Tải bản đầy đủ (.doc) (188 trang)

Nghiên cứu đặc điểm của huyệt thận du và hiệu quả của điện châm trong điều trị đau thắt lưng thể thận hư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 188 trang )

ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
PHẠM HỒNG VÂN

Nghiên cứu đặc điểm của huyệt Thận du và hiệu
quả của điện châm trong điều trị đau thắt lưng
thể thận hư

Chuyên ngành

: Y học cổ truyền

Mã số

: 62720201

Nghiên cứu sinh

: Phạm Hồng Vân

Người hướng dẫn

: PGS.TS. Nghiêm Hữu Thành
PGS.TS. Bùi Mỹ Hạnh

2014


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau thắt lưng (ĐTL) là hiện tượng đau cấp tính hoặc mạn tính ở vùng


từ ngang đốt sống L1 đến ngang đĩa đệm L5 – S1. Nguyên nhân chính của
đau thắt lưng là do thoái hóa cột sống thắt lưng bao gồm thoái hóa đốt sống
thắt lưng, đĩa đệm và xương sụn khớp đốt sống thắt lưng [1], [2].
Tuy đau thắt lưng là chứng bệnh không gây nguy hiểm đến tính mạng
nhưng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống, là một trong những
nguyên nhân hàng đầu làm giảm khả năng lao động và hiệu quả công việc ở
người trưởng thành.
Theo Y học cổ truyền (YHCT), đau thắt lưng có bệnh danh là “Yêu
thống" đã được mô tả rất rõ trong các y văn cổ. Châm cứu là một trong
những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc của Y học cổ truyền
(YHCT) đã góp phần không nhỏ trong điều trị các chứng bệnh trong đó có
chứng "Yêu thống".
Châm cứu có cơ sở chữa bệnh là huyệt và kinh lạc. Trong hệ thống
huyệt của các đường kinh trong cơ thể có nhiều loại huyệt, trong đó có huyệt
bối du. Huyệt bối du là nơi dương khí tạng phủ tỏa ra ở vùng lưng, mỗi tạng
phủ có một huyệt bối du. Huyệt phân bố cách đều trục giữa cột sống 1,5 thốn,
nằm trên kinh Túc Thái dương Bàng quang. Khi tạng phủ có bệnh, thường ở
huyệt bối du tương ứng sẽ xuất hiện cảm giác ấn đau hoặc tê tức, vì vậy chữa
bệnh của bản tạng tại huyệt bối du có hiệu quả rõ rệt [3], [4].
Thận du là huyệt bối du của tạng Thận, ký hiệu quốc tế là UB23. Huyệt
Thận du có tác dụng ích thủy, tráng hỏa, điều hòa thận khí, kiện cân cốt, chữa
đau lưng, minh mục, thông nhĩ...Với lý giải bằng y lý YHCT, lưng là phủ của
thận nên những bệnh lý đau lưng đều có liên quan đến tạng thận và huyệt Thận
du thường được sử dụng trong điều trị bệnh lý của tạng Thận trên lâm sàng.


2

Mặc dù huyệt Thận du đã được ứng dụng nhiều trên lâm sàng,
nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến đặc điểm

sinh học của huyệt này trên cơ thể người Việt Nam bình thường khỏe mạnh
và trên cơ thể người bệnh. Để góp phần làm sáng tỏ đặc điểm của huyệt Thận
du, những biến đổi của các đặc điểm này khi cơ thể bị bệnh và khi có tác
động điện châm vào huyệt cũng như khẳng định hiệu quả của phương pháp
điện châm trong điều trị đau thắt lưng thể thận hư, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài này với các mục tiêu sau:
1. Xác định một số đặc điểm sinh lý của huyệt Thận du ở người
bình thường khỏe mạnh.
2. Xác định sự biến đổi các đặc điểm sinh lý của huyệt này trên
bệnh nhân đau thắt lưng thể thận hư dưới ảnh hưởng của điện châm.
3. Đánh giá hiệu quả của điện châm huyệt Thận du kết hợp với các
huyệt Giáp tích L2-L5, Thứ liêu, Ủy trung, Dương lăng tuyền trong điều trị
đau thắt lưng thể thận hư.


