Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần điện học” môn vật lí 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.87 KB, 26 trang )

Lôøi Ngoû
Thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, kho tàng kiến
thức của nhân loại tăng lên nhanh chóng. Cái mà hôm nay còn mới thì ngày mai
có thể đã trở thành lạc hậu. Muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thì điều không thể thiếu là phải nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa
học và công nghệ hiện đại của thế giới.
Nhà trường cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và học sinh phải
biết tự mình cập nhật những kiến thức mới theo kịp thời đại. Những kiến thức mà
học sinh nắm được không phải tự phát mà là cả một quá trình rèn luyện có mục
đích, có kế hoạch và có tổ chức chặt chẽ. Nó là quá trình học sinh tự nỗ lực và
phát huy khả năng tư duy sáng tạo của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong quá trình ấy, mức độ tự lực của học sinh càng cao thì kiến thức nắm được
càng sâu sắc, tư duy càng phát triển, năng lực nhận thức được nâng cao, kết quả
học tập ngày càng tiến bộ.
Sự phát triển của kinh tế thị trường cùng với sự xuất hiện của nền kinh tế tri
thức đòi hỏi mỗi người lao động không những phải có trình độ văn hóa mà còn
phải thật sự năng động, sáng tạo thì mới có thể hòa nhập với sự phát triển của xã
hội. Do đó vấn đề quan trọng đối với một con người là không chỉ tiếp thu thông
tin mà còn phải biết xử lý thông tin để tìm ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề đặt ra
trong cuộc sống.
Vì vậy vấn đề đặt ra cho người làm công tác giáo dục là làm thế nào để việc
giảng dạy của mình đem lại kết quả cao và phát huy khả năng sáng tạo, hình
thành năng lực hoạt động của học sinh, tạo cho các em lòng say mê khoa học. Là
một giáo viên công tác để phục vụ cho sự nghiệp “trồng người” muốn góp phần
nhỏ vào đó với đề tài:

” Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật líphần điện học” môn vật lí 9.
Trong quá trình làm đề tài này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn
được sự hỗ trợ của các thầy, cô đồng nghiệp và sự cộng tác nhiệt tình của tập thể
học sinh. Tôi thành thật cảm ơn tất cả đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Xin chân thành cám ơn!



1


I/ PHẦN I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1/ Đặt vấn đề:
a) Cơ sở lí luận:
Nước ta đang trong thời kì mở cửa để hội nhập nền kinh tế thế giới đưa đất
nước sớm trở thành một nước công nghiệp phát triển. Muốn đạt được mục tiêu đó
đòi hỏi phải hội đủ tất cả các nguồn lực bên trong lẫn bên ngoài và nhân tố không
thể thiếu là nguồn nhân lực.
Vì vậy ngành giáo dục có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành con
người mới XHCN- con người có trình độ khoa học kĩ thuật, năng động, sáng tạo,
có tác phong công nghiệp. Đặc biệt trong thời đại ngày nay khi mà cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra như vũ bão trên phạm vi toàn thế giới thì kéo
theo hàng loạt các phát minh khoa học ra đời, một hệ quả tất yếu của sự phát triển
là khối lượng kiến thức khoa học mà con người tích lũy ngày càng đồ sộ. Dân tộc
Việt Nam phải hòa mình vào dòng chảy đó nếu không sẽ bị tụt hậu. Chính vì thế
mỗi người cán bộ, công nhân, học sinh dù đang hoạt động hay công tác trong lĩnh
vực nào, ngành nào cũng phải hoạt động tích cực, sáng tạo để đem lại hiệu quả cao
góp phần công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và một trong những yếu tố giúp
con người hoạt động có hiệu quả là làm việc có mục tiêu, tác phong khoa học và
có phương pháp cụ thể.
b) Cơ sở thực tiễn:
Từ thực tiễn của cuộc sống nên công tác giáo dục cũng có nhiều thay đổi.
Bên cạnh nhiệm vụ trang bị những kiến thức và hiểu biết cần thiết, mỗi bộ môn ở
trường phổ thông còn phải rèn luyện và phát triển ở học sinh những kĩ năng, năng
lực nhận thức và góp phần hình thành ở các em những phẩm chất, nhân cách phù
hợp với yêu cầu xã hội hiện nay như tinh thần trách nhiệm, tác phong làm việc
khoa học, khả năng hòa nhập, hợp tác, tự đánh giá, nhận định, phê phán,….

Một trong các bộ môn ấy thì vật lí – môn khoa học thực nghiệm được bộ
giáo dục và đào tạo đưa vào học chính thức từ năm lớp 6, nội dung kiến thức môn
vật lí ở cấp trung học cơ sở có thể chia thành các phần: cơ, nhiệt, quang, điện, âm
học, năng lượng. Ở các lớp đầu cấp các hiện tượng, thuộc tính, quá trình vật lí
được khảo sát ở mức độ bán định lượng, định tính; ở các lớp cuối cấp mức độ định
lượng và trừu tượng hóa tăng dần.
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm vì vậy trong giảng dạy và học tập
môn vật lí, thí nghiệm là một khâu có vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ làm
tăng tính hấp dẫn của môn học, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các kiến thức lý
thuyết đã học và rèn luyện kĩ năng thực nghiệm của học sinh. Điều quan trọng hơn
nữa là việc sử dụng thí nghiệm trực quan từng bước tạo cho học sinh một trực giác
nhạy bén đối với các hiện tượng vật lí.
Tiến hành thí nghiệm vật lí trong nhà trường là một trong các biện pháp
quan trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học vật lí. Điều này quyết
định bởi vì đặc điểm của khoa học vật lí là khoa học thực nghiệm, nguyên tắc dạy
học là nguyên tắc trực quan, “ học đi đôi với hành”.
Mặt khác khi làm các thí nghiệm vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát
triển nhận thức của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu
khoa học vì qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn
2


thận, kiên trì. Điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho
học sinh tham gia hoạt động thực tế. Bên cạnh đó do được tận mắt, tự tay tháo lắp
các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại lượng.... nhờ vậy mà các em có thể nhanh
chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị trong đời sống và sản xuất sau này.
Đặc biệt khi thực hiện các thí nghiệm vật lí còn rèn luyện cho học sinh kĩ
năng thực hành, thái độ ứng xử trong thực hành. Đây là yếu tố cần thiết cho việc
học tập vật lí ở các cấp học trên.
Bên cạnh đó Bộ giáo dục và đào tạo đã triển khai thay sách giáo khoa với

mục tiêu giảm tải kiến thức, tăng tính chủ động, sáng tạo cho học sinh đồng thời
phần lớn các kiến thức khoa học tự nhiên mới đều được rút ra từ thực nghiệm cho
nên trong dạy học vật lí việc khai thác hiệu quả vai trò của thí nghiệm là một trong
những vấn đề hết sức cần thiết. Thí nghiệm là nguồn cung cấp thông tin chính xác,
dễ hiểu về các sự vật và hiện tượng, là phương tiện tốt để kiểm tra tính đúng đắn
của các kiến thức vật lí, là phương tiện rèn luyện sự khéo léo cho học sinh. Thí
nghiệm góp phần đánh giá năng lực và phát triển khả năng tư duy, giúp củng cố và
vận dụng kiến thức một cách vững chắc cho học sinh. Thí nghiệm có tác động
mạnh đến giác quan của học sinh, thông qua thí nghiệm và bằng thí nghiệm có thể
tạo ra cho học sinh sự hứng thú, tích cực trong học tập giống như Lê nin đã từng
nói về con đường biện chứng của nhận thức chân lý khách quan là “từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”
Qua nhiều năm giảng dạy vật lí ở nhà trường tôi nhận thấy rằng với các tiết
học có sử dụng thí nghiệm học sinh tỏ ra hứng thú, hiểu bài hơn vì thế nên tôi luôn
suy nghĩ và tìm ra biện pháp để tổ chức và rèn luyện cho học sinh kĩ năng, phương
pháp tiến hành thí nghiệm có hiệu quả để từ đó các em tiếp thu kiến thức tốt hơn
và vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách sáng tạo hơn. Với mong muốn như
vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong
giờ học vật lí- phần điện học” môn vật lí 9.
2) Mục đích đề tài:
- Rèn cho học sinh tác phong làm việc khoa học, có kế hoạch, có kĩ năng
sáng tạo và vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng thực hành và thái độ ứng xử trong thực
hành.
- Rèn kĩ năng phân tích, xử lý thông tin và giải thích các hiện tượng vật lí
thực tế.
- Giúp học sinh rèn luyện tinh thần trách nhiệm cao, khả năng hợp tác thông
qua việc học tập theo nhóm.
- Bản thân mong muốn các em được khắc sâu kiến thức hơn sau mỗi lần thí
nghiệm.

