LỜI CẢM ƠN!
Chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của của
thầy giáo Vũ Xuân Thủy
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy hiệu trưởng trường Thương Mại. Xin
chân thành cảm ơn các thầy (cô) giáo trong nhà trường đã tạo điều kiện giúp chúng
em thực hiện và giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này./.
MỤC LỤC
PHẦN IV. KẾT LUẬN
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP CÔNG
I.1. Khái niệm thu nhập công
Về bản chất, thu nhập công là quá trình Nhà nước sử dụng quyền lực để
huy động một bộ phận của cải xã hội hình thành nên các quỹ tài chính Nhà nước
nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
Đó là hệ thống các quan hệ kinh tế và phi kinh tế phát sinh trong quá trình
hình thành nên các quỹ tài chính của Nhà nước .
- Những quan hệ kinh tế: là những quan hệ dựa trên cơ sở trao đổi và có sự
hoàn trả.
- Những quan hệ phi kinh tế: là những quan hệ được xây dựng từ nghĩa vụ
công dân và không có sự hoàn trả.
Thu nhập công được xây dựng trên nền tảng kinh tế đó là sự trao đổi giữa
các nghĩa vụ: các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ trích chuyển một phần thu nhập
vào Ngân sách nhà nước để hình thành các quỹ tài chính của Nhà nước đổi lại nhà
nước có nghĩa vụ sử dụng hiệu quả các nguồn thu nhập này.
I.2. Đặc điểm thu nhập công
- Đặc điểm nổi bật nhất của thu nhập công là phần lớn các khoản thu nhập
công được xây dựng trên nền tảng nghĩa vụ công dân, điển hình là thuế. Ngoài ra
thu nhập công còn bao gồm các khoản thu dựa trên cơ sở trao đổi như lệ phí và phí
thuộc ngân sách nhà nước, các khoản thu do thỏa thuận như vay mượn, các khoản
thu do người dân tự nguyện đóng góp chiếm tỷ trọng không đáng kể.
- Các khoản thu không mang tính bồi hoàn trực tiếp: các tổ chức và cá nhân
nộp thuế cho nhà nước không có nghĩa là phải mua một hàng hóa hay dịch vụ nào
đó của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước sẽ dùng thuế nhằm tạo ra những hàng hóa và
dịch vụ công và tất cả hàng hóa và dịch vụ công sẽ được thụ hưởng bởi chính người
dân trong nước. Như thế, các khoản thu nhập công được chuyển trở lại cho dân
chúng theo một cách gián tiếp và công cộng
- Thu nhập công gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Nhà
nước thu để tài trợ cho mọi hoạt động của nhà nước tức là thu để chi tiêu công chứ
không phải là thu để kiếm lợi nhuận. Do đó thu nhập công phát triển theo các
nhiệm vụ của nhà nước.
- Thu nhập công luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các
phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái …chỉ tiêu quan trọng biểu hiện
thực trạng của nền kinh tế là tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ), GDP là yếu tố khách
quan quyết định mức động viên của thu nhập công. Sự vận động của các phạm trù
giá trị khác vừa có tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao
tác dụng điều tiết của các công cụ thu ngân sách nhà nước.
I.3. Phân loại thu nhập công
Phân loại thu nhập công nhằm quản lý và sử dụng các nguồn lực công phù
hợp với pháp luật và có trách nhiệm trước công chúng.
Căn cứ theo tính chất thu nhập:
Thu nhập công được chia thành 2 nhóm: các khoản thu thuế và các khoản thu
không phải thuế.
- Các khoản thu thuế: bao gồm các sắc thuế mà Nhà nước ban hành dưới hình
thức luật là khoản thu mang tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp, được xây
dựng trên nghĩa vụ công dân. Thuế được Nhà nước áp đặt bằng quyền lực chính trị,
được thể chế hóa bằng pháp luật các pháp nhân và thể nhân đều phải nghiêm chỉnh
chấp hành. Thuế không hoàn trả trực tiếp ngang giá cho người nộp thuế mà một
phần thuế đã nộp cho ngân sách nhà nước được hoàn trả gián tiếp cho người nộp
thuế dưới hình thức hưởng thụ hàng hóa dịch vụ công như y tế, giáo dục, an ninh
quốc phòng…tất cả mọi người đều được hưởng các dịch vụ công cộng đó như nhau
cho dù nghĩa vụ đóng góp có thể khác nhau.