3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. HUYỆT VỊ VÀ PHƯƠNG PHÁP CHÂM
1.1.1. Huyệt vị châm cứu
1.1.1.1. Quan niệm của Y học cổ truyền về huyệt châm cứu
- Khái niệm về huyệt
Theo thiên Cửu châm thập nhị nguyên của sách Linh khu, huyệt là nơi
thần khí lưu hành, xuất nhập, chúng được phân bố khắp phần ngoài (biểu) của
cơ thể, nhưng không phải hình thái tại chỗ của da, cơ, gân, xương. Theo các
sách xưa, huyệt còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như du huyệt, khổng
huyệt, kinh huyệt, khí huyệt, khí phủ... Huyệt là tên gọi ngày nay quen dùng
nhất [3], [4].
- Phân loại huyệt.
Huyệt được phân bố khắp mặt ngoài cơ thể, mỗi huyệt có một tên có ý

nghĩa nhất định. Căn cứ vào học thuyết kinh lạc, có thể chia làm ba loại huyệt
chính: huyệt của kinh (kinh huyệt), huyệt ngoài kinh (kinh ngoại kỳ huyệt) và
huyệt ở chỗ đau (a thị huyệt) [3].
+ Huyệt của kinh (Kinh huyệt): là những huyệt nằm trên 12 đường kinh
chính và 2 mạch Nhâm, mạch Đốc. Một số huyệt có chức năng và tác dụng
giống nhau được chia thành những nhóm huyệt và được gọi bằng những tên
chung như huyệt Nguyên, huyệt Lạc, huyệt Du ở lưng, huyệt Mộ, huyệt Ngũ
du, huyệt Khích, Bát hội huyệt và Giao hội huyệt.
+ Huyệt ngoài kinh (Kỳ ngoại huyệt): là những huyệt không thuộc vào
12 kinh chính và hai mạch Nhâm, Đốc. Huyệt thường có vị trí ở ngoài các
đường kinh, nhưng cũng có một số huyệt nằm trên đường tuần hành của kinh
mạch chính song không phải là huyệt của kinh mạch đó.
Huyệt ngoài kinh chưa được nói tới trong cuốn Nội kinh, đó là những
huyệt do các nhà châm cứu đời sau quan sát và phát hiện dần. Trên lâm sàng
chúng có hiệu quả điều trị rõ ràng và có vị trí cố định.


4

+ Huyệt A thị: Sách Nội kinh có viết "lấy chỗ đau làm huyệt", những
huyệt đó sau này được gọi là huyệt A thị. Đó là những huyệt không có vị trí
cố định, cũng không tồn tại mãi mãi, nó chỉ xuất hiện ở những chỗ thấy
đau, nó không phải là những huyệt của các kinh mạch chính và huyệt ngoài
kinh. Đặc tính của huyệt A thị là châm vào đó có thể chữa chứng đau nhức rất
tốt vì có tác dụng lưu thông khí huyết.
- Vai trò và tác dụng của huyệt.
Sách Tố Vấn viết "Người ta có 12 khớp lớn, 365 khe nhỏ chưa kể huyệt
của 12 kinh mạch, đều là nơi vệ khí lưu hành. Đó cũng là nơi tà khí vào cơ thể
và lưu lại, phải dùng châm, cứu để đuổi tà khí đi" [3], [5]. Như vậy, huyệt
vừa là nơi thần khí lưu hành xuất nhập, vừa là nơi tà khí xâm nhập vào cơ

thể, vừa là nơi dùng kim hay mồi ngải tác động vào đó để đuổi tà khí ra ngoài.
+ Về sinh lý: Huyệt có quan hệ chặt chẽ với kinh mạch và tạng phủ mà
nó phụ thuộc. Huyệt là nơi thần khí vận hành qua lại vào ra, nơi tạng phủ kinh
lạc dựa vào đó mà thông suốt với phần ngoài cơ thể, làm cho cơ thể thành
một khối thống nhất, góp phần duy trì các hoạt động sinh lý của cơ thể
luôn ở trong trạng thái bình thường [3], [4], [6].
+ Về bệnh lý: Huyệt cũng là cửa ngõ xâm nhập của tà khí lục dâm. Khi
sức đề kháng của cơ thể (chính khí) bị suy giảm thì tà khí qua các huyệt này
vào gây bệnh cho các đường lạc, nếu bệnh tiến triển nặng hơn tà khí sẽ
từ kinh vào sâu trong tạng phủ [3], [4], [6].
+ Về chẩn đoán: Khi tạng phủ bị bệnh, có thể có những thay đổi bệnh
lý phản ánh ra ở huyệt như đau nhức, hoặc ấn vào đau, hoặc hình thái huyệt
bị thay đổi...Thay đổi này là tín hiệu giúp các nhà lâm sàng có thêm tư liệu để
quyết định chẩn đoán bệnh [3], [4], [6].
+ Về phòng và điều trị bệnh: Huyệt là nơi tiếp nhận những kích thích
khác nhau. Tác động lên huyệt một lượng kích thích thích hợp có thể điều hòa
được khí, khí hòa thì huyết hòa, khi huyết hòa thì tuần hoàn của huyết trong
mạch mới thuận lợi, được chuyển đi để nuôi dưỡng cơ thể, lấy lại thăng
bằng