3) Lịch sử đề tài:
Trước những biến đổi của xã hội ta phải đổi mới phương pháp dạy học, theo
phương pháp này thì học sinh là “trung tâm” của quá trình dạy học, các em phải
suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn.
Đặc biết đối với môn vật lí các em không còn tiếp thu kiến thức theo kiểu
truyền thụ - tiếp nhận nữa mà các em trực tiếp tiến hành thí nghiệm, được quan sát
thực tiễn, tự do thảo luận để rút ra nhận xét, kết luận cần thiết.
3


Trước đây học sinh bắt đầu làm quen với môn học này từ năm lớp 7 nhưng
từ khi chương trình sách giáo khoa đổi mới thì các em lại bắt đầu học bộ môn này
ngay từ năm lớp 6 và theo chương trình cũ thì con đường hình thành kiến thức
thiên về mô tả thí nghiệm rồi thông báo kết luận còn chương trình mới bây giờ học
sinh tiếp nhận kiến thức bằng con đường thực nghiệm, xuất phát từ kinh nghiệm
cuộc sống, từ những quan sát thực tiễn, giảm nhẹ những suy luận phức tạp. Cho
nên đề tài này đề cập đến một vấn đề tương đối mới và phù hợp với định hướng
đổi mới phương pháp áp dụng cho việc giảng dạy vật lí nhưng nó được cụ thể hơn.
4) Phạm vi đề tài:
Là giáo viên dạy vật lí, nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của thí
nghiệm vật lí trong việc đáp ứng mục tiêu của bộ môn cho nên tôi nghiên cứu và
chọn đề tài này nhằm giúp học sinh tiến hành thí nghiệm đạt hiệu quả cao.
Đối tượng mà tôi nghiên cứu là toàn thể học sinh khối 9 trường trung học cơ
sở Nguyễn Thành Nam, tôi tổ chức cho học sinh ở các tiết học và trong cả tiết thực
hành và tiết bồi dưỡng học sinh giỏi.
Ngoài ra với đề tài này còn có thể áp dụng cho tất cả học sinh bậc trung học
trong việc học tập các bộ môn khoa học tự nhiên đặc biệt là những môn có tiến
hành thí nghiệm như sinh học, hóa học, công nghệ,....
Để hoàn thành bài tập nghiên cứu này trong quá trình thực hiện tôi sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa

các thí nghiệm liên quan đến đề tài. Ngoài ra tôi còn sử dụng một số phương pháp
để phục vụ cho việc nghiên cứu như: điều tra giáo dục, quan sát sư phạm, thực
nghiệm sư phạm.

4


II/ PHẦN II: NỘI DUNG VÀ CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM:
1) Thực trạng đề tài:
Chương trình vật lí phổ thông cơ sở được chia thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: lớp 6 và lớp 7: vì khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế,
vốn kiến thức toán học chưa nhiều nên chương trình chỉ đề cập đến những hiện
tượng vật lí quen thuộc thường gặp hàng ngày về mặt định tính, rất ít công thức,
phần nhiều dừng ở mức hình thành biểu tượng. Ví dụ như:
* Lớp 6:
+ Các máy cơ đơn giản: chỉ khai thác khía cạnh được lợi về lực thiệt về
đường đi,… dừng lại ở mức độ bán định lượng, không đi đến công thức chính xác,
….
+ Sự chuyển thể của các chất: dừng lại ở việc tìm hiểu các đặc điểm định
tính của quá trình này mà không yêu cầu hình thành công thức và tính toán nhiệt
lượng thu vào hay tỏa ra khi vật chuyển thể,….
* Lớp 7:
+ Khi tìm hiểu đường truyền của ánh sáng, yêu cầu học sinh làm thí nghiệm
để quan sát dây tóc bóng đèn, từ thực tế dẫn dắt học sinh đưa ra dự đoán câu C1,
hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm kiểm tra dự đoán (C2),….
+ Tìm hiểu định luật phản xạ ánh sáng: yêu cầu học sinh dự đoán mối quan
hệ giữa góc phản xạ và góc tới, làm thí nghiệm kiểm tra mối quan hệ này.
+ Dự đoán sự rung động của âm thoa khi phát ra âm và tìm cách kiểm tra dự
đoán.
- Giai đoạn 2: lớp 8 và lớp 9: vì khả năng tư duy của học sinh đã phát triển,

học sinh đã có một số hiểu biết ban đầu về các hiện tượng vật lí xung quanh, ít
nhiều có thói quen hoạt động theo những yêu cầu chặt chẽ của việc học vật lí, vốn
kiến thức toán học cũng được nâng cao thêm một bước. Do đó việc học môn vật lí
ở giai đoạn này đặt ra mục tiêu cao hơn. Các kiến thức vật lí được lựa chọn, sắp
xếp một cách hệ thống hơn theo lôgic của khoa học vật lí, trình tự phức tạp tăng
dần lên của các dạng vận động vật chất.
- Chương trình vật lí lớp 9 học sinh được tiếp tục học mảng kiến thức về
điện học, điện từ học, quang học mà các em đã được học ở lớp 7 đồng thời được
bổ sung thêm kiến thức về năng lượng và ánh sáng. Học sinh được tìm hiểu về
những kiến thức ứng dụng thực tế ở mức độ cao hơn như: tìm hiểu tại sao dây dẫn
điện trong nhà lại có kích thước khác với dây dẫn điện ngoài trời; hoặc là giải
thích được tại sao có trường hợp bếp điện sử dụng dây nung là dây mayso bị đứt
tại sao khi nối lại để tiếp tục sử dụng thì cường độ dòng điện qua dây nung lại tăng
so với trước (hiệu điện thế giữa hai đầu dây không đổi) ; hoặc là tại sao người ta
có thể điều chỉnh độ sáng, tối của đèn điện được? hoặc là học sinh hiểu được ý
nghĩa số ghi trên các dụng cụ, thiết bị điện, có thể tính được tiền điện tiêu thụ hàng
tháng của hộ gia đình,.... Hoặc ở mức độ cao hơn nữa học sinh được tìm hiểu
nguyên tắc tạo ra dòng điện xoay chiều, tìm hiểu cấu tạo của máy phát điện xoay
chiều; tìm hiểu về từ tính của nam châm, nam châm điện, cách làm tăng lực từ của
nam châm điện; ứng dụng của nam châm điện trong thực tế;....

5


Máy phát điện xoay chiều

Ứng dụng của nam châm điện

Như vậy ta có thể xem môn vật lí ở trường THCS là cầu nối quan trọng, một
mặt nó phát triển và hệ thống hóa các kiến thức, kĩ năng mà học sinh lĩnh hội ở

bậc tiểu học, mặt khác nó góp phần chuẩn bị cho học sinh những kiến thức, kĩ
năng và thái độ cần thiết để tiếp tục học lên THPT và THCN, học nghề hoặc đi vào
các lĩnh vực lao động sản xuất đòi hỏi những hiểu biết nhất định về vật lí chẳng
hạn như ngành điện, giao thông vận tải, hàng hải, ngành cơ khí, ...
- Ngoài ra môn vật lí bồi dưỡng cho học sinh lòng ham thích khoa học, trí tò
mò, sự sáng tạo, ý thức tích cực và gần gũi với thiên nhiên thông qua việc giải
thích các hiện tượng tự nhiên đồng thời cũng rèn cho học sinh những kĩ năng, kĩ
xảo trong việc sử dụng dụng cụ có nhiều ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày
như: thước đo độ dài, cân, nhiệt kế, đòn bẩy, ròng rọc, mặt phẳng nghiêng, công tơ
điện, đồng hồ đo điện đa năng, …Bên cạnh đó việc tiếp thu tốt các kiến thức vật lí
còn giúp học sinh có nhiều cơ hội tham gia cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật cho
thanh thiếu niên. Đây là một trong những cuộc thi có tầm cỡ cấp quốc gia mà Bộ
giáo dục và đào tạo đang triển khai thực hiện.
Trong chương trình vật lí THCS nói chung và vật lí lớp 9 nói riêng hầu hết
các tiết học đều có thực hiện thí nghiệm hoặc xử lý kết quả thí nghiệm bởi vì
phương pháp thực nghiệm là phương pháp tối ưu để học sinh lĩnh hội kiến thức
một cách tự nhiên và sâu sắc nhất. Điểm chung của các loại thí nghiệm là hình
thành kiến thức vật lí, học sinh tự khẳng định lại sự đúng đắn của lý thuyết,
chuyển kiến thức chung thành kiến thức riêng của mình. Do đó việc thực hiện thí
nghiệm thành công sẽ đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy và học, tạo được sự
hứng thú của học sinh đối với bộ môn và góp phần thúc đẩy sự tích cực, chủ động
hợp tác của học sinh trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập. (đây là một trong
những tiêu chí đánh giá tiết dạy theo mô hình mới hiện nay).
- Bên cạnh đó qua trao đổi với một số thầy cô đồng nghiệp tôi nhận thấy:
+ Một số giáo viên dạy vật lí cảm thấy rằng dạy môn này khá vất vả nhất là
đối với chương trình đổi mới hiện nay, vất vả là vì mỗi bài đều có thí nghiệm thậm
chí có bài thực hiện khoảng 2 – 3 thí nghiệm. Các thí nghiệm chiếm khá nhiều thời
gian của giờ lên lớp nên thường xảy ra “cháy giáo án”. Cả giáo viên và học sinh
luôn ở trong trạng thái chạy đua với thời gian nên không có nhiều thời gian để mở
rộng kiến thức thêm cho học sinh đó là chưa kể nếu thí nghiệm không thành công

hoặc kết quả sai số nhiều thì phải mất nhiều thời gian để kiểm tra lại các dụng cụ,
cách tiến hành thí nghiệm, ghi kết quả thí nghiệm và xử lý số liệu.
6