- Các khoản thu không phải thuế: bao gồm lệ phí và phí, quyên góp, vay
mượn…đây là những khoản thu mang tính đối giá( dịch vụ hàng hóa công được
hưởng tương ứng với số tiền phải bỏ ra ) và được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận
giữa dân chúng và Chính phủ. Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu thu
Ngân sách nhà nước song đây cũng là khoản thu không thể thiếu.
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ:
Thu nhập công được chia thành thu trong nước và thu ngoài nước
- Thu trong nước: bao gồm các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí, vay trong
nước, cho thuê công sản, khai thác và bán tài nguyên thiên nhiên, thu khác…
Thu trong nước là nguồn nội lực cơ bản giúp Chính phủ xây dựng một ngân
sách nhà nước chủ động, mọi sự dựa dẫm vào bên ngoài đều để lại những hậu quả
lâu dài, nền tài chính chỉ lành mạnh và bền vững khi nguồn thu dựa chủ yếu vào
nội lực của nền kinh tế quốc dân.
- Thu ngoài nước: bao gồm các khoản thu từ đầu tư nước ngoài, viện trợ nước
ngoài, vay nước ngoài
Đây là nguồn ngoại lực giúp đất nước tích tụ và tập trung vốn đầu tư vào
nhiều công trình then chốt từ đó tạo ra những bước chuyển đáng kể trong tiến trình
phát triển.
Căn cứ vào nội dung kinh tế:
Thu nhập công bao gồm các khoản thu không mang nội dung kinh tế và
những khoản thu mang nội dung kinh tế
- Khoản thu không mang nội dung kinh tế: bao gồm thuế, các khoản quyên
góp, viện trợ nước ngoài và thu khác ( thu từ phạt vi cảnh, thanh lý tài sản, quà biếu
tặng…)
Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa
vụ giữa công dân và nhà nước, còn quyên góp và viện trợ nước ngoài là những
khoản thu hình thành trên cơ sở tự nguyện nhỏ dần về mặt tỷ trọng. Đây là những
khoản thu không mang tính chất đối ứng với việc thụ hưởng các dịch vụ hàng hóa
công của các chủ thể, tức là không phải cứ nộp vào ngân sách nhà nước nhiều thuế
hay ủng hộ cho chính phủ nhiều…là được hưởng nhiều hàng hóa dịch vụ công hơn
người khác.
- Khoản thu mang nội dung kinh tế: bao gồm lệ phí, phí, vay nợ, cho thuê
công sản, bán tài nguyên thiên nhiên…
Lệ phí và phí là những khoản thu mang tính đối giá. Là khoản thu có tỷ trọng
nhỏ hơn so thuế nhưng góp phần rất quan trọng cho quá trình nâng cao hiệu quả
cung cấp và sử dụng hàng hóa dịch vụ công đảm bảo phân phối một cách tương đối
công bằng phúc lợi công cộng cho mọi công dân trong xã hội.
Vay nợ trong và ngoài nước là khoản thu mang tính bồi hoàn, nó tích cực đẩy
nhanh tốc độ tích tụ và tập trung vốn tạo những công trình lớn khi các khoản thu từ
thuế, phí, lệ phí chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu chi đầu tư phát triển của nhà
nước. Nhưng nếu những công trình đầu tư từ vay nợ mà không mang lại lợi ích
kinh tế xã hội như mong muốn thì sẽ trở thành gánh nặng do phải trả vốn và lãi
hàng năm. Do đó phải xác định rõ vay nợ sử dụng cho mục đích gì và sử dụng nợ
như thế nào
Cho thuê công sản gồm cho thuê đất, bầu trời, mặt nước, vùng lãnh thổ…là
khoản thu tương đối hấp dẫn nhưng cái giá phải trả là sự tổn hại về môi trường
thiên nhiên sau thời hạn cho thuê.
Thu từ bán tài nguyên thiên nhiên là những khoản thu do bán quặng, dầu thô,
than, sán vật của rừng nguyên sinh…tài nguyên thiên nhiên là nguồn lợi do thiên
nhiên ban tặng và đa phần là không thể tái tạo do đó cần phải có chính sách khai
thác hợp lý.
Căn cứ vào tính chất phát sinh:
- Thu thường xuyên: bao gồm thu thuế, phí, lệ phí là các khoản thu phát sinh
đều đặn và liên tục ổn định về số lượng và thời gian thu .