5

âm dương, nghĩa là làm ổn định những rối loạn bệnh lý, lập lại hoạt động
sinh lý bình thường của cơ thể [3], [4], [6].
1.1.1.2. Các nghiên cứu về huyệt của y học hiện đại
Y học hiện đại (YHHĐ) dựa trên bằng chứng của các nghiên cứu lâm
sàng, thực nghiệm, qua các phân tích cụ thể chính xác bằng các phương tiện
ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến đã chỉ ra vị trí giải phẫu của các huyệt
trên đường kinh, đã đề cập đến cấu trúc giải phẫu và điện sinh học của huyệt.

- Đặc điểm giải phẫu của huyệt.
+ Về hình dáng và diện tích da vùng huyệt: Các nhà khoa học khi
nghiên cứu về huyệt đã nhận định rằng huyệt vị trên cơ thể không phải chỉ là
một điểm mà mỗi huyệt có vùng hình chiếu tương ứng trên mặt da. Huyệt
đa số có hình tròn và chiếm vị trí nhất định trên mặt da, kích thước các huyệt
2

dao động trong khoảng từ 4 đến 18 mm , là những vùng da nhạy cảm hơn và
có chức năng đặc hiệu hơn so với các cấu trúc xung quanh [7], [8], [9], [10].
+ Về tổ chức học vùng huyệt: Nghiên cứu các thành phần tổ chức học
của Bosy J. cho thấy 29% số huyệt có các sợi thần kinh kiểu não- tủy. Các
xung động thần kinh phát sinh tại các huyệt được truyền theo các sợi này về
tủy sống và não bộ, 42% số huyệt có dây thần kinh dưới da và 46% số
huyệt có tĩnh mạch dưới da và đám rối thần kinh bao quanh (theo [7]).
Nghiên cứu của Portnov Ph.G. cho thấy có khoảng 80% các huyệt cũng
như vùng da xung quanh có các sợi thần kinh và mạch máu dưới da, trong đó
khoảng 30% có các sợi thần kinh, động mạch dưới da và mạch bạch huyết,
khoảng 30% có các sợi thần kinh và tĩnh mạch nhỏ dưới da, 10% số huyệt tìm
thấy tiểu tĩnh mạch và tiểu động mạch dưới da. Nghiên cứu hình thái
của huyệt dưới kính hiển vi điện tử, tác giả đã phát hiện ra đặc điểm của
các sợi thần kinh tại huyệt có đường kính từ 20- 200 µm, gồm cả các sợi có và
không có myelin, hầu hết các sợi thần kinh ở huyệt có đường kính lớn và rất
giàu mucosacarid và cho phản ứng dương tính với serotonin. Gần sợi thần
kinh còn có các ống bạch huyết, có các tế bào mast cũng như các lưới mạch
máu. Tế bào


6

mast được coi như là nhân tố quan trọng trong điều hòa sự cân bằng nội

môi bởi nó có chứa các hạt có hoạt tính sinh học cao tham gia điều hòa các
chức năng của cơ thể như heparin, histamin, serotonin, acid hyaluronic, các
chất có khả năng gây ảnh hưởng đến điện thế màng tế bào và tính thấm
thành mạch làm cho tế bào mast có thể đáp ứng với nhiều loại kích thích khác
nhau như cơ học, nhiệt, hóa học, tia, các enzym....Số lượng lớn tế bào mast
chịu sự điều hòa của hệ nội tiết và hệ thần kinh trung ương. Ngược lại các
chất có hoạt tính sinh học trong tế bào mast như heparin, histamin, serotonin
không những gây ra tác dụng tại chỗ mà còn có thể tham gia điều hòa hoạt
động của hệ thần kinh và nội tiết. Bên cạnh đó, các chất trung gian còn có khả
năng gây ảnh hưởng đến điện thế màng tế bào, đến tuần hoàn mao mạch,
tính thấm thành mạch và màng tế bào, nghĩa là ảnh hưởng đến quá trình trao
đổi chất. Do đó có thể xem tế bào mast như một bộ máy đặc biệt tại huyệt
(theo [7], [9]).
Hsiu H. và cs đã sử dụng tia laser doppler flowmetry (LDF) để phát
hiện các đặc điểm vi thể tại huyệt và các mô xung quanh huyệt Hợp cốc và
Kinh cốt. Kết quả cho thấy tại huyệt có mạng lưới mao mạch lớn hơn nhiều so
với vùng ngoài huyệt [11].
Yan X.H. và cs đã sử dụng bức xạ synchrotron để nghiên cứu cấu trúc
của các huyệt Tam âm giao, Thiên khu, Nội quan và Túc tam lý trên chuột. Kết
quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng tại các huyệt có tồn tại nhiều vi mạch mà
trong các mô xung quanh của huyệt người ta không thể tm thấy loại cấu trúc
đó. Các vi mạch đã làm nên cấu trúc đặc biệt của huyệt, có mối quan hệ nhất
định với chức năng của huyệt và đóng vai trò quan trọng trong châm cứu [12].
Bürklein M. đã sử dụng laser quang phổ doppler CO2 để so sánh lưu
lượng máu dưới da huyệt Kiên tỉnh và da vùng cơ thang phía ngoài huyệt. Kết
quả cho thấy tại huyệt Kiên tỉnh có lưu lượng máu dưới da lớn hơn so với lưu
lượng máu dưới da ngoài huyệt (p<0,05) [13].
Khi nghiên cứu sử dụng ánh sáng laser quang học công suất thấp
để