+ Một số giáo viên khác cho rằng tuy có vất vả nhưng tình trạng “cháy giáo
án” vẫn có thể khắc phục được chỉ cần ta chuẩn bị tốt, lựa chọn dụng cụ thí
nghiệm và khéo léo điều khiển học sinh sao cho các thí nghiệm diễn ra nhanh
chóng và đạt hiệu quả cao thì có thể phân bố lại thời gian một cách hợp lý trong
từng tiết học như vậy ta phải thêm một khoảng thời gian để chuẩn bị và lựa chọn
dụng cụ thí nghiệm trước cho học sinh.
+ Một thực tế chung mà phần lớn giáo viên dạy vật lí đều công nhận đó là
do sỉ số lớp học quá đông nên khi chia nhóm thì số học sinh ở mỗi nhóm khá đông
gây khó khăn cho việc quản lý các em trong quá trình làm thí nghiệm; một số dụng
cụ nhận về là có hạn nhưng lại không đồng nhất với nhau về kỹ thuật, hướng dẫn
sử dụng đôi khi sử dụng tiếng nước ngoài nên cũng gây không ít khó khăn cho
giáo viên và học sinh khi thực hành, đối chiếu, so sánh kết quả.
Nhìn chung qua trao đổi thì phần lớn giáo viên đều nhận thấy rằng việc tổ
chức cho học sinh thực hiện tốt thí nghiệm vật lí có vai trò quan trọng, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng bài dạy, chất lượng môn học vì thế ngay từ những
bài học đầu tiên tôi luôn cố gắng cho học sinh làm quen với các dụng cụ thí
nghiệm và hướng dẫn các em cách sử dụng các dụng cụ thí nghiệm.
Ngay từ đầu năm học tôi đã quyết định chọn học sinh khối 9 làm đối tượng
nghiên cứu của mình vì vậy khi trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn học sinh làm thí
nghiệm tôi chú ý quan sát và lưu ý đối với nhóm thực hiện khá – tốt các yêu cầu
của thí nghiệm và các nhóm thực hiện chưa đạt yêu cầu, sau đó tôi thảo luận riêng
với các nhóm này để tìm ra nguyên nhân như thế nào. Sau đây tôi xin trích một vài
ý kiến có liên quan đến đề tài này:
Câu hỏi trao đổi


1. Em có xem
trước nội dung bài
học ở nhà không?
2. Theo em cần
phải làm gì để thực
hiện tốt các yêu
cầu thí nghiệm
trong sách giáo
khoa?

Nhóm thực hiện khá – tốt

Nhóm chưa đạt yêu cầu

- Dạ có, em đọc khoảng - Rất ít khi xem.
2-3 lần.
- Xem trước nội dung ở
nhà.
- Vào lớp chú ý quan sát
kĩ và lắng nghe giáo viên
hướng dẫn.
- Làm thí nghiệm tuyệt
đối nghiêm túc.
- Các bạn trong nhóm
hợp tác, tích cực giúp đỡ
lẫn nhau.

- Không cần xem trước vì
vào lớp cô hướng dẫn lại.
- Vào lớp có quan sát

giáo viên hướng dẫn
nhưng thí nghiệm dài nên
chúng em không nhớ các
bước.
- Các bạn trong nhóm
mỗi người một ý tranh cãi
mà không đưa ra phương
án thí nghiệm nên kết quả
thường chậm hơn các
nhóm khác.

Qua trao đổi với các em học sinh tôi nhận thấy có một số nguyên nhân sau đây dẫn
đến kết quả tiến hành thí nghiệm của các em chưa cao là:
7


+ Các em quá chủ quan, không nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc
sách giáo khoa ở nhà.
+ Các em chưa có tính kỷ luật cao trong khi tiến hành thí nghiệm, một số
em còn hay nghịch phá dụng cụ hoặc dửng dưng không tự giác hòa nhập cùng
chung sức với các bạn.
+ Do đối với học sinh các dụng cụ rất lạ mắt, hấp dẫn nên các em chỉ tập
trung chú ý quan sát dụng cụ mà không chú ý nghe theo lời hướng dẫn của giáo
viên mà đôi lúc còn khám phá dụng cụ thí nghiệm theo một hướng khác không
như giáo viên đã hướng dẫn.
+ Do các em chưa có kĩ năng hoạt động và làm việc theo nhóm mặc dù các
em đã được làm quen với phương pháp học này từ lớp 6.
+ Không biết mục đích thí nghiệm là gì?
+ Để tiến hành thí nghiệm thì phải mất khá nhiều thời gian trong một tiết
học nên nếu không có kế hoạch hay sự sắp xếp, chuẩn bị chu đáo thì khó tránh

khỏi tình trạng không kịp thời gian và điều này ít nhiều ảnh hưởng đến hứng thú
thực hành và chất lượng học tập của học sinh.
Đầu năm học tôi có thực hiện một khảo sát đối với học sinh khối 9 với nội
dung: yêu cầu học sinh mắc mạch điện gồm 2 bóng đèn mắc nối tiếp sau đó tiến
hành đo cường độ dòng điện I qua mỗi bóng đèn và hiệu điện thế giữa hai đầu mỗi
đèn. (đã học ở chương trình vật lí lớp 7).
Kết quả đạt được như sau:
Lớp
91

Sỉ số
31 (4 nhóm)

Nhóm đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu cầu
Nhóm 1: có 4 HS trong Còn lại: 27 HS
nhóm
92
29 (4 nhóm) Nhóm 3: có 3 HS trong Còn lại: 26 HS
nhóm
93
27 (4 nhóm) Nhóm 4: có 3 HS trong Còn lại: 24 HS
nhóm
* Trong đó: nhóm đạt yêu cầu: mắc đúng mạch điện; một số mắc đúng dụng cụ đo
cường độ dòng điện và hiệu điện thế nhưng đa số chưa đọc được kết quả đo.
Chưa đạt yêu cầu: chưa mắc đúng mạch điện gồm 2 đèn mắc nối tiếp, chưa
sử dụng được dụng cụ đo theo yêu cầu.
2) Nội dung cần giải quyết:
Từ thực trạng trên, với trách nhiệm của người giáo viên khiến tôi luôn suy
nghĩ phải làm thế nào đây? Và cuối cùng tôi quyết định đặt ra cho mình vấn đề là

phải tìm biện pháp để tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm vật lí có hiệu
quả nhằm nâng cao chất lượng học tập của các em với những nội dung cần giải
quyết như sau:
- Phải làm thế nào để học sinh ý thức được vai trò của thí nghiệm trong quá
trình học vật lí?
- Phải có biện pháp tổ chức và hướng dẫn học sinh tiến hành thí nghiệm vật
lí một cách hiệu quả.
- Phải làm thế nào để kích thích tính tò mò khoa học và hứng thú đối với
môn học?
8


3) Biện pháp giải quyết:
Từ cơ sở nghiên cứu trên cộng với kinh nghiệm của bản thân và sự học hỏi kinh
nghiệm từ các thầy, cô đồng nghiệp tôi đã tiến hành một số biện pháp cụ thể như
sau:
 Đối với giáo viên:
- Phải phân biệt được sự khác nhau của một số loại thí nghiệm.
- Phải nắm rõ tính năng của các dụng cụ thí nghiệm.
- Phải tiến hành thí nghiệm trước vài lần và đảm bảo thí nghiệm phải thành
công.
- Đảm bảo bố trí thí nghiệm cho cả lớp quan sát được.
- Giáo viên phải thực hiện đúng tinh thần, mục tiêu và yêu cầu của chương
trình sách giáo khoa mới.
- Giao việc về nhà cho học sinh sau mỗi bài học.
- Kết hợp thí nghiệm với các phương tiện trực quan, nghe nhìn.
 Đối với học sinh:
- Chia nhóm một cách hợp lí.
- Giáo dục học sinh vai trò quan trọng của việc em trước nội dung sách giáo
khoa ở nhà.

- Cần kích thích tính tự giác, tích cực hoạt động của học sinh vè rèn cho các
em thói quen hợp tác với các bạn trong nhóm.
- Giáo dục học sinh ý thức làm việc có tổ chức, kỷ luật và ý thức bảo vệ của
công.
 Đối với thí nghiệm phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Thí nghiệm phải thành công.
- Thí nghiệm phải chính xác.
- Thí nghiệm phải an toàn.
Sau đây tôi xin đi vào phân tích từng biện pháp cụ thể:
3.1) Đối với giáo viên:
3.1.1) Giáo viên cần phải phân biệt được sự khác nhau của một số loại thí
nghiệm.
a) Thí nghiệm phát hiện kiến thức mới: từ những thí nghiệm đơn giản giáo viên
hướng dẫn học sinh rút ra được nhận xét để từ đó hình thành khái niệm mới.
Các bước tiến hành thí nghiệm như sau:
Bước 1: Đặt vấn đề:
- Từ những vấn đề trong cuộc sống, những hiện tượng gần gũi với các em,
giáo viên làm xuất hiện tình huống gây tò mò, kích thích sự khám phá của các em.
- Giáo viên cho học sinh đưa ra nhiều phương án.
(Giáo viên tuyệt đối không dùng kết luận trong sách giáo khoa làm giả
thiết);
Bước 2:
- Giáo viên nêu mục đích thí nghiệm.
- Giáo viên giới thiệu dụng cụ thí nghiệm, cách lắp ráp.
- Giáo viên nêu các bước tiến hành thí nghiệm đã ghi sẵn trên bảng phụ.
Bước 3:
9


- Học sinh chọn dụng cụ thí nghiệm và lắp ráp dụng cụ.

