Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

vài biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh qua môn ngữ văn (thcs)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.79 KB, 15 trang )

1

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP TAM KỲ


TRƯỜNG THCS NGUYỄN KHUYẾN


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI
VÀI BIỆN PHÁP
RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
QUA MÔN NGỮ VĂN (THCS)






Người thực hiện: Huỳnh Văn Tiến

Năm học : 2013-2014





An Phú, tháng 3 năm 2014



2


Sáng kiến kinh nghiệm:
VÀI BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
QUA MÔN NGỮ VĂN (THCS)

PHẦN I: CƠ SỞ VẤN ĐỀ
I1. ĐẶT VẤN ĐỀ
“Kỹ năng sống” (được nhắc đến như một thuật ngữ) là cụm từ hay “xuất
hiện” những năm gần đây trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
cộng đồng. Kỹ năng sống là gì? Đó “là một tập hợp các kỹ năng mà con người có
được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những
vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của con người” (Bách khoa
toàn thư mở Wkipedia). Theo Tổ chức y tế Thế giới WHO định nghĩa, kỹ năng
sống là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối
phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”. Theo các định
nghĩa trên và với mục tiêu giáo dục là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người…thì các nhà
trường phổ thông hoàn toàn có thể và cần thiết, thậm chí cấp bách để đưa giáo dục
kỹ năng sống vào các môn học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện một
cách hợp lý, nhẹ nhàng và hài hòa hơn.
Tuy vậy, vấn đề trên không phải lúc nào cũng được chú trọng thường xuyên,
kỹ lưỡng và hiệu quả thiết thực, rõ nét. Nói cách khác, nhà trường phần lớn chỉ
thiên về kỹ năng học tập và giáo dục tư tưởng đạo đức, đơn thuần là “dạy chữ”,
“dạy văn hóa” chứ chưa đi sâu vào “dạy kỹ năng sống” theo đúng nghĩa của nó dù
là qua các môn học được lồng ghép. Chính vì thế, theo chuyên viên tâm lý Huỳnh
văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần Ý tưởng Việt: “hiện nay, thuật ngữ
kỹ năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị “lạm dụng” khi chính

những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ cũng chưa thật hiểu về
nó”. Xét thực tế, theo chúng tôi (người viết đề tài này), đã có quá nhiều vụ việc đau
lòng, đáng tiếc, bức xúc xảy ra – đối với lứa tuổi học sinh,sinh viên; cũng do một
phần các em thiếu kỹ năng sống một cách cần thiết như một “hành trang” cho cuộc
sống, không phải lúc nào cũng suông sẻ mà trong đó những nguy cơ, chướng ngại,
3

rắc rối, tình huống… luôn tiềm ẩn để sẳn sàng lấn tới khi con người không biết
“ứng phó, thích nghi” và giải quyết chúng.
Xuất phát từ vấn đề thiết thực đó, một lần nữa chúng tôi muốn đưa ra “ Một
vài biện pháp rèn kỹ năng sống (KNS) cho học sinh qua môn ngữ văn (THCS)”
nhằm giúp các em bổ trợ một số kiến thức về kỹ năng sống thông qua môn học và
một phần thực tế cuộc sống liên quan đến bài học; qua đó có thể giúp các em có
điều kiện ứng phó, thích nghi và tiếp tục tự rèn luyện từ bài học trên lớp, trong sinh
hoạt, hoạt động và trong cuộc sống nói chung ở hiện tại và tương lai, điều mà
không một ai khó tránh khỏi! Đó cũng là nguyên nhân, lý do chọn đề tài nói trên.
I2.CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Như đã trình bày từ các định nghĩa trên, KNS là các khả năng để có hành vi
thích ứng và tích cực; giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hằng ngày. Đó là năng lực ứng xử tích cực của mỗi
người đối với tự nhiên, xã hội và chính mình; là khả năng tâm lý xã hội của mỗi cá
nhân trong hành vi tích cực để xử lý hiệu quả những đòi hỏi, thử thách của cuộc
sống. Nói cách khác KNS là khả năng thực hiện một hành động hay hoạt động nào
đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành
động phối hợp với mục đích và điều kiện thực tế. Cùng với ý nghĩa đó, có và rèn
luyện kỹ KNS tức là đã có một “vốn liếng” (theo một nghĩa nào đó) trên bước
đường học tập và công việc của đời sống, trước mắt và lâu dài cho một người. Điều
đó càng ích lợi và thiết thực hơn đối với lứa tuổi học sinh khi các em còn quá ít ỏi
kinh nghiệm sống; đó cũng là mục tiêu giáo dục toàn diện, phù hợp mà theo quan
niệm của UNESCO: học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung sống.

