hiểu cho học sinh. Đọc hiểu ở
đây có thể là từ khoá, từ trung tâm, câu, đoạn, bài.
Tóm lại, trong giai đoạn đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đàm
thoại chỉ dùng để gợi mở, dẫn dắt để học sinh hiểu và chiếm lĩnh kiến thức chứ
không sử dụng trong suốt quá trình dạy đọc mà cần phải xen kẽ những phương
pháp khác để bài dạy đạt kết quả cao và học sinh không chán.
Tác dụng của phương pháp đàm thoại:
Phương pháp đàm thoại là tạo cho học sinh phát triển giao tiếp (giao tiếp giữa cô
và trò). Khi sử dụng phương pháp này ngoài việc có tác dụng giúp học sinh tiếp
thu kiến thức còn có tác dụng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học của mình cho
phù hợp với đối tượng học sinh.
2.3. Phương pháp luyện tập:
a. Phương pháp luyện tập:
Đây là phương pháp chủ yếu, thường xuyên sử dụng khi dạy học, học phân
môn Tập đọc. Với phương pháp này, tôi hướng dẫn học sinh vận dụng thực hành

tốt. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh rèn kỹ năng, kỹ xảo khi luyện
đọc. Tôi luông hướng dẫn học sinh luyện tập có ý thức và kiểm tra ngay kết quả
luyện tập tại lớp cụ thể.
b. Các biện pháp luyện tập:
b.1. Luyện đọc đúng:
Là đọc thành tiếng, yêu cầu đọc trôi chảy, lưu loát và rèn cho học sinh biết
ngừng nghỉ đúng chỗ, biết phân biệt câu thơ, dòng thơ.
Ngoài việc rèn cho học sinh biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy. Tôi còn
hướng dẫn học sinh biết ngắt hơi sau các dấu hai chấm, dấu chấm than, chấm
lửng… (đối với bài văn xuôi).
Cách sửa đọc ngọng cho học sinh:
Trước hết giáo viên phải nắm chắc được nghĩa của các từ có phụ âm hay đọc
ngọng như l- n để định hình được lời nói và chữ viết. Giáo viên cần xem lại
phương thức phát âm phụ âm đầu l- n và tự mỗi giáo viên phải luyện bằng thời
gian dài và phải kiên trì. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là l, giáo
viên dừng lại sửa cho các em bằng cách: hướng dẫn các em đọc đầu lưỡi hơi
cong, luồng hơi đi ra bị cản Ví dụ những tiếng có phụ âm đầu n đọc đầu lưỡi
thẳng, môi trề, bụng hơi hóp lại.


×