- Học sinh tiến hành thí nghiệm, thảo luận, ghi kết quả thí nghiệm
Bước 4:
- Học sinh lần lượt trả lời hệ thống các câu hỏi của giáo viên đặt ra.
- Học sinh tự rút ra kết luận.
Bước 5:
- Giáo viên giải thích một số vấn đề liên quan mà các em thắc mắc, giải
thích sự sai lệch về kết quả thí nghiệm nếu có.
- Nâng cao kiến thức đối với học sinh khá giỏi.
Bước 6:
- Chuẩn xác hoá các câu trả lời, câu kết luận, cũng cố kiến thức.
Ví dụ: thiết kế tiến trình bài học: Sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào
hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn (nội dung I của bài)
Bước 1: đặt vấn đề:
- Ở lớp 7 ta đã biết, khi hiệu điện thế đặt vào hai đầu bóng đèn càng lớn thì dòng
điện chạy qua đèn có cường độ càng lớn và đèn càng sáng. Bây giờ ta cần tìm hiểu
xem cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn điện có tỉ lệ với hiệu điện thế đặt vào
hai đầu dây dẫn đó hay không?
Bước 2:
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát sơ đồ hình 1.1 sách giáo khoa
Dây dẫn đang xét

+

A

V

-

+


• • + . .
- Nêu mục đích thí nghiệm: tìm hiểu cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn có tỉ lệ
với hiệu điện thế đặt vào hai đầu dây dẫn đó hay không bằng cách thực hiện đo
cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn ứng với các hiệu điện thế khác nhau đặt vào
hai đầu dây dẫn đó.
- Giới thiệu dụng cụ thí nghiệm:
1 bảng lắp điện.
1 dây constantan (φ 0,3mm, dài 1800mm).
1 ampe kế.
1 vôn kế.
1 nguồn điện 6V.
1 ngắt điện (khóa)
Dây nối
- Hướng dẫn học sinh các bước tiến hành thí nghiệm:
+ Lắp vào bảng mạch điện theo sơ đồ như hình vẽ.

10


+ Tăng dần nguồn điện từ 1,5V lên 6V, ghi gía trị của hiệu điện thế (U) và
đọc số chỉ của ampe kế (I) tương ứng của mỗi trường hợp vào bảng kết quả đo sau
đây:
Kết quả
đo

Lần đo

1
2

3
4

Hiệu điện thế
(V)

Cường độ dòng điện
(A)

1,5
3,0
4,5
6,0

Do đây là thí nghiệm đầu tiên trong chương trình vật lí lớp 9 nên giáo viên cần
hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh để các em làm quen với thí nghiệm điện và tạo điều
kiện thuận lợi cho các thí nghiệm khó sau này.
- Giáo viên cần lưu ý một số điều sau đây:
+ Trước khi đo phải điều chỉnh cho kim vôn kế và ampe kế chỉ đúng vạch 0.
+ Hướng dẫn học sinh cách sử dụng ampe kế và vôn kế:
. Ampe kế: mắc nối tiếp với dây dẫn cần đo, chốt (+) của ampe kế hướng
về cực dương (+) của nguồn.
. Vôn kế: mắc song song với dây dẫn cần đo, chốt (+) của vôn kế hướng về
cực dương (+) của nguồn.
+ Hướng dẫn học sinh cách đọc số chỉ của ampe kế và vôn kế ứng với từng
thang đo tương ứng.
Bước 3:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chọn dụng cụ thí nghiệm.
- Học sinh lắp mạch điện và tiến hành thí nghiệm.
- Đọc và ghi giá trị U, I vào bảng kết quả.

- Thảo luận kết quả thí nghiệm.
Bước 4:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh số liệu thu được từ thí nghiệm.
- Đặt câu hỏi:
. Khi tăng hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn thì cường độ dòng điện chạy
qua dây dẫn đó như thế nào?
. Khi giảm hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn thì cường độ dòng điện chạy
qua dây dẫn đó như thế nào?
Tổng quát: khi thay đổi hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn thì cường độ dòng điện
chạy qua dây dẫn đó có mối quan hệ như thế nào với hiệu điện thế?
- Học sinh trả lời và rút ra kết luận về mối quan hệ giữa I và U.
Bước 5:
- Giáo viên xem kết quả thí nghiệm của các nhóm nếu có nhóm nào đó kết quả có
sai lệch (không tỉ lệ thuận) thì giáo viên có thể giải thích như sau:
+ Khi thí nghiệm chỉ đóng mạch điện trong thời gian ngắn đủ để quan sát số
chỉ của ampe kế, vôn kế. Nếu đóng mạch lâu thì dây điện trở nóng lên và dòng
điện sẽ nhỏ đi.
11


+ Do các điểm tiếp xúc không tốt.
+ Do cách làm tròn số khi đọc kết quả đo.
+ Các đoạn dây dẫn nối mạch không nên quá dài.
- Tiếp theo học sinh ứng dụng kiến thức làm các bài tập vận dụng. Giáo viên giúp
học sinh chuẩn xác hóa các bài tập để củng cố kiến thức.
Bước 6:
- Học sinh đọc phần ghi nhớ của bài học (phần đóng khung trong sách giáo khoa).
b) Thí nghiệm kiểm chứng:
Các bước tiến hành thí nghiệm tương tự như trên nhưng thí nghiệm này
khác với thí nghiệm phát hiện ở những điểm sau:

- Đưa ra ngay vấn đề cần kiểm chứng.
- Giáo viên không nêu hệ thống câu hỏi dẫn dắt trong quá trình làm thí
nghiệm.
- Nêu thẳng phương pháp làm thí nghiệm, các bước làm thí nghiệm, đối với
học sinh khá giỏi có thể cho học sinh đưa ra phương án làm thí nghiệm.
Ví dụ: Thiết kế tiến trình bài dạy: Sự phụ thuộc của điện trở vào chiều dài
dây dẫn. (nội dung II của bài)
- Học sinh dự đoán sự phụ thuộc của R vào chiều dài trên cơ sở phân tích lý thuyết
như sau:
1 sợi dây dẫn chiều dài l, điện trở R1 = R
1 sợi dây dẫn chiều dài 2l (l nối tiếp l), điện trở R2 = R + R = 2R
1 sợi dây dẫn chiều dài 3l (l nối tiếp l nối tiếp l), điện trở
R3 = R + R + R = 3R
Dự đoán: R tỉ lệ thuận với l (cùng vật liệu, cùng tiết diện).
- Sau khi học sinh dự đoán xong giáo viên yêu cầu học sinh dự kiến cách làm thí
nghiệm:
+ Đo điện trở R của các dây dẫn có chiều dài l, 2l, 3l nhưng có tiết diện như
nhau và được làm từ cùng một loại vật liệu.
+ So sánh các giá trị điện trở R và l.
- Để đo giá trị R học sinh tự trả lời câu hỏi phải đo những đại lượng nào và cách
tính R.
- Học sinh chọn dụng cụ thí nghiệm.
- Giáo viên nêu phương pháp làm thí nghiệm: gồm các bước:
Học sinh lắp mạch điện theo sơ đồ:
l1
+

A
+


V

-

• • +
. .

-

Lần 1: với l1 = 900mm
12


Đo cường độ dòng điện I1, hiệu điện thế U1. Tính

R1 =

U1
và ghi vào bảng
I1

kết quả.
Lần 2: thay cuộn dây l1 bằng cuộn dây l2 = 1800mm (cùng vật liệu, tiết diện)
U2
Đo cường độ dòng điện I2, hiệu điện thế U2. Tính R2 =
và ghi vào bảng
I2
kết quả.
Lần 3: thay cuộn dây l2 bằng cuộn dây l3 = 2700mm (cùng vật liệu, tiết diện)
U3

Đo cường độ dòng điện I3, hiệu điện thế U3. Tính R3 = và ghi vào bảng
I3
kết quả.
* Bảng kết quả:
Lần thí nghiệm

Hiệu điện thế
Cường độ dòng
Điện trở (Ω)
(V)
điện (A)
Dây dẫn l1
U1=
I1=
R1 =
Dây dẫn l2
U2=
I2=
R2 =
Dây dẫn l3
U3=
I3=
R3 =
Học sinh: so sánh R1, R2, R3 với l1, l2, l3 và rút ra nhận xét thực nghiệm. Sau đó đối
chiếu với dự đoán ban đầu để rút ra kết luận của bài học về sự phụ thuộc của điện
trở vào chiều dài dây dẫn.
c) Thí nghiệm mô tả:
Loại thí nghiệm này học sinh không thể tiến hành trực tiếp được do phụ
thuộc nhiều yếu tố như: Dụng cụ thí nghiệm, điều kiện, môi trường khí hậu...
Giáo viên hướng dẫn học sinh xử lý thông tin theo sách giáo khoa.