KNS giúp học sinh thích ứng được với cuộc sống đầy những biến động khôn
lường, những tác động của tự nhiên và xã hội, nhất là xã hội hiện đại, phát triển.
Trên cơ sở đó, có thể nói KNS thúc đẩy những hoạt động mang tính xã hội, phát
huy các nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, xây dựng môi trường trường
học thân thiện, học sinh tích cực. Điều đó còn góp phần hiệu quả cho việc đổi mới
phương pháp học tập của các em hiện nay.
I3.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Rõ ràng, KNS cần cho mọi người, mọi lứa tuổi, ngành nghề khác nhau trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên hơn ai hết, điều đó đặc biệt cần thiết đối với lứa tuổi
học sinh (đặc biệt là Tiểu học và THCS); bởi các em còn là lứa tuổi “ăn chưa no lo
chưa tới”, khả năng và điều kiện sống gần như hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ,
người lớn và gia đình. Thậm chí có khi cha mẹ, người lớn vẫn không theo kịp
4

những biến động xã hội ngày càng dồn dập và diễn biến phức tạp, khó lường.
Thêm nữa, với sự bùng nổ thông tin, các em tiếp cận với đủ thứ loại tác động tốt
lẫn xấu; có khi các em phải rời bỏ gia đình để bươn chải kiếm sống, phải làm cả
trách nhiệm của người lớn. Lúc đó có nhiều việc các em phải một mình quyết định
nên không thể biết được thế nào là điều hay lẽ phải…Lúc đó, các em sẽ cần đến
KNS nhiều hơn để có thể có khả năng hành động đúng theo nhận thức. Chính lẽ đó
nhà trường sẽ là nơi dẫn dắt, định hướng, tạo điều kiện giúp đỡ các em “tham gia
cuộc sống” một cách tích cực để giải quyết những nhu cầu và thách thức của đời
sống xã hội, nhất là xã hội hiện đại, phát triển.
Vấn đề giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh không phải là điều hoàn
toàn mới lạ. Song, có lẽ do “sức ép” thực tế quá lớn của chương trình, điểm số, thi
cử, thành tích, lối học “hàn lâm”…,việc giáo dục KNS không phải không bị xao
lãng, hời hợt ở từng lúc, từng nơi. Điều đó làm cho các em vốn không có KNS lại
càng hạn chế, bất lợi hơn và thuật ngữ KNS đôi khi trở thành…xa lạ với các em.
Điều đó cho thấy cách dạy và học theo kiểu cũ (giảng suông, sáo mòn, máy móc,
áp đặt, học vẹt) sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với việc giáo dục và rèn luyện KNS,

như một rào cản khiến các em càng trở nên thụ động. Với ý nghĩa và quan niệm đó,
qua thực tế giảng dạy cũng như việc học tập của học sinh, chúng tôi mong muốn
từng bước đưa việc giáo dục KNS (bằng cách lồng ghép) vào bộ môn ngữ văn
(THCS) theo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhiều năm qua. Như
đã nói, dù đó không phải là điều hoàn toàn mới lạ, nhưng vấn đề là tiềm năng để
thực hiện, nhằm khắc phục những hạn chế đã nêu, phần nào cải thiện được tình
hình mà chúng tôi cảm thấy chưa hài lòng với bản thân trong quá trình dạy học bộ
môn ngữ văn, nhất là việc giáo dục, rèn luyện KNS cho các em như thực tiễn đã
nêu. Cũng nói thêm, với đặc trưng khá “nhạy cảm”, môn ngữ văn có phần thuận lợi
hơn trong việc giáo dục, rèn KNS cho học sinh so với các môn học khác. Bởi bản
thân môn ngữ văn đã chứa đựng trong đó yếu tố có thể bao hàm KNS. Thậm chí,
việc tưởng như đơn giản, chỉ một câu chào hỏi thân thiện, chỉ một lời “cảm ơn, xin
lỗi”, một cử chỉ, hành động thích hợp trong tình huống nào đó…đều chứa đựng nội
dung ít nhiều từ KNS. Nói cách khác, môn ngữ văn dạy cho các em biết nói
“không” với sự “vô cảm”. Đó là tính nhân văn, “dạy người” mà bản thân đặc trưng
môn học có được.