7

nghiên cứu
tnh

đặc điểm của các huyệt Nội quan và Giản sử trên người


8

nguyện khỏe mạnh có độ tuổi trung bình là 23,6±1,2, Huang Y. và cs thấy có
sự khác biệt đáng kể về đặc điểm quang học giữa các huyệt và vị trí
ngoài huyệt thể hiện qua sự suy giảm hệ số khuếch tán và phổ phát xạ. Các
tác giả cho rằng các đặc điểm này tạo ra những tương tác nhân-quả với sự
thay đổi chức năng của các mô [14].
Như vậy, có thể nhận định rằng các huyệt châm cứu có cấu trúc hình
thái nhất định chiếm một diện tích trên bề mặt da. Vùng huyệt có số
lượng khá cao các sợi thần kinh ngoại vi, động mạch, tĩnh mạch và mạch bạch
huyết dưới da. Các sợi thần kinh ngoại vi tạo thành mạng lưới quấn
quanh mạch máu, có nhiều đầu mút thần kinh và các tế bào mast có hoạt
tính sinh học cao.
- Đặc điểm sinh học của huyệt.
+ Về đặc điểm nhiệt độ da tại huyệt: Khi nghiên cứu nhiệt độ bằng máy
đo nhiệt độ da tại các huyệt châm cứu, Darras J.C. đã thấy một số huyệt
cao hơn và ngược lại một số huyệt thấp hơn so với vùng xung quanh huyệt và
khi một bộ phận trong cơ thể bị viêm nhiễm sẽ có cảm ứng ra các huyệt của
0

0


đường kinh tương ứng làm nhiệt độ da tại huyệt tăng cao hơn từ 1 C đến 2 C
[15].
Nghiên cứu của Xu Y.X. ở Trung Quốc đã chỉ ra rằng cơ thể con người
có hiện tượng bức xạ hồng ngoại với cường độ khác nhau giữa các vùng
da trong huyệt và ngoài huyệt. Nhiệt độ da trong huyệt cao hơn so với
ngoài huyệt. Chuyển hóa năng lượng tại các huyệt trên cùng đường kinh cao
hơn so với vùng ngoài huyệt và cao hơn so với các huyệt không cùng đường
kinh [16].
Nghiên cứu của Vũ Văn Lạp về đặc điểm huyệt Túc tam lý cho thấy
0

nhiệt độ da tại huyệt Túc tam lý là 31,18 C, cao hơn vùng xung quanh huyệt.
Sau 30 phút điện châm, nhiệt độ da tại huyệt Túc tam lý tăng cao hơn so với
trước điện châm trong khi đó nhiệt độ da ngoài huyệt không có sự khác biệt ở
hai thời điểm trước và sau điện châm [10].


9

Nguyễn Thị Vân Anh và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm
nhiệt độ tại 12 cặp huyệt Nguyên ở người trưởng thành thuộc các lứa tuổi
2025, 50-67 cho thấy tại 12 cặp huyệt Nguyên có nhiệt độ da cao hơn hẳn so
với