Các bước tiến hành dạng thí nghiệm này như sau:
* Giáo viên hướng dẫn học sinh:
- Đọc thông tin trong sách giáo khoa.
- Nêu mục đích thí nghiệm.
- Nêu dụng cụ thí nghiệm.
- Đọc kết quả thí nghiệm.
- Rút ra kết luận.
Ví dụ: thiết kế bài dạy: Định luật Jun – Lenxơ (nội dung II)

13


- Giáo viên u cầu học sinh quan sát mơ hình thí nghiệm trong sách giáo khoa.
- Hướng dẫn học sinh đọc thơng tin trong sách giáo khoa và khai thác một số dữ
kiện trong phần mơ tả thí nghiệm:
Khối lượng nước: m1 = 200g = 0,2 kg
C1 = 4200 J/kg.K
Khối lượng bình nhơm : m2 = 78g = 0,078 kg
C2 = 880 J/kg.K
0
Độ tăng nhiệt độ: ∆t = 9,50C
I = 2,4A
R = 5Ω
t = 300s
- Nêu mục đích thí nghiệm: xác định điện năng sử dụng và nhiệt lượng tỏa ra sau
đó so sánh A, Q để tìm xem nhiệt lượng tỏa ra phụ thuộc vào các yếu tố nào.
- Dụng cụ thí nghiệm:
1 bình nhiệt lượng kế
1 biến thế nguồn
1 ampe kế

1 vơn kế
1 khóa
1 nhiệt kế
Đồng hồ bấm giây
dây nối
Chậu nước sạch
- Đọc kết quả thí nghiệm: giáo viên u cầu học sinh xử lý số liệu thu được từ thí
nghiệm.
. Tính điện năng A của dòng điện chạy qua dây điện trở trong thời gian trên:
A = I2.R.t = 2,42. 5.300 = 8640 (J)
. Tính nhiệt lượng mà nước và bình nhơm nhận được trong thời gian đó:
Q1 = m1.c1. ∆t 0 = 0,2.4200.9,5 = 7980 (J)
Q2 = m2.c2. ∆t 0 = 0,078.880.9,5 = 652,08 (J)
Q = Q1 + Q2 = 7980 + 652,08 = 8632,08 (J)
. So sánh A và Q
Q ≈ A
Nếu tính cả phần nhỏ nhiệt lượng truyền ra môi trường
xung quanh thì Q = A.
- Dựa vào nhận xét trên học sinh sẽ rút ra được mối quan hệ giữa Q và I, R, t
3.1.2) Giáo viên phải nắm rõ tính năng của các dụng cụ thí nghiệm:
- Giáo viên phải nắm rõ tính năng của từng dụng cụ thí nghiệm để từ đó hướng dẫn
học sinh tiến hành thí nghiệm đạt hiệu quả cao và chính xác đồng thời giúp giáo
viên có thể xử lý tốt các tình huống bất ngờ có thể xảy ra khi hướng dẫn học sinh
tiến hành thí nghiệm.
Cụ thể trong chương Điện học mơn vật lí 9 có một số dụng cụ thí nghiệm
mà học sinh sử dụng thường xun khi làm thí nghiệm vật lí như: ampe kế, vơn
kế, khóa, dây nối, bóng đèn, dây điện trở. Những dụng cụ này khi sử dụng cần
phải chú ý:
a) Vơn kế, ampe kế:
- Trước khi đo phải điều chỉnh cho kim ampe kế, vơn kế chỉ đúng vạch 0.

- Học sinh khơng được mở vỏ ampe kế, vơn kế ra vì bụi vào chân kính và
đầu trục sẽ làm cho khung khơng linh động.
14


- Không được đánh rơi và va chạm mạnh vào vôn kế, ampe kế vì dễ làm
hỏng chân kính và đầu trục.
- Chú ý cách mắc vôn kế và ampe kế trong mạch: ampe kế mắc nối tiếp với
đoạn mạch cần đo còn vôn kế thì mắc song song và phải mắc đúng cực (đối với
điện một chiều).
- Vôn kế dùng cho học sinh trong nhà trường thường có khung quay, quấn
bằng 300 vòng dây đồng bọc sơn cách điện φ 0,05mm (nhỏ hơn sợi tóc) nên phải
bảo quản nơi khô ráo và tránh hơi hóa chất. Nếu để nơi ẩm và có hơi hóa chất thì
dây quấn khung quay và lò xo xoắn sẽ bị ôxi hóa và đứt, phần thép ở 2 cực nam
châm bên ngoài khung quay bị rỉ làm khung không quay được.
- Sử dụng thang đo: sau khi đóng mạch điện, quan sát kim vôn kế và ampe
kế để chuyển về thang đo thích hợp. Kết quả đo tốt nhất khi kim ampe kế, vôn kế
ở khoảng 1/3 giữa thang đo.
b) Khóa (công tắc):
- Đảm bảo khi đóng khóa phải tiếp xúc tốt.
- Chỉ đóng mạch điện trong thời gian ngắn đủ để quan sát số chỉ của ampe
kế và vôn kế.
- Khi mắc mạch điện khóa phải hở.
- Khóa mắc nối tiếp với dụng cụ, thiết bị điện.
c) Dây nối:
- Các đoạn dây dẫn nối mạch không nên dài quá vì làm phức tạp thêm và
nhìn không rõ mạch điện.
- Đảm bảo điểm tiếp xúc tốt.
- Cầm dây nối đúng cách (tránh bị đứt).
d) Bóng đèn:

- Nếu bóng đèn bị lọt khí, khi hiệu điện thế đặt vào bóng đèn còn thấp
nhưng dòng điện đã khá lớn. Khi tăng hiệu điện thế lên đến khoảng 2V; 2,5V thì
bóng đèn bị đứt dây tóc (bài thực hành xác định công suất của đèn).
e) Dây điện trở:
- Dùng nguồn điện 3V để dòng điện nhỏ, dây điện trở không bị nóng.
- Đóng mạch điện trong thời gian ngắn để dây điện trở không bị nóng.
3.1.3) Giáo viên phải tiến hành thí nghiệm trước vài lần và đảm bảo thí
nghiệm phải thành công:
- Mục đích của thí nghiệm trực quan là giúp học sinh tiếp nhận kiến thức có
căn cứ khoa học do đó sự thành công của thí nghiệm là rất quan trọng. Vì vậy
trước khi tổ chức cho học sinh thí nghiệm giáo viên cần kiểm tra các dụng cụ và
phải đảm bảo rằng tất cả các dụng cụ đều hoạt động tốt, tương đối chính xác. Giáo
viên tự mình thực hiện trước các thí nghiệm để tìm tòi, khám phá những phương
án thí nghiệm mới phù hợp với thực tế giảng dạy của trường.
Ví dụ: Tìm hiểu tác dụng của biến trở (bài 10 – SGK vật lí 9)
- Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ mạch điện hình 10.3






C
N

15
M


- Giáo viên cần lưu ý học sinh: chốt (+) của nguồn mắc vào điểm N của biến trở;

chốt (-) của nguồn mắc vào điểm M của biến trở.
- Hướng dẫn học sinh phân tích mạch điện:
. Tính Rtđ  Rtđ = Rđ + Rbt
. Tính I 

I=

U
Rtd

+ Khi C ≡ N: dòng điện chạy qua hết chiều dài của biến trở nên: Rtđ = Rđ + Rbtmax

I=

U
U
=
Rtd Rd + Rbtmax

(1)

+ Khi C ≡ M: Rtđ = Rđ + Rbtmin (Rbtmin = 0) ⇒ Rtđ = Rđ

U U
=
(2)
Rtd Rd
+ So sánh (1) và (2) học sinh rút ra được nhận xét: I1 < I2 vậy khi C ≡ N: đèn sáng
mờ nhất; khi C ≡ M đèn sáng mạnh nhất.
+ Từ đó học sinh dễ dàng lập luận được:

. Khi dịch chuyển con chạy C từ từ về N thì đèn sáng mờ dần.
. Khi dịch chuyển con chạy C từ từ về M thì đèn sáng mạnh dần.
- Sau khi hướng dẫn học sinh phân tích mạch điện xong thì giáo viên sẽ tiến hành
thí nghiệm cho học sinh quan sát. Để đảm bảo kết quả thí nghiệm chính xác như
phân tích thì giáo viên cần chọn dụng cụ thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm nhiều
lần đồng thời phải quy ước rõ trên mạch điện điểm nào là N, điểm nào là M để khi
dịch chuyển con chạy C học sinh sẽ dễ dàng quan sát độ sáng, tối của đèn và đối
chiếu với những phân tích lý thuyết nhờ vậy học sinh sẽ dễ hiểu bài hơn. Nếu giáo
viên không tiến hành thí nghiệm trước có thể sẽ bị lúng túng, mất thời gian cho nội
dung này.
3.1.4) Khi hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm phải đảm bảo cho cả lớp
quan sát được:
Yếu tố góp phần quan trọng để đảm bảo cho học sinh tiến hành thí nghiệm
thành thạo và có hiệu quả đó là sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó khi hướng dẫn
giáo viên phải đảm bảo cho cả lớp quan sát (nên sử dụng giá thí nghiệm, vật chỉ thị
màu,…), đưa ra dụng cụ thí nghiệm đúng lúc để không phân tán sự tập trung của
học sinh. Tuy nhiên một yếu tố cũng góp phần quyết định sự thành công của thí
nghiệm là sự tham gia tích cực của học sinh. Bởi vậy trước khi tiến hành thí
nghiệm giáo viên phải làm rõ mục tiêu của thí nghiệm là gì, nên hướng dẫn học
sinh theo trình tự sau:
+ Bước 1: yêu cầu học sinh đọc thông tin về thí nghiệm ở sách giáo khoa.
+ Bước 2: giáo viên hướng dẫn học sinh làm rõ các vấn đề sau:
- Mục tiêu của thí nghiệm.
- Dụng cụ thí nghiệm.
I=

16


- Cách tiến hành – các vấn đề cần lưu ý.