5

PHẦN II: NỘI DUNG VẤN ĐỀ.
Như đã trình bày,với đặc trưng của một môn học khá nhạy cảm (khoa học xã
hội và nhân văn, mang tính thẩm mỹ cao…), ngoài kiến thức cơ bản, môn ngữ văn
có điều kiện, “thế mạnh” riêng trong việc bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm
xúc thẩm mỹ và định hướng “thị hiếu lành mạnh, trong sáng” trong tâm hồn và
cảm xúc các em để từ đó dần hoàn thiện nhân cách. Tóm lại, với “khả năng đặc
biệt” đó, người dạy có thể có điều kiện thuận lợi hơn trong việc giáo dục, rèn luyện
KNS cho học sinh như nội dung, mục đích đề tài đã nói trên. Đó là việc làm mà
bước đầu chúng tôi đúc kết được (và tiếp tục nghiên cứu, đầu tư, rút kinh
nghiệm…) cho những năm học tiếp theo với mong muốn giáo dục và rèn luyện
KNS cho học sinh qua môn ngữ văn THCS.

Như đã biết, KNS là một chuỗi các hoạt động rộng lớn bao gồm nhiều hoạt
động khác nhau và trong các lĩnh vực cũng khác nhau (theo các lứa tuổi, nghề
nghiệp,môi trường sống và làm việc ) Ở phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ đề cập,
nhấn mạnh đến một vài biện pháp trong việc giáo dục và rèn luyện KNS cho học
sinh qua môn ngữ văn; từ đó các em có thể vận dụng thích ứng cho nhiều kỹ năng
khác liên quan.
1.Kỹ năng tự nhận thức:
Đối với học sinh THCS điều này là cần thiết bởi lứa tuổi các em dù không
còn nhỏ nhưng cũng chưa gọi là lớn. Nhận thức ở đây là nhận thức chính mình và
nhận thức qua bài học; nhận thức về con người và xã hội. Cần biết mình là ai, đứng
ở đâu, đang và sẽ làm gì cho bản thân, gia đình và xã hội…là điều rất quan trọng.
Muốn thế trong quá trình giảng dạy, chúng tôi luôn tìm cách khơi gợi, xác định
trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với bản thân và đối với mọi người. Từ đó có
những hành động thiết thực, hữu ích góp phần vào cuộc sống chung tốt đẹp. Bởi về
bản chất thì rèn luyện KNS là quá trình đưa nhận thức (qua kiến thức và thái độ)
thành hành động (hành vi tích cực). Kết hợp với bài học và thực tế cuộc sống (qua
phương tiện thông tin đại chúng chẳng hạn), giáo viên đưa ra những tấm gương
vượt khó học tập, gương cứu người quên mình với một tinh thần nhân ái đáng trân
trọng và khâm phục, thậm chí có cả những “tấm gương” xấu, mặt trái xã hội,
những nhân vật phản diện trong tác phẩm…để qua đó các em có ý thức tự nhìn và
tự đánh giá bản thân mình đã “sống” đến đâu, tự thấy được những nhược điểm và
ưu điểm của mình nhằm tự soi rọi lại mình mà có thái độ và hành động sống tích
cực hơn nữa. Đặc biệt những em học sinh cá biệt, yếu kém cũng sẽ dần chuyển
biến theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, ít nhất là trong nhận thức con non trẻ của các
6

em. Đó là một trong những cách giáo dục, rèn kỹ năng tự nhận thức cho các em từ
thực tế cũng như sự lồng ghép thích hợp mà chúng tôi thường làm.
Về các bài học trong chương trình, có thể nói toàn cấp (ngữ văn THCS) đều
là những bài khá đặc sắc để nâng cao nhận thức của học sinh. Vì phạm vi có hạn