10

vùng xung quanh, không có sự khác biệt về nhiệt độ của 12 cặp huyệt Nguyên
giữa bên phải và bên trái cơ thể, nhưng có sư khác nhau giữa nhiệt độ của 12

cặp huyệt Nguyên ở các nhóm lứa tuổi, ở nhóm lứa tuổi 20-25 có nhiệt độ cao
hơn so với ở nhóm lứa tuổi 50-67 [17].
Như vậy, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy
có sự khác nhau về nhiệt độ giữa huyệt và vùng ngoài huyệt, giữa các
huyệt trên cơ thể người khỏe mạnh bình thường. Đối với cơ thể đang bị
bệnh thì có sự thay đổi nhiệt độ tại các huyệt hoặc các huyệt Nguyên liên
quan đến tạng phủ bị bệnh [17], [18]. Thông qua đo nhiệt độ của kinh lạc,
huyệt vị có thể xác định sự mất cân bằng âm dương của kinh lạc, từ đó
có thể phân tích nguyên nhân gây bệnh, đưa ra phương pháp điều trị.
+ Về điện trở da và cường độ dòng điện qua da vùng huyệt: Các nhà
khoa học cho rằng đặc điểm điện sinh lý của huyệt bao gồm điện trở da và
cường độ dòng điện qua da vùng huyệt là hai thông số để phát hiện đặc
điểm sinh học sớm nhất của huyệt và là phương tiện để có thể tm hiểu cơ
chế tác dụng của châm cứu.
Colbert A.P. (2008) đã tiến hành ghi điện trở da tại nhiều huyệt cùng
một lúc bằng thiết bị đa kênh tự động để nghiên cứu đặc điểm điện sinh lý tại
huyệt Nội quan, Ngư tế và tại điểm ở giữa đường nối cổ tay và khuỷu tay của
8 tnh nguyện viên lứa tuổi từ 27- 62. Kết quả nghiên cứu cho thấy điện trở da
ở huyệt Nội quan và Ngư tế đều thấp hơn so với vị trí không phải huyệt ở gần
đó [19].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Vân Thái (1996) về ảnh hưởng của điện
châm lên ngưỡng đau và một số đặc điểm của huyệt châm cứu đã nhận thấy
dưới tác dụng của điện châm, nhiệt độ da ở đa số huyệt đều biến đổi theo xu
hướng tăng, độ thông điện tại huyệt tăng còn điện trở da lại giảm xuống [20].
Nghiên cứu của Phạm Hữu Lợi (2003) về một số đặc điểm sinh học tại
huyệt Nguyên ở trẻ bình thường và bệnh nhi viêm não Nhật Bản, đánh giá
hiệu quả phục hồi vận động bằng điện châm của cho thấy nhiệt độ tại các
huyệt Nguyên của trẻ viêm não Nhật Bản cao hơn so với trẻ bình thường. Sau
điều trị



11

bằng điện châm, thấy có sự tương ứng giữa mức độ phục hồi trên lâm sàng với
sự
trở về bình thường của nhiệt độ và cường độ dòng điện tại các huyệt Nguyên
[18].
Nghiên cứu của Đỗ Công Huỳnh (1994), Vũ Văn Lạp (1996), Hoàng Khánh
Hằng (2001), Bùi Mỹ Hạnh (2003) đều cho thấy có sự khác biệt rõ ràng về điện
trở và cường độ dòng điện vùng huyệt so với vùng da xung quanh. Da vùng
huyệt có điện trở thấp và cường độ dòng điện cao hơn da vùng xung quanh
huyệt [7], [8], [9], [10].
Phạm Thị Xuân Vân (1985) nghiên cứu đặc điểm các huyệt vùng bụng
trên động vật thực nghiệm cũng cho thấy cường độ qua da vùng huyệt lớn
hơn và điện trở da vùng huyệt nhỏ hơn vùng ngoài huyệt [21].
1.1.2.3. Sự tương đồng về huyệt theo Y học cổ truyền với Y học hiện đại.
Theo lý luận YHCT, huyệt là nơi thần khí ra vào lưu hành (ở phần biểu
của cơ thể), có thể hiểu đó là nơi liên thông giữa cơ thể với ngoại môi, nơi cơ
thể đáp ứng (xuất), tiếp nhận (nhập), lưu hành (làm việc không ngừng) [3],
[4], [6]. Y học hiện đại cũng có một cơ quan như vậy, đó là hệ thống cơ quan
cảm thụ.
Hệ thống cơ quan cảm thụ gồm đầu mút thần kinh tự do, các tiểu
thể, các tận cùng có và không có myelin ở chân lông có chức năng tiếp nhận
cảm giác xúc giác (cảm giác sờ mó), cảm giác nóng lạnh, cảm giác đau, đáp
ứng với cảm giác bản thể (cảm giác sâu), đáp ứng với các thay đổi của tạng
phủ.
Từ các phân tích trên nhận thấy hệ thống cơ quan cảm thụ có chức
năng như hệ thống huyệt. Các cơ quan cảm thụ xúc giác, nóng, lạnh, đau
tương tự kinh huyệt (của mạch khí); các cơ quan cảm thụ đáp ứng cảm giác
bản thể tương tự như huyệt hội ở cân, cốt, các tổ chức; các cơ quan cảm thụ