+ Bước 3: ghi lại kết quả thí nghiệm.
+ Bước 4: phân tích kết quả thí nghiệm.
+ Bước 5: giáo viên tổng kết và nhận xét.
Khi hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm thì:
+ Giáo viên chuẩn bị sẵn bộ dụng cụ giống bộ dụng cụ phát cho học sinh.
+ Phải sắp xếp, bố trí dụng cụ một cách hợp lý.
+ Nên sử dụng giá làm thí nghiệm để cả lớp quan sát dễ dàng hơn.
+ Giáo viên chọn vị trí đứng thích hợp không che khuất tầm nhìn của học
sinh.
+ Chú ý bao quát lớp, nhắc nhở kịp thời những học sinh không tập trung.
+ Cần nhấn mạnh những chỗ quan trọng nhằm tránh sai sót.
- Chỉ cho học sinh tiến hành một số thí nghiệm trong bài chứ không tiến hành theo
nhóm tất cả các thí nghiệm trên lớp vì điều này ảnh hưởng đến thời gian của tiết
học.
Ví dụ:
Khi dạy chương điện học đa số học sinh làm thí nghiệm là mắc mạch điện, sử
dụng các dụng cụ đo cho nên tôi đã hướng dẫn các em phương pháp như sau:
- Khi lắp mạch điện tôi yêu cầu học sinh xem thật kĩ ảnh chụp mạch điện
trong sách giáo khoa.
- Gọi học sinh lên bảng vẽ sơ đồ mạch điện.
- Yêu cầu học sinh nhìn vào sơ đồ sau đó bố trí các dụng cụ, thiết bị điện lên
bảng điện theo thứ tự như sơ đồ.
- Cuối cùng là mắc dây nối từ cực dương của nguồn (thường quy ước dây
dẫn nối với cực dương là dây màu đỏ, cực âm là dây màu xanh hoặc màu đen) đến
các bộ phận khác của mạch điện. (Lưu ý mạch điện đi dây phải kín không bị hở,
khóa phải mở và nối cực dương của nguồn với khóa).
3.1.5) Giáo viên phải thực hiện đúng tinh thần mục tiêu và yêu cầu của
chương trình sách giáo khoa mới:
Chương trình vật lí mới về nội dung kiến thức đã được giảm tải khá nhiều
so với nội dung cũ; các đơn vị kiến thức được trình bày theo hướng xem trọng vai

trò của phương tiện dạy học và gắn liền với thực tiễn. Nội dung chính của bài học
được thể hiện dưới các hình thức như cung cấp tư liệu, các thông tin cần tìm kiếm,
các giải pháp dẫn dắt học sinh xử lý và tìm kiếm thông tin như: tạo tình huống có
vấn đề, hệ thống câu hỏi, bài tập định tính, định lượng, một số thí nghiệm…. để
tiếp cận tri thức. Với cách trình bày kiến thức giáo khoa như vậy tạo cho học sinh
giải quyết được các tình huống theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức, học
sinh có điều kiện suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, khả năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn linh hoạt hơn.
Như vậy khi giảng dạy trên lớp giáo viên cần đặt vấn đề bài học bằng cách
tạo ra những tình huống có vấn đề rồi yêu cầu học sinh dự đoán và dùng thí
nghiệm kiểm tra dự đoán. Do đó giáo viên tăng cường sử dụng thiết bị dạy học, tổ
chức cho học sinh tự làm thí nghiệm, xử lý số liệu để tìm ra kiến thức.
Ví dụ:
1) Bài 10: Biến trở - Điện trở dùng trong kĩ thuật.
17


Tạo tình huống có vấn đề:
+ Có thể dùng biến trở để điều chỉnh bóng đèn từ từ sáng dần lên hoặc từ từ
tối lại.
+ Dùng biến trở ta có thể điều chỉnh âm lượng của rađiô, tivi to dần lên hay
nhỏ lại.
 Vậy biến trở có cấu tạo và hoạt động như thế nào?
Hoặc giáo viên có thể điều chỉnh núm của quạt để quạt quay nhanh dần hoặc chậm
dần sau đó yêu cầu học sinh giải thích theo hiểu biết của mình tại sao làm được
như vậy? Học sinh dự đoán trả lời. Từ câu trả lời của học sinh giáo viên sẽ hướng
dẫn vào bài mới (không nhận xét học sinh trả lời đúng hay sai).
2) Bài 16: Định luật Jun – Lenxơ
Tạo tình huống có vấn đề:
+ Theo chương trình vật lí lớp 7: dòng điện chạy qua vật dẫn sẽ làm vật dẫn

nóng lên  Nhiệt lượng tỏa ra khi đó phụ thuộc vào các yếu tố nào?
Hoặc giáo viên có thể chiếu hình ảnh minh họa mạch điện hay nếu đủ thời gian
giáo viên có thể mắc sẵn mạch điện theo sơ đồ như sau:





Sau đó giáo viên đóng công tắc lại cho đèn cháy, một lúc sau đèn sẽ nóng lên. Lúc
này giáo viên đặt câu hỏi: tại sao cùng một dòng điện chạy qua đèn và dây dẫn,
trong cùng thời gian nhưng dây tóc bóng đèn nóng lên tới nhiệt độ cao còn dây nối
hầu như không nóng lên?
Giáo viên có thể gọi học sinh trả lời, tùy câu trả lời của học sinh giáo viên sẽ
hướng dẫn học sinh vào bài mới. Câu hỏi này sẽ được giải đáp sau khi học bài
xong (đó là câu hỏi vận dụng trong SGK nên nếu giáo viên lắp sẵn mạch điện học
sinh sẽ dễ trả lời hơn).
3.1.6) Giáo viên cần giao việc ở nhà sau mỗi bài học cho học sinh:
Giáo viên giao công việc cụ thể cho mỗi nhóm thông qua phiếu học tập để
hình thành cho các em thói quen đọc sách giáo khoa và khi vào lớp không phải
mất nhiều thời gian hoặc giao bài tập cho học sinh giải ở lớp hoặc về nhà (giáo
viên sẽ kiểm tra vào tiết dạy tuần sau).
Ví dụ:
1) Sau khi học xong bài 2: Điện trở dây dẫn – Định luật Ôm. Để chuẩn bị cho
bài 3 thực hành: Xác định điện trở dây dẫn tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị trả lời
một số câu hỏi sau:
+ Viết công thức tính điện trở dây dẫn?
+ Vẽ sơ đồ mạch điện trong đó có sử dụng vôn kế và ampe kế để xác định
điện trở của một dây dẫn?
+ Dựa vào sơ đồ em hãy cho biết để xác định R cần đo những đại lượng
nào? Dùng dụng cụ gì? Cách đo?

18


Như vậy đến tiết sau khi thực hành học sinh sẽ biết được mục đích của bài thực
hành, biết phải chọn dụng cụ như thế nào và các bước tiến hành thí nghiệm.
2) Sau khi học bài 7: Sự phụ thuộc của điện trở vào chiều dài dây dẫn, tôi giao
việc cho học sinh về nhà chuẩn bị một số câu hỏi như sau:
+ Điện trở dây dẫn phụ thuộc những yếu tố nào?
+ Để kiểm tra điện trở dây dẫn phụ thuộc như thế nào vào tiết diện dây dẫn
thì ta phải tiến hành thí nghiệm với các dây dẫn có đặc điểm như thế nào?
+ Phương án tiến hành thí nghiệm?
3.1.7) Kết hợp thí nghiệm với các phương tiện trực quan, phương tiện
nghe nhìn, với máy vi tính:
- Để thí nghiệm phát huy đầy đủ các chức năng của nó trong dạy học vật lí
thì việc sử dụng thí nghiệm phải tuân theo một số yêu cầu chung về kĩ thuật và
phương pháp dạy học. Đối với các thí nghiệm biểu diễn hiện tượng xảy ra rất khó
quan sát vì dụng cụ thí nghiệm thường có kích thước không lớn lắm thì máy chiếu
hoặc bảng tương tác thông minh sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc phóng to thí nghiệm
một cách trực tiếp.
- Để làm nổi bật vai trò của thí nghiệm và tính hiệu quả của nó trong dạy
học vật lí các phương tiện nghe nhìn như tranh vẽ, ảnh chụp, phim đèn chiếu, phim
nhựa, video, mô hình,… cũng nên được sử dụng kết hợp với thí nghiệm.
- Có những quá trình vật lí xảy ra quá nhanh ta không thể quan sát trực tiếp
bằng mắt thường lại có những quá trình xảy ra rất chậm mà chỉ trong 1 tiết học
mất rất nhiều thời gian để quan sát thì sự hỗ trợ của camera là hợp lý nhất.
- Ngoài ra giáo viên có thể phối hợp hình ảnh và âm thanh trong thí nghiệm
để làm cho tiết học thêm sinh động, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh.
- Mặt khác hiện nay xu hướng khai thác và sử dụng máy vi tính trong dạy
học vật lí ngày càng nhiều, đối với những thí nghiệm không thể tiến hành theo
cách thông thường thì máy vi tính với các phần mềm cài đặt sẵn sẽ hỗ trợ rất nhiều