- Thu không thường xuyên: bao gồm khoản vay nợ, viện trợ là các khoản thu
mang tính chất thời điểm lúc có lúc không, lúc nhiều lúc ít, không ổn định về số
lượng và thời gian thu.
PHẦN II: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CÔNG VÀ
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐÓ ĐẾN THU NHẬP CÔNG Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
II.1 Trình độ phát triển kinh tế
Thu nhập công chủ yếu được hình thành từ những giá trị do nền kinh tế tạo
ra, muốn thu nhập công nhiều và bền vững thì chỉ có cách duy nhất là thúc đẩy nền
kinh tế sáng tạo ra ngày càng nhiều giá trị gia tăng chứ không phải là nhà nước
dùng quyền lực ép buộc dân chúng và các tổ chức kinh tế trích chuyển thu nhập
cho mình nhiều hơn.
GDP là cơ sở duy nhất và bền vững nhất của thu nhập công, mối quan hệ giữa
GDP và thu nhập công được mô tả bằng công thức:
Thu nhập công = f (GDP)
Mọi nguồn vay hay viện trợ chỉ đáp ứng nhu cầu tạm thời và đều phải
trích từ thuế để trả, vì vậy chăm lo phát triển kinh tế chính là chăm lo nguồn thu
nhập công trong tương lai.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quyết định đặc biệt tới các nước đang phát
triển. Nó là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo, giảm khoảng cách tụt
hậu với các nước phát triển, củng cố quốc phòng, an ninh chính trị, tạo niểm tin cho
cộng đồng quốc tế. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết thất nghiệp, tăng
thu nhập và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Từ đó tạo đà cho nhà nước thu ngân sách
nhà nước. Của cải xã hội làm ra ngày càng tăng, thu nhập công cũng ngày càng
tăng mà không tăng gánh nặng cho xã hội.
Mặt khác, thu nhập công ngày càng tăng, nhà nước có đủ điều kiện hơn
để đầu tư cho các công trình sự nghiệp, các chương trình phúc lợi xã hội, các cơ sơ
hạ tầng phục vụ phát triển đất nước…Nhân dân được hưởng nhiều lợi ích hơn từ
các công trình công đó. Tạo cơ sở vật chất cho xã hội phát triển. Từ đó, giúp kinh
tế tăng trưởng nhanh hơn, thu nhập công lại được đảm bảo, lại là điều kiện để giúp
kinh tế tăng trưởng nhanh hơn. Đó là mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tương hỗ
nhau, cùng tạo đà cho nhau phát triển. Và ngược lại, nếu nền kinh tế chậm phát
triển, tụt hậu, của cải xã hội tạo ra ít, tình trạng thất nghiệp gia tăng thì sẽ làm giảm
đáng kể thu nhập công. Muốn ổn định kinh tế thì nhà nước lại phải tăng thêm chi
tiêu công, khi mà nguồn thu nhập công không đủ bù đắp các khoản chi tiêu công thì
gây ra tình trạng mất cân đối ngân sách. Tình trạng này càng nghiêm trọng thì sẽ
dẫn đến làm tụt hậu thêm nền kinh tế, thu ngân sách quá gắt gao lại gây ra tình
trạng mất ổn định chính trị, nhân dân không tin tưởng vào nhà nước nữa. Cái vòng
luẩn quẩn này sẽ lặp lại mãi nếu không có chính sách giải quyết phù hợp.
Chính vì vậy, một nền kinh tế phát triển là mảnh đất màu mỡ cho thu
nhập công tăng trưởng, là tiền đề cần thiết để phát triển xã hội. Thu nhập công cũng
chính là đòn bẩy cho nền kinh tế quốc gia đi lên.
Sơ đồ mối quan hệ giữa thu nhập công và sự phát triển kinh tế:
Sơ đồ 1 : Thu nhập công với nền kinh tế phát triển
Sơ đồ 2 : Thu nhập công với nền kinh tế phát triển
Thực tiễn tại Việt Nam những năm gần đây cho thấy ảnh hưởng mạnh
mẽ của sự phát triển kinh tế tới thu nhập công. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
Kinh tế lạc hậu
Đầu tư công manh
mún, nhỏ bé và
kém hiệu quả
GDP nhỏ
Thu NSNN ít
Đầu tư công
được tăng
cường
GDP lớn
Thu NSNN nhiều
Kinh tế phát triển