đáp ứng thay đổi của tạng phủ tương tự hệ thống huyệt du, mộ tại tạng phủ,
ngũ du, và nguyên huyệt, huyệt bát hội (tạng, phủ, mạch) nằm trên các
đường kinh, thống huyệt ở cân cơ. Hệ thống cơ quan cảm thụ có cấu trúc


12

của nó, không phải là da, cân, xương nhưng nằm ở da, cơ, gân, xương
(màng). Chỉ có dùng kính hiển vi mới thấy được các cấu trúc này. Vì vậy, Y
học cổ truyền chỉ có thể nói chúng không phải là da, gân, xương.


13

Như vậy, qua kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài
nước, chúng ta có thể thấy được sự khác biệt về hình thái cũng như đặc điểm
chức năng giữa huyệt và cấu trúc da xung quanh huyệt và đưa đến nhận định
rằng huyệt là một vùng nhỏ trên cơ thể có sự tập trung các sợi thần
kinh. Huyệt có nhiệt độ cao hơn vùng da xung quanh và có cường độ dòng
điện qua da lớn hơn vùng lân cận, và điện trở nhỏ hơn vùng ngoài huyệt.
1.1.2. Phương pháp châm và điện châm
1.1.2.1. Phương pháp châm
Châm là dùng kim châm vào huyệt để kích thích sự phản ứng của cơ
thể nhằm gây được tác dụng điều khí, làm thông kinh mạch, tạo nên trạng
thái cân bằng âm dương, nghĩa là phục hồi trạng thái sinh lý, loại trừ trạng
thái bệnh lý, đưa cơ thể trở lại hoạt động bình thường để đạt được mục đích
phòng bệnh và chữa bệnh [3], [4], [6], [22], [23], [24], [25].
Khi điều trị bệnh người thầy thuốc dựa trên trạng thái hư- thực
của bệnh nhân, theo học thuyết kinh lạc, học thuyết ngũ hành mà sử
dụng thủ pháp bổ- tả trong châm. Bổ- tả là thủ thuật được áp dụng khi

châm để nâng cao hiệu quả của châm sau khi châm đạt đắc khí.
Bổ pháp được sử dụng trong điều trị những bệnh mà YHCT chẩn đoán
là hư, thường là những bệnh mắc đã lâu, cơ thể suy nhược, sức đề kháng
giảm trong trường hợp công năng hoạt động của cơ thể bị giảm sút (gọi là
chính khí hư). Tả pháp thường được sử dụng trong điều trị những bệnh mà
YHCT chẩn đoán là thực, là tà khí thực và thường thấy ở bệnh mới mắc, cơ
thể bệnh nhân còn khỏe, sức chống đỡ với bệnh còn mạnh. Các thầy thuốc khi
điều trị bệnh thường sử dụng thủ pháp bổ- tả theo các nguyên tắc hư thì bổ,
thực thì tả, hư thì bổ mẹ, thực thì tả con. Bổ tả có thể tiến hành theo các
cách như bổ tả theo nhanh- chậm (châm kim chậm, rút kim nhanh là tả;
châm kim nhanh, rút kim chậm là bổ), bổ tả theo nghịch- thuận (châm kim
thuận theo hướng tuần hành của đường kinh là bổ; châm kim ngược theo
hướng tuần hành của đường kinh là tả), Bổ tả theo hướng vê kim (sau khi
châm đã đắc khí, vê kim theo hướng


14

của chiều kim đồng hồ, vê nhẹ là bổ, vê kim ngược lại hướng của chiều kim
đồng hồ, vê mạnh nhiều lần là tả). Ngoài ra còn có các loại thủ pháp bổ- tả
khác như bổ tả theo thở ra- hít vào, nhấc lên- ấn xuống...
1.1.2.2.
châm