cho người giáo viên bằng các chức năng mô phỏng, minh họa,….
3.2) Đối với học sinh:
3.2.1) Chia nhóm một cách hợp lí:
- Tùy theo sỉ số lớp và số lượng đồ dùng thí nghiệm hiện có mà giáo viên chia
nhóm sao cho hợp lí và lưu ý khi phân chia nhóm cho học sinh giáo viên nên chia
sao cho có đủ học sinh khá – giỏi và học sinh yếu đồng thời có thể duy trì nhóm
suốt cả năm học và phải có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ cụ thể của từng em
trong nhóm:
+ 1 nhóm trưởng (có uy tín): nhận dụng cụ và có nhiệm vụ phân công, đôn
đốc các bạn thực hành, bảo quản dụng cụ thí nghiệm.
+ 1 học sinh làm thư ký, chịu trách nhiệm ghi lại kết quả thí nghiệm, báo
cáo kết quả thí nghiệm, các vấn đề thảo luận được. (chọn bạn trình bày chữ viết rõ
ràng, cụ thể).
+ 3 học sinh lắp ráp và tiến hành thí nghiệm.
+ 3 học sinh quan sát thí nghiệm và đọc kết quả.
Sau khi tiến hành thí nghiệm xong thì nhóm trưởng cùng thu dọn dụng cụ với các
thành viên trong nhóm còn thư ký thì hoàn thành bảng báo cáo.
19


- Mặc dù có sự phân công như thế nhưng cần giáo dục học sinh ý thức hỗ trợ lẫn
nhau để thực hiện yêu cầu chung của thí nghiệm.
3.2.2) Giáo dục cho học sinh nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc
xem trước nội dung sách giáo khoa ở nhà:
Mỗi học sinh cần nhận thức rõ lợi ích của việc xem trước bài học. Nếu có
xem trước sách giáo khoa, xem trước nội dung bài học, các thí nghiệm cần tiến
hành và cách làm (dựa vào ảnh chụp và các hướng dẫn trong sách giáo khoa) thì
lên lớp chỉ cần chú ý lắng nghe và quan sát giáo viên hướng dẫn qua là học sinh
có thể thực hiện được và thảo luận rút ra nội dung bài học.Cần tập dần cho học
sinh tự làm việc với sách giáo khoa ở một số thí nghiệm đơn giản và giáo viên chỉ

cần quan sát và giúp đỡ nhóm gặp khó khăn.
3.2.3) Cần kích thích tính tự giác, tích cực hoạt động của học sinh và rèn
cho các em thói quen hợp tác với các bạn trong nhóm:
Cần giáo dục cho học sinh hiểu rằng mọi kết quả thí nghiệm, mọi nhận xét,
kết luận được rút ra từ thí nghiệm không phải là thành quả của bất kì thành viên
nào mà là thành quả của cả tập thể. Chính vì vậy mỗi thành viên trong nhóm cần
nhận thức rõ vai trò của mình đối với hoạt động nhóm và có ý thức cố gắng thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình và giúp đỡ các bạn trong nhóm để cùng nhau đạt được
những kết quả tốt nhất. Trên cơ sở đó giúp học sinh phát triển năng lực tự giác,
phát triển khả năng tư duy và thảo luận trong nhóm. Ta có thể đặt ra các hình thức
thi đua để khuyến khích học sinh tích cực hoạt động, mà đã là thi đua thì sẽ có
khen thưởng cho nhóm tiến hành thí nghiệm nhanh và kết quả tương đối chính
xác. Đôi khi phần thưởng chỉ là một tràng pháo tay khích lệ hay một lời khen ngợi
trước lớp hoặc một điểm cộng khuyến khích cho cả nhóm tôi nghĩ sẽ làm cho các
em thấy tự tin hơn, hứng thú hơn đồng thời tạo không khí sôi nổi trong học tập.
3.2.4) Giáo dục cho học sinh ý thức làm việc có tổ chức, kỉ luật và ý thức
bảo vệ của công:
Để tiến hành được điều này đòi hỏi giáo viên phải có sự kiểm tra chặt chẽ
đối với học sinh trong quá trình tiến hành thí nghiệm. Giáo viên phải đi đến từng
nhóm học sinh để quan sát hoạt động của mỗi nhóm và hướng dẫn học sinh sử
dụng dụng cụ thí nghiệm cho đúng cách.
Mặt khác trong quá trình làm thí nghiệm giáo viên cần bao quát lớp, theo
dõi chặt chẽ, quan sát để phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có
biện pháp hỗ trợ và khuyến khích học sinh hợp tác, giúp đỡ nhau khi thực hiện
nhiệm vụ học tập. Đặc biệt cần chú ý những học sinh chưa ngoan, hay phá dụng cụ
thí nghiệm để có biện pháp giáo dục kịp thời giúp học sinh có ý thức kỉ luật, ý
thức bảo vệ của công.
3.3) Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khi thực hành thí nghiệm vật lí:
3.3.1) Thí nghiệm phải thành công:
Sự thành công của thí nghiệm có vai trò rất quan trọng, nó có sức ảnh hưởng

rất lớn đối với lòng tin và sự say mê khoa học của học sinh. Thí nghiệm thành
công thì học sinh hứng thú học tập, yêu thích bộ môn, tin tưởng vào khoa học. Do
đó để đảm bảo yêu cầu này giáo viên phải thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của
mình.
3.3.2) Thí nghiệm phải chính xác:
20


- Chính xác có nghĩa là hạn chế tối đa những sai số ngẫu nhiên và sai số do
dụng cụ đo. Dĩ nhiên trong phòng thực hành phổ thông không thể đòi hỏi sự chính
xác tối đa mà chỉ có thể hạn chế những sai số có thể.
- Đảm bảo dụng cụ được sắp xếp đúng như trình tự, đúng phương án đã dự
kiến.
- Làm thí nghiệm nhiều lần với những điều kiện khác nhau để có được giá
trị gần đúng nhất, sai số nhỏ nhất. Thao tác cẩn thận, không bỏ qua bất kỳ bước
nào dù có làm lại nhiều lần.
- Thang đo phải phù hợp với yêu cầu sai số.
- Chú ý cách làm tròn kết quả đo.
- Khi đo cường độ dòng điện, cần đo nhanh ngay khi ổn định để tránh việc
điện trở nóng lên làm thay đổi giá trị.
3.3.3) Thí nghiệm phải an toàn:
- An toàn nghĩa là đảm bảo người làm thí nghiệm không gặp nguy hiểm, đồ
dùng, thiết bị không bị hư hỏng, cháy nổ. Trong thí nghiệm vật lí phổ thông thì các
thí nghiệm có sử dụng điện là những thí nghiệm có nguy cơ mất an toàn cao nhất.
- Việc đầu tiên là học sinh phải tuân theo hướng dẫn của giáo viên, tuyệt đối
không được nhảy bước, thêm bước, tự ý thử nghiệm.
- Đọc kĩ các quy tắc an toàn điện nói chung.
- Đảm bảo “không cắm điện khi công tắc đang mở”. Trước khi bắt đầu thí
nghiệm cần cắm điện vào nguồn trước khi bật công tắc. Khi thí nghiệm xong cần
tắt công tắc trước khi rút dây điện. Không gắn hoặc tháo dây trong khi mạch vẫn

còn điện hoặc công tắc mở.
- Luôn đảm bảo dòng điện nhỏ nhất trước khi tiến hành thí nghiệm. Biến thế
nguồn phải đặt ở 0V rồi từ từ nâng lên; biến trở phải đặt ở giá trị lớn nhất rồi từ từ
giảm xuống.
- Thí nghiệm luôn phải có khóa trong mạch, khóa phải ở chế độ mở.
- Các dụng cụ đo điện như vôn kế, ampe kế luôn đặt ở thang đo lớn nhất khi
bắt đầu. Ampe kế mắc nối tiếp, vôn kế mắc song song.
4) Kết quả chuyển biến của đối tượng:
- Sau một thời gian áp dụng những giải pháp trên tôi nhận thấy các em có
tiến bộ trong học tập chẳng hạn như các em biết nêu được mục đích thí nghiệm,
các dụng cụ cần thiết cho thí nghiệm và sau khi được giáo viên hướng dẫn các em
đã thực hiện được theo đúng yêu cầu của giáo viên. Các em đã biết thảo luận nhóm
có hiệu quả, rất sôi nổi không còn dè dặt, biết hợp tác nhóm thông qua kết quả báo
cáo thí nghiệm ở từng nhóm. Nhờ vậy không khí học tập sôi nổi và làm tăng hứng
thú học tập của học sinh đối với bộ môn.
- Điều mà tôi tâm đắc nhất đó là thí nghiệm không còn chiếm rất nhiều thời
gian trong tiết học nữa bởi các em đã có kĩ năng lắp dụng cụ và thực hành tốt hơn
tránh được tình trạng “cháy giáo án” và một điều đặc biệt làm tôi rất vui mừng là
học sinh cảm thấy hứng thú đối với môn học này và chất lượng học tập được nâng
dần.

21


Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài:
Lớp
91

Sỉ số
31 (4 nhóm)


92

29 (4 nhóm)

93

27 (4 nhóm)

Nhóm đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu cầu
Nhóm 1: có 4 HS trong Còn lại: 27 HS
nhóm
Nhóm 3: có 3 HS trong Còn lại: 26 HS
nhóm
Nhóm 4: có 3 HS trong Còn lại: 24 HS
nhóm

Kết quả sau khi thực hiện đề tài:
1) Thống kê kết quả bài thực hành 3: Xác định điện trở của một dây dẫn bằng
ampe kế và vôn kế.
Lớp

Sỉ số

91
92
93

31

29
27

Đạt yêu cầu
(từ 5,0 trở lên)
31
29
27

Chưa đạt yêu cầu
(dưới 5,0)
0
0
0

2) Thống kê kết quả bài thực hành 15: Xác định công suất của các dụng cụ điện.
Lớp

Sỉ số

91
92
93

31
29
27

Đạt yêu cầu
(từ 5,0 trở lên)

31
29
27

Chưa đạt yêu cầu
(dưới 5,0)
0
0
0

3) Chất lượng bộ môn học kì I năm học 2016 – 2017:
Lớp

Sỉ số

Giỏi

91

30

12

92

29

15

93


27

7

Tổng
cộng

86

34

Tỉ lệ
%
40

Khá

51,7
2
25,9
3
39,5
3

11

16

15

42

Tỉ lệ
%
53,3
3
37,9
3
55,5
6
48,8
4

Trung
bình
2

Tỉ lệ
%
6,67

Yếu

3

10,34

0

5


18,52

0

10

11,63

0

0

Ngoài ra với đề tài này tôi áp dụng vào công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
thực hành môn vật lí và đạt kết quả khả quan: 3/3 học sinh tham gia dự thi thì cả 3
học sinh đều đạt học sinh giỏi thực hành cấp huyện.
22


III/ PHẦN III: KẾT LUẬN
1/ Tóm lược giải pháp:
Theo tinh thần đổi mới hiện nay, học sinh không còn tiếp thu kiến thức khoa học
theo kiểu truyền đạt – tiếp thu nữa mà bằng năng lực của bản thân, học sinh tự
mình tiếp cận, nhận thức và lĩnh hội các kiến thức khoa học. Học sinh không thụ
động ngồi nghe giáo viên truyền đạt kiến thức mà phải chủ động học tập tích cực
bằng suy nghĩ độ lập của chính mình. Giáo viên không còn là người truyền đạt
kiến thức có sẵn mà là người định hướng, người “dẫn đường” dắt học sinh đến với
bến bờ tri thức.
Trong đề tài này tôi đã sử dụng một số giải pháp sau:
 Đối với giáo viên:

- Phải phân biệt được sự khác nhau của một số loại thí nghiệm.
- Phải nắm rõ tính năng của các dụng cụ thí nghiệm.
- Phải tiến hành thí nghiệm trước vài lần và đảm bảo thí nghiệm phải thành
công.
- Đảm bảo bố trí thí nghiệm cho cả lớp quan sát được.
- Giáo viên phải thực hiện đúng tinh thần, mục tiêu và yêu cầu của chương
trình sách giáo khoa mới.
- Giao việc về nhà cho học sinh sau mỗi bài học.
- Kết hợp thí nghiệm với các phương tiện trực quan, nghe nhìn.
 Đối với học sinh:
- Chia nhóm một cách hợp lí.
- Giáo dục học sinh vai trò quan trọng của việc em trước nội dung sách giáo
khoa ở nhà.
- Cần kích thích tính tự giác, tích cực hoạt động của học sinh vè rèn cho các
em thói quen hợp tác với các bạn trong nhóm.
- Giáo dục học sinh ý thức làm việc có tổ chức, kỷ luật và ý thức bảo vệ của
công.
 Đối với thí nghiệm phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Thí nghiệm phải thành công.
- Thí nghiệm phải chính xác.
- Thí nghiệm phải an toàn.
- Trong dạy học vật lí việc khai thác hiệu quả vai trò của thí nghiệm là một trong
vấn đề hết sức cần thiết vì thí nghiệm có vai trò quan trọng trong khoa học. Mặc
dù thí nghiệm trực diện chiếm tỉ lệ cao trong chương trình nhưng bản thân giáo
viên phải ý thức được rằng thí nghiệm biểu diễn vẫn rất cần thiết phải sử dụng
trong dạy học vật lí nhất là đối với các thí nghiệm phức tạp, mất nhiều thời gian
hoặc không đảm bảo an toàn đối với học sinh. Việc sử dụng thí nghiệm biểu diễn
phải tránh tình trạng lạm dụng thí nghiệm, chỉ sử dụng thí nghiệm như một sự
trình diễn đơn thuần mà phải tuân thủ các yêu cầu của việc đặt kế hoạch thí
nghiệm, chuẩn bị thí nghiệm, bố trí thí nghiệm, tiến hành và xử lý kết quả thí

nghiệm.
2) Phạm vi, đối tượng áp dụng:

23


Sáng kiến kinh nghiệm này tôi áp dụng cho toàn thể học sinh khối 9 của trường
THCS Nguyễn Thành Nam nhưng với đề tài này vẫn có thể áp dụng cho quá trình
dạy học vật lí nói chung ở bậc phổ thông vì vật lí là một môn khoa học thực
nghiệm và cũng được áp dụng trong việc giảng dạy các bộ môn khoa học tự nhiên
khác có tiến hành thí nghiệm như: hóa học, sinh học, công nghệ,... và áp dụng
được cả trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi thực hành.
3/ Kết luận:
Sau khi làm đề tài này, có điều kiện tìm hiểu tình hình thực tế của học sinh
tôi nhận thấy: để giúp học sinh tiếp thu và vận dụng kiến thức tốt ngoài việc cần
phải cho các em thấy vai trò của các thí nghiệm thì một yếu tố quan trọng giúp học
sinh đạt kết quả cao đó chính là sự hứng thú đối với bộ môn. Chính 2 yếu tố này
làm cho học sinh say mê học tập, tìm tòi kiến thức, có kết quả cao trong học tập.
Từ đó tôi rút kinh nghiệm cho bản thân mình: phải luôn rèn luyện tác phong sư
phạm của mình, không ngừng bồi dưỡng năng lực chuyên môn, phải tận dụng các
đồ dùng dạy học đã có hoặc tự làm thêm, phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, nhà
trường để có thể phần nào lôi cuốn học sinh say mê khoa học để các em đạt kết
quả cao trong học tập.
Tuy nhiên để đề tài này có hiệu quả tối ưu cần có sự hợp tác giữa giáo viên
và học sinh rất nhiều, các em phải nhiệt tình tham gia vào quá trình học tập ở lớp
cũng như ở nhà.
Với một giáo viên còn ít tuổi nghề như tôi nên khi thực hiện đề tài này có
thể sự nhìn nhận, phân tích vấn đề còn chưa sâu sắc lắm, mong được sự đóng góp
chân thành của quý thầy cô.
Xin chân thành cảm ơn!


24


MỤC LỤC

I/ PHẦN I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1/ Đặt vấn đề
a) Cơ sở lí luận
b) Cơ sở thực tiễn
2) Mục đích đề tài
3) Lịch sử đề tài
4) Phạm vi đề tài

Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 4

II/ PHẦN II: NỘI DUNG VÀ CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM
1) Thực trạng đề tài
Trang 5
2) Nội dung cần giải quyết
Trang 8
3) Biện pháp giải quyết
3.1) Đối với giáo viên:
3.1.1) Giáo viên cần phân biệt sự khác nhau một số loại thí nghiệm Trang 9
3.1.2) Giáo viên phải nắm rõ tính năng của dụng cụ thí nghiệm
Trang 14

3.1.3) Giáo viên phải tiến hành thí nghiệm trước và đảm bảo
thí nghiệm thành công
Trang 15
3.1.4) Khi hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm phải đảm bảo
cho cả lớp quan sát được
Trang 16
3.1.5) Giáo viên phải thực hiện đúng tinh thần mục tiêu và
yêu cầu của chương trình sách giáo khoa mới
Trang 17
3.1.6) Giao việc ở nhà sau mỗi bài học cho học sinh
Trang 18
3.1.7) Kết hợp thí nghiệm với các phương tiện trực quan,
phương tiện nghe nhìn, với máy vi tính
Trang 19
3.2) Đối với học sinh:
3.2.1) Chia nhóm một cách hợp lí
Trang 19
3.2.2) Giáo dục cho học sinh nhận thức rõ vai trò quan trọng của
việc xem trước nội dung sách giáo khoa ở nhà
Trang 20
3.2.3) Cần kích thích tính tự giác, tích cực hoạt động của học sinh
và rèn cho các em thói quen hợp tác với các bạn trong nhóm
Trang 20
3.2.4) Giáo dục cho học sinh ý thức làm việc có tổ chức, kỉ luật
và ý thức bảo vệ của công
Trang 20
3.3) Đối với thí nghiệm phải đảm bảo các yêu cầu cần thiết:
3.3.1) Thí nghiệm phải thành công
Trang 20
3.3.2) Thí nghiệm phải chính xác.

Trang 20
3.3.3) Thí nghiệm phải an toàn.
Trang 21
4) Kết quả chuyển biến của đối tượng
Trang 21

III/ PHẦN III: KẾT LUẬN
1/ Tóm lược giải pháp
2) Phạm vi, đối tượng áp dụng
3/ Kết luận

Trang 23
Trang 23
Trang 24

25


×