chúng tôi không thể nêu đầy đủ và chi tiết, chỉ xin nhắc đến một vài tác phẩm tiêu
biểu để giáo dục nhận thức (GDNT) cho các em:
+ Ở lớp 9:
-Bài “Phong cách Hồ Chí Minh” giáo dục nhận thức vể một con người vĩ đại mà
giản dị, gần gũi mà cao sâu, uyên bác…
- Bài “Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền bảo vệ và phát triển của trẻ em”
GDNT về vai trò, giá trị và quyền hạn của trẻ em đối với nhân loại.
- Bài “Chuyện người con gái Nam xương; tác phẩm Truyện Kiều” GDNT về số
phận con người trong xã hội phong kiến mong manh và oan trái, để từ đó các em
liên hệ tới mặt tốt của xã hội đang sống…
- Bài “Đồng chí; Bài thơ về tiểu đội xe không kính” GDNT về những người lính
với lý tưởng chiến đấu cao đẹp, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc, về tình đồng chí đồng
đội keo sơn giúp họ thêm sức mạnh…
- Bài “Ánh trăng” GDNT về đạo lý uống nước nhớ nguồn, sống ân tình thủy
chung, không lãng quên quá khứ gian lao mà hào hùng mới có được hôm nay…
- Bài “Lặng lẽ Sa Pa” GDNT về lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm đối với
công việc và cuộc sống…
- Bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” GDNT về vai trò và giá trị quyết định
của con người đối với xã hội và đất nước, thấy được điểm mạnh và điểm yếu của
con người Việt Nam để khắc phục mà tiến lên. v.v
Ở nhiều bài học khác và các lớp khác cũng tương tự. Mục đích là để các em
tự nâng cao nhận thức qua từng bài học khác nhau (có sự khơi gợi, kích thích, dẫn
dắt của giáo viên hoặc qua bài tập…). Qua đó chẳng những kiến thức bài học được
khắc sâu hơn mà kỹ năng tự nhận thức của các em luôn được củng cố, nâng cao.
Từ đó có thể đề ra phương châm hành động và quan niệm sống tích cực cho mình.
2. Kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ:
Đây cũng là một trong những “thế mạnh” khác của môn ngữ văn cần được
khai thác, vận dụng. Bởi văn học là nhân học. Tính nhân văn và giáo dục thẩm mỹ
đã luôn nằm trong tác phẩm rồi. Trước hết bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng
Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước và lòng tự hào dân

tộc; nâng cao ý chí tự lập tự cường; thậm chí đến những điều bình thường tưởng
như đơn giản nhất như tình bạn, lẽ sống, lòng thương yêu, sự bao dung tha
7

thứ…Tinh thần đó gần như có tất cả ở các bài học trong chương trình ngữ văn
THCS. Vấn đề là xây dựng, củng cố và định hướng thị hiếu, năng lực cảm thụ
thẩm mỹ của các em qua các bài học. Đây là việc làm khó bởi sự nhạy cảm, tinh tế,
rung động qua từng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật và nhiều yếu tố khác không phải
dễ dàng khai thác, khám phá hết một lúc mà đòi hỏi thời gian và đặc biệt là khả
năng cảm thụ của các em cũng khác nhau. Vì đó là “sợi dây” tình cảm, tâm hồn.
Tuy nhiên cũng xin nêu một vài ví dụ:
- Ở bài “Bài học đường đời đầu tiên” (lớp 6) khai thác cái đẹp không chỉ có
thân hình cường tráng khỏe đẹp của Dế Mèn mà cái đẹp nằm ở bài học hối hận, ăn
năn, ray rức. Ở Dế Choắc, dù dưới một thân hình gầy còm ốm yếu nhưng lại ẩn
chứa bên trong một lòng vị tha hiếm có, làm Dế Choắc đẹp hơn lên. Lúc đó cái đẹp
lại nằm trong bản chất, tâm hồn chứ không chỉ là ngoại hình, thể chất!
- Ở bài “Bức tranh của em gái tôi” (lớp 6) cái đẹp trong tâm hồn của nhân
vật Kiều Phương (người em) là điều dễ thấy, nhưng cái đẹp bên trong của nhân vật
người anh mới là điều đáng nói khi ta (nhân vật này) biết tự nhìn lại mình và nhìn
lại người khác lúc mà sự hối hận rưng rức cứ bao quanh, bào mòn nội tâm ta. Nếu
không có một tâm hồn đẹp và cảm xúc đẹp, một cách sống và suy nghĩ đẹp thì làm
gì có những con người như thế (dù là nhân vật). Văn học đã hướng cho các em một
cách sống đẹp!…
- Ở bài “Buổi học cuối cùng” (lớp 6), vì tình yêu tiếng mẹ đẻ đã khiến cho
cậu bé học trò Phrăng nghịch ngợm rong chơi la cà trở nên “người lớn”, suy nghĩ
già dặn và đẹp hơn biết bao. Vì tình yêu tiếng mẹ đẻ mà người thầy Hamen tội
nghiệp đã xúc động nghẹn ngào day dứt không nói được nên lời, phải đứng dựa
vào tường mới đủ sức viết lên dòng chữ cuối cùng “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”!
3. Kỹ năng tư duy sáng tạo:
Với kỹ năng này, thường chúng tôi rèn luyện qua phân môn tập làm văn, đặc

biệt là văn nghị luận và văn tự sự. Bởi tập làm văn là môn tổng hợp kiến thức, đòi
hỏi khả năng tư duy và sáng tạo rất cao. Thông thường các em làm bài theo một
“lối mòn” có sẵn (do lười suy nghĩ, thiếu cố gắng,máy móc, rập khuôn, không sáng
tạo…) Trong khi đó đã là văn nghị luận thì phải bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, tư
tưởng và trình bày những nhận xét, đánh giá của cá nhân trước một vấn đề nào đó,
nên thiếu khả năng tư duy, sáng tạo (dù là về bài học trên lớp chứ chưa nói xa hơn)
thì khó đạt được yêu cầu của một bài làm trọn vẹn, chặt chẽ. Để rèn luyện và nâng
cao kỹ năng này, ngoài phần lý thuyết cơ bản khi dạy và học tập làm văn; chúng
tôi thường chú ý những yêu cầu sau đối với học sinh:
8

-Ví dụ đối với “nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống” (lớp 9)
học sinh cần nắm:
+ Những sự việc, hiện tượng nào trong đời sống có thể nghị luận?
+ Ý kiến, suy nghĩ của em như thế nào về vấn đề đó (đồng ý, tán thành hay
không, vì sao?)
+ Tìm ở ngay địa phương em (thôn xóm, khối phố, xã phường ) những sự
việc, hiện tượng đời sống (đáng biểu dương, học tập hoặc đáng chê trách) và viết
bài nghị luận về vấn đề đó.v.v…
-Đối với nghị luận văn học (tác phẩm truyện, thơ), yêu cầu:
+Nêu những điều em tâm đắc hoặc thích thú, xúc động nhất về tác phẩm.
+Tác phầm có điều gì gây cho em sự chú ý, ấn tượng?
+Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh nào, có gì đặc biệt về tác giả; điểm thành
công của tác phẩm nằm ở đâu?
Đối với các dạng nghị luận khác và tự sự cũng tương tự như thế. Làm thế
nào để khơi gợi sự tư duy, sáng tạo của các em càng nhiều càng tốt nhằm tránh sự
máy móc, rập khuôn, học vẹt khi làm bài. Qua đó còn rèn kỹ năng nhận thức, khiến
các em bày tỏ quan điểm của mình về lẽ sống, tình cảm yêu thương, đồng cảm,
chia sẻ, nghĩa tình trong cuộc sống.
4.Kỹ năng giao tiếp:

Mục đích của giao tiếp là truyền tải được các thông điệp, những điều mình
muốn nói (qua suy nghĩ, ý tưởng, cảm nhận ) đến với người nghe, người tiếp nhận.
Nếu không, những ý tưởng ấy sẽ không được phản ánh, thậm chí gây hiểu lầm và
tạo ra những rào cản khiến ta không đạt được mục tiêu. Đó cũng là một trong
những KNS nói chung. Riêng môn ngữ văn, có thể giúp các em rèn luyện từng
bước kỹ năng này, trước hết trong học tập và sau nữa là trong cuộc sống tương lai.
Chúng tôi chú ý rèn luyện kỹ năng này cho học sinh bằng những hoạt động sau:
+Thuyết trình trước lớp, trường…
+Truyền đạt thông tin từ một bài học, sự việc, sự kiện nào đó.
+Lắng nghe và thu thập thông tin hoặc nhận xét (ví dụ sau một lần tham
quan, dã ngoại, di tích lịch sử, văn hóa nào đó)
+ Hoạt động nhóm.
+ Tiết luyện nói.
Hoặc rải rác qua các bài học trên lớp mà nội dung có thể lồng ghép kỹ năng
này.
-Ví dụ qua bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” (lớp 7) có thể cho học
sinh trình bày suy nghĩ, ý kiến, nhận xét…của các em về cách ứng xử, giải quyết
9

của người lớn, các bậc cha mẹ?- hoặc có thể hỏi: “Nếu em là nhân vật trong câu
chuyện, em sẽ nói với ba mẹ thế nào trong cuộc chia tay đầy nước mắt đó mà lỗi
không do ở các em?”
-Bài “bức tranh của em gái tôi”(lớp 6):- Em hãy tranh luận và cho biết,
người anh cảm thấy mình dằn vặt điều gì nhất khi đứng trước bức tranh em gái vẽ
mình rất giống và đẹp?
-Bài “Lặng lẽ Sapa”( lớp 9):- Em thích điểm nào nhất trong quan niệm sống
của “anh thanh niên” mà em cho là rất đẹp, thử trình bày suy nghĩ trên cùng các
bạn?
Ngoài ra, các bài học Tiếng Việt (Lớp 9) như “Các phương châm hội
thoại”-“Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ý”- “Đối thoại, độc thoại và độc thoại

nội tâm trong văn bản tự sự” (TLV) cũng là những văn bản có lợi thế để chúng tôi
khai thác việc rèn kỹ năng giao tiếp một cách hiệu quả. Song vì dung lượng của đề
tài, không thể đưa hết ví dụ.
5.Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết:
Đây là loại kỹ năng cơ bản (không phải loại kỹ năng nâng cao như tư duy,
sáng tạo,phản biện, phân tích, tổng hợp…). Kỹ năng này tưởng như đơn giản
nhưng thực sự cần thiết cho mọi môn học và cho cả cuộc sống sau này. Một lần
nữa môn ngữ văn lại có thế mạnh riêng do đặc trưng môn học. Ví dụ chỉ riêng kỹ
năng “đọc” thôi (việc tưởng như đơn giản, dễ dàng) nhưng cũng cần phải rèn
luyện lâu dài, bởi không phải học sinh nào cũng đọc tốt. Đọc đúng ngữ điệu, diễn
cảm, đọc có cảm xúc, sự say mê…thì tác phẩm sẽ được nâng lên rất nhiều.Để làm
được bốn kỹ năng trên, chúng tôi rèn luyện qua các giờ học trên lớp là chủ yếu. Có
thể vận dụng thêm trong các tiết ngoài chính khóa để nâng cao kỹ năng này cho
các em được thành thục hơn. Ngoài những việc thường làm trong kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết của môn ngữ văn qui định trên lớp, có thể nâng cao kỹ năng này qua
các hoạt động ngoại khóa, các cuộc thi đố vui, sinh hoạt tập thể, câu lạc bộ văn
học,các cuộc thi sáng tác, các tiết tập làm thơ, các lần thuyết trình văn học, hoạt
động nhóm (biết lắng nghe và nhận xét, đánh giá)…
6. Kỹ năng tự học:
Tự học là một nhu cầu cần thiết và tự giác của con người. Sự tiến bộ và kết
quả trong học tập và công việc nói chung, bộ môn văn hóa nói riêng có được là
nhờ một phần lớn do công sức, ý thức cao trong việc tự học của người học. Điều
đó càng cần hơn đối với học sinh. Do vậy, “tự học” cũng cần có kỹ năng trong
chuỗi các KNS. Tự học đối với môn ngữ văn cũng không ngoại lệ như những môn
10

học khác. Vấn đề là biết thúc đẩy và rèn kỹ năng này một cách chủ động, thường
xuyên và tích cực thì mới đem lại hiệu quả. Sau đây là một số kỹ năng tự học mà
chúng tôi thường rèn cho học sinh trong môn ngữ văn:
-Tự vạch kế hoạch: Tức là học tập có hệ thống, có nghiên cứu, sắp xếp điều

gì nên làm trước, điều gì làm sau. Khuyên các em đừng ngại tốn thời gian cho việc
vạch kế hoạch, bởi bù lại sẽ tiết kiệm được thời gian rất nhiều khi thực hiện nó.
- Học vào lúc nào cảm thấy có lợi nhất cho môn học: ví dụ đối với tác phẩm
văn học (giảng văn,văn bản) thì hãy học ngay sau khi nghe giảng bài (về nhà). Đối
với bài học thuộc lòng hoặc trả lời câu hỏi thì nên học trước khi đến lớp. Sau khi
nghe giảng nên chọn lại và tổ chức ghi chép, xem lại các dữ kiện, chuẩn bị câu hỏi
cho bài cũ. Trước khi đến lớp (học ở nhà) cũng nên biết tự đặt câu hỏi vì nó giúp ta
đào sâu vấn đề
- Hiểu rõ các ghi chép: Tức là tìm ra những ý quan trọng mà thầy cô đã nhấn
mạnh, có thể dùng các kí hiệu riêng cần thiết (trừ trong bài làm) để tiết kiệm thời
gian, tập trung cho ý khác.
- Học một cách chủ động chứ không thụ động: Có chủ động thì mới sáng
suốt và thoải mái để học. Tránh học vẹt mà phải tìm cách suy nghĩ, liên tưởng
những điều có liên quan để khắc sâu
- Luôn học tại bàn: Đây là một thái độ nghiêm túc và tự giác cao. Hơn nữa
tốt cho cả hai ưu thế : trí tuệ lẫn thể hình. Càng không được nằm trên giường để
học sẽ khiến buồn ngủ và lâu dần tạo thói quen lười biếng.
7. Kỹ năng thực hành, ứng dụng:
Thực hành, ứng dụng trong môn ngữ văn chính là qua hệ thống các bài tập,
bài làm, bài viết mà các em thực hiện trong quá trình học tập. Chỉ có chủ động và
tích cực thì các em mới có thể làm tốt việc này. Các em có thể hiểu bài, có kiến
thức bài học nhưng chưa hẳn sẽ làm bài tập tốt, viết tốt, vận dụng đúng…Để rèn
được kỹ năng này, chúng tôi thường thực hiện các dạng sau (từ mức độ thấp đến
cao, dễ đến khó hơn và chú ý đến các đối tượng học sinh):
-Ví dụ :
+ Cho vd về các tình huống giao tiếp trong các bài “Các phương châm hội
thoại (lớp 9).
+ Cho vd tình huống về cách sử dụng nghĩa hàm ý (trong bài “nghĩa tường
minh và nghĩa hàm ý”)
+ Các bài tập viết ngắn về lời dẫn trực tiếp và lời dẫn gián tiếp.

+ Các bài tập luyện nói; thuyết minh; thuyết trình, hùng biện…
+ Nhấn mạnh các phương thức biểu đạt đan xen trong văn tự sự.
11

+ Thi sáng tác thơ, văn…
Những hình thức trên được thực hiện lồng ghép, đan xen trong các tiết
học,tiết ôn tập hoặc ngoại khóa dưới cờ…Qua đó có điều kiện rèn và nâng cao kỹ
năng thực hành, ứng dụng từ lý thuyết các bài học mà các em đã được học. Hơn
nữa giúp các em có dịp cọ xát với những tình huống sẽ gặp trong thực tế sau này
khi ra đời, dù chỉ là viết một biên bản trong cuộc họp, một báo cáo thông thường
khi làm việc. Đó cũng là một trong những đặc trưng mà môn ngữ văn làm được.
8. Kỹ năng giải quyết vấn đề:
Đây là kỹ năng cần có trong mọi lĩnh vực đời sống, mọi môn học. Mặc dù
cách giải quyết vấn đề trong đời sống và cách GQVĐ trong môn học không phải
hoàn toàn trùng khớp nhưng cũng là “một cách thức suy nghĩ nhằm làm rõ và đưa
ra giải pháp thực thi…” để giải quyết, đáp ứng một yêu cầu nào đó. Với môn ngữ
văn, giải quyết vấn đề không ngoài các tình huống, các vấn đề, các yêu cầu đặt ra
từ bài học và theo khả năng ứng xử, quan điểm của mỗi cá nhân. Cũng trong thực
tế cuộc sống, khi đứng trước một tình huống nào đó, mỗi người sẽ giải quyết, ứng
xử một cách khác nhau tùy theo “kỹ năng” của họ. Học sinh cũng thế, từ cách giải
quyết của các nhân vật, tư các tình huống khác nhau các em cũng sẽ tìm và chọn
cách giải quyết tối ưu cho mình một khi có…kỹ năng.
PHẦN III: KẾT QUẢ
Bằng những cách làm khác nhau (qua dạy và học bộ môn ngữ văn và qua
các hoạt động đan xen…) nhằm giáo dục, rèn luyện KNS cho học sinh, chúng tôi
nhận thấy một số kết quả như sau:
- Các em nhận biết được một số KNS mà qua môn ngữ văn và một số hoạt
động đã chuyển tải. không còn rụt rè, thụ động mà tỏ ra tích cực, linh hoạt, sôi nổi
hơn trong học tập và sinh hoạt.
- Hạn chế được những em có cuộc sống “khép kín” (do nhiều nguyên nhân)

hoặc quá say mê “thế giới ảo” của Internet, game…mà quên đi những hoạt động
chung quanh của bạn bè, của cộng đồng và xã hội. Qua đó còn hạn chế được những
tác nhân tiêu cực, xây dựng môi trường trường học thân thiện, học sinh tích cực.
- Giúp các em thích ứng được với cuộc sống mà đôi khi những biến động,
bất trắc khôn lường có thể xảy ra, dù là tự nhiên hay xã hội, nhất là xã hội ngày
càng hiện đại, phát triển.
- Góp phần tích cực cho việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh,
tăng năng lực thích nghi và điều khiển chính cuộc sống của mình.
12




THỐNG KÊ KẾT QUẢ CỤ THỂ
(nhóm thực nghiệm)

Giỏi Khá T Bình > T Bình Yếu Kém TS
HS
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
80 21 2.6.3 24 30 27 33.7 72 90 8 10


(Nhóm đối chứng)
Giỏi Khá T Bình > T Bình Yếu Kém TS
HS
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
80 11 13.8 7 8.7 20 25 38 47.5 30 37.5 12 15

PHẦN IV: KẾT LUẬN
Kỹ năng sống là một hoạt động, nhu cầu cần thiết, bổ ích…đối với mọi

người. Trong đó học sinh cũng không ngoại lệ, ngược lại, cần tăng cường và
thường xuyên rèn luyện KNS nhiều hơn bởi đó là lứa tuổi “giao thoa” giữa cái tốt
và xấu, đúng và sai,tiêu cực và tích cực, giữa thích nghi, năng động và khép kín.
Giáo dục và rèn luyện KNS là một quá trình đòi hỏi con người phải biết đối
diện với rất nhiều tình huống khác nhau và phải thích nghi, lựa chọn, quyết định và
tìm cách giải quyết chúng một cách tối ưu nhất để tồn tại, phát triển và thành công.
KNS bắt nguồn từ cuộc sống nhưng không phải chỉ để sống mà là “công cụ” rất
hữu hiệu để đạt đến thành công, hạnh phúc trong cuộc sống nói chung. Nếu không
được sớm giáo dục và rèn luyện học sinh KNS thì các em sẽ “chơ vơ, lạc lõng” và
thụ động trong bất kỳ một công việc, tình huống nào dù nhỏ nhất sau này. Với ý
nghĩa tích cực, thiết thực và khoa học trên, KNS rất cần và “xứng đáng” kịp thời
đưa vào chương trình trường phổ thông như nhiều môn học hỗ trợ khác.
Tuy nhiên thực trạng của việc giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh
không phải lúc nào cũng được ưu tiên chú ý, bởi những “áp lực” khác đã và đang
lấn áp mà các em phải chuyển tải. Hy vọng bằng một số giải pháp ít ỏi, bước đầu
có thể giúp các em có được ít “vốn liếng” để dùng và phát huy KNS của mình
13

trong học tập, cuộc sống đạt kết quả mong muốn hơn, đúng với tính chất, ý nghĩa
KNS mà chúng ta kỳ vọng.
PHẦN V: ĐỀ NGHỊ.
-Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình
bày trước nhóm bạn hoặc trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng
giao tiếp kém, qua đó góp phần tích lũy KNS cho các em.
- Đối với nhà trường, Tổ chuyên môn, Đoàn đội, lớp ,cần tăng cường tổ
chức các hoạt động ngoại khóa , các “diễn đàn”, “câu lạc bộ”…để các em có điều
kiện rèn KNS qua các hoạt động này (theo các chủ đề…)
- Cần thay đổi cách tổ chức, nội dung buổi chào cờ đầu tuần, nhằm tăng
cường, chú ý các hoạt động của các em hơn nữa như giao lưu, văn nghệ, trò chơi…
- Chú ý xây dựng trường, lớp an toàn – xanh-sạch-đẹp, tạo môi trường tự

nhiên gần gũi với cuộc sống, qua đó giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở các em.






















14


MỤC LỤC
PHẦN I: CƠ SỞ VẤN ĐỀ 2
I1. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
I2.CƠ SỞ LÝ LUẬN: 3

I3.CƠ SỞ THỰC TIỄN: 3
PHẦN II: NỘI DUNG VẤN ĐỀ. 5
1.Kỹ năng tự nhận thức: 5
2. Kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ: 6
3. Kỹ năng tư duy sáng tạo: 7
4.Kỹ năng giao tiếp: 8
5.Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết: 9
6. Kỹ năng tự học: 9
7. Kỹ năng thực hành, ứng dụng: 10
8. Kỹ năng giải quyết vấn đề: 11
PHẦN III: KẾT QUẢ 11
PHẦN IV: KẾT LUẬN 12
PHẦN V: ĐỀ NGHỊ 13













15


TÀI LIỆU THAM KHẢO








Tên tác giả Tên tài liệu Nhà xuất bản Năm xuất bản


Dale Camegie

Dean Cunningham

M.T.Lederman


NguyễnTuấn Quỳnh

Đắc nhân tâm

Sống sáng suốt

11 bí quyết giao tiếp
để thành công

Hãy sống ở thể chủ
động
NXB Trẻ


NXB Trẻ

NXB Lao động- xã hội


NXB Lao động-xã hội
2012

2013

2013


2010

×