Phương

pháp

điện


Điện châm là phương pháp dùng dòng điện tác động lên các huyệt qua
các kim châm. Điện châm là một phát triển mới của châm cứu và là phương
pháp kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền, phát huy được cả tác
dụng của dòng điện điều trị lẫn tác dụng của huyệt châm cứu [3], [22], [23],
[24].
Ưu điểm của điện châm là rung kim đều kết hợp với tác dụng của dòng
điện như không gây đau, tạo cảm giác dễ chịu, do vậy điện châm ra đời
đã đáp ứng được mục đích điều khí của châm cứu nhanh mạnh lại không gây
đau đớn và đã trở thành phương pháp chủ yếu trong châm cứu hiện nay.
Dùng dòng điện kích thích lên huyệt châm cứu đã phối hợp tác
dụng của hai phương pháp khác nhau để đạt được hiệu quả tốt hơn, cơ thể
được tiếp thu hai loại kích thích, mỗi loại kích thích đem lại một số tác dụng
nhất định. Dùng dòng điện trong điều trị vật lý kích thích lên huyệt, ngoài tác
dụng do huyệt được kích thích còn có cả tác dụng sinh bệnh lý do dòng điện
gây nên.
Điện châm cũng sử dụng thủ pháp bổ- tả. Khi vận dụng tả pháp hoặc bổ
pháp trên thực tế lâm sàng, phải chú ý tới các thông số về tần số, cường
độ của kích thích để lựa chọn cách thức bổ tả thích hợp.
+ Tần số kích thích (tính bằng Hertz- Hz) là số xung động được tạo ra
trong đơn vị thời gian tính bằng giây. Thủ pháp tả sử dụng tần số kích
thích cao (trên 5Hz), thủ pháp bổ sử dụng tần số kích thích thấp (1- 3 Hz)
+ Cường độ kích thích là biên độ xung (tính bằng microampe- μA).
Biên độ xung nhỏ là kích thích yếu, biên độ xung lớn là kích thích mạnh.
Như vậy, xét về mục đích, bổ tả là sự điều chỉnh lượng kích thích ở
huyệt sau khi châm đạt đắc khí. Dù có nhiều cách thức bổ tả khác nhau nhưng


15

mục đích chỉ có một, đó là điều khí hòa huyết, phù chính khu tà, lập lại thăng

bằng âm dương, tiêu trừ bệnh tật.


16

1.1.2.3. Cơ chế tác dụng giảm đau của châm theo Y học cổ truyền.
Về nguyên nhân gây đau và làm cho hết đau, trong các y văn cổ đã ghi:
"Khí tổn thương thì đau”, “đau do khí huyết không lưu thông, khí huyết bị ứ
trệ”, nghĩa là sự vận hành của “khí huyết” trong kinh mạch có trở ngại, không
thông thì gây nên đau, do đó chữa bệnh cần “làm thông kinh mạch, điều
hòa khí huyết” [3], [4], [5], [24], [25].
Sách Linh khu, thiên Quan năng [26] nhấn mạnh "người thầy thuốc khi
châm cần rõ tác dụng điều khí. Điều quan trọng trong châm là không
được quên cái thần của nó". Thần nói ở đây chủ yếu là chỉ hoạt động tinh
thần và ý thức, mà người xưa thường quy nó vào chức năng của Tâm. Người
xưa rất coi trọng tác dụng của "thần", sách Linh khu, thiên “Bản thần” và thiên
“Châm giải” viết: “Phàm các phép châm, trước tiên phải dựa vào thần, thông
qua việc chế ngự thần khí để vận hành lưu thông” nghĩa là để chữa bệnh,
trị đau việc đầu tiên là phải trị thần, tức là làm cho người bệnh yên tâm,
không lo lắng. Khí và huyết có liên quan mật thiết với nhau "khí là soái của
huyết, khí hành thì huyết hành, khí ngưng thì huyết trệ, huyết mạch hòa lợi
thì tinh thần còn. Huyết hòa thì kinh mạch lưu hành, nuôi dưỡng lại âm
dương, làm khỏe gân xương, làm lợi quan tiết". Như vậy, đau có quan hệ mật
thiết với khí- huyết - thần. Châm có tác dụng thúc đẩy khả năng tự điều chỉnh
của cơ thể đưa cơ thể trở về trạng thái hoạt động sinh lý bình thường và duy
trì cho cơ thể luôn ở trạng thái bình thường đó. Các thầy thuốc cổ đại đều
nhấn mạnh châm phải gây được “đắc khí” mới đạt hiệu quả chữa bệnh.
Đắc khí là cảm giác kim bị mút chặt, cảm giác nặng chặt ở tay người châm và
cảm giác tức, nặng trướng của người được châm. Trong các sách cổ có viết “
Nếu thần khí đến, kim thấy chặt”, nói lên cảm giác căng nặng sinh ra lúc châm

vào huyệt có quan hệ với hoạt động của “thần

khí” [26]. Trên lâm sàng,

các thầy thuốc đã biết vận dụng tác dụng này của châm cứu theo nguyên tắc
bệnh ở kinh cân thì “lấy nơi đau làm huyệt” gọi là A thị huyệt, Thiên ứng
huyệt hay Thống điểm huyệt.


17

Châm vào những huyệt đó sẽ làm cho kinh mạch lưu thông, khí huyết
điều hòa sẽ đạt đến "thông tắc bất thống" có nghĩa là thông thì không đau.
Tóm lại, theo lý luận y học cổ truyền, châm là dùng kim kích thích vào
huyệt với mục đích điều khí, hoà huyết để duy trì sự hoạt động bình
thường của cơ thể, tiêu trừ các hiện tượng mất thăng bằng. Cơ sở của châm
chính là kinh lạc và huyệt vị. Tác động lên huyệt một lượng kích thích thích
hợp ta có thể điều hòa được khí, khí hòa thì huyết hòa. Khi huyết hòa, tuần
hoàn của khí huyết trong kinh mạch thuận lợi, khí huyết lưu thông, lập lại
thăng bằng âm dương, đưa cơ thể trở về trạng thái sinh lý bình thường.
1.1.2.4. Cơ chế tác dụng giảm đau của châm theo Y học hiện đại.
Cơ chế tác dụng của châm giảm đau đã được nghiên cứu từ những
năm
70 của thế kỷ XX [27], [28]. Ngày nay, theo đường lối kết hợp Đông- Tây y
cùng với sự phát triển của các phương pháp chẩn đoán thăm dò hiện đại,
các cơ chế chống đau của châm cứu ngày càng thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới và được chứng minh bằng các
phương pháp nghiên cứu có tính định lượng, khách quan, khoa học.
Khi cơ thể có bệnh, những tổn thương tại các cơ quan là một kích thích
tạo ra cung phản xạ bệnh lý [27]. Châm hay cứu là một kích thích. Nếu đủ

mạnh sẽ ức chế cung phản xạ bệnh lý, có tác dụng giảm đau. Khi nghiên cứu
về cơ chế giảm đau của châm, các tác giả đã tập trung vào một số thuyết như
thuyết phản xạ thần kinh, thuyết thần kinh- thể dịch, trong đó thuyết
thần kinh- thể dịch được nhắc đến nhiều hơn.
- Thuyết "cổng kiểm soát" hay cơ chế tác dụng của châm qua con đường thần
kinh: Đa số các tác giả nghiên cứu cơ chế giảm đau của châm đều ủng hộ
thuyết "Cổng kiểm soát" của Melzack R. và Wall P.D. [28] cũng như thuyết "hai
cửa" của Hsiang Tung C. [29]. Thuyết "Cổng kiểm soát" của Melzack R. và Wall
P.D. quan niệm rằng sừng sau tủy sống ví như cánh cửa có thể đóng mở. Cửa
đóng khi có kích thích lên các thụ cảm thể ngoại biên với nguồn kích thích
thấp khoảng 0,03 đến 0,04 V và kích thích đều đặn, nghĩa là tác động


18

lên những thụ cảm thể xúc giác và áp lực, đó là tận cùng của những sợi thần
kinh Aβ có tốc độ cao. Các xung thần kinh theo sợi Aβ vào tủy sống tạo ra một
điện trường âm ở sừng sau làm ức chế dẫn truyền cảm giác đau (cửa đóng),
không cho cảm giác đau đi tiếp nên cảm giác đau được giảm đi hoặc mất hẳn.
Cửa mở nếu các thụ cảm thể đau bị kích thích mạnh và các xung đau
được dẫn truyền vào sừng sau bởi những sợi nhỏ Aδ, sợi C tạo ra điện trường
dương giúp cho các xung đau đi vào dễ dàng và làm cho cảm giác đau tăng lên
[28]. Sau này Hsiang Tung C. [29] đã đưa ra thuyết "hai cửa" chứng minh quá
trình ngăn chặn cảm giác đau không chỉ xảy ra ở tủy sống mà còn xảy ra
trong đồi thị và thể lưới thân não. Các thí nghiệm kích thích thể lưới thân não
đã chỉ ra rằng khi kích thích vào thể lưới thân não có thể loại trừ được các
cảm giác đau được truyền về từ các thụ cảm thể ở nhiều vị trí khác nhau
của cơ thể. Thể lưới thân não nhận các xung động hướng tâm truyền vào
theo các dây thần kinh sọ não, nhất là dây số V và dây X. Những xung đau
truyền theo các dây thần kinh sọ não có tác dụng hoạt hoá thể lưới thân não,

kéo theo nó là sự hoạt hóa các hệ thống chống đau trong não bộ .
Nghiên cứu của Man P.L. và Chen C.H. [30] đã chứng minh rằng nơi
chủ yếu ức chế các xung truyền cảm giác đau là đồi thị, khi kích thích dòng
điện vào nhân bụng sau của đồi thị có tác dụng làm mất cảm giác đau khi
có các tác nhân gây hại. Các tác giả trên cho rằng khi điện châm các huyệt tạo
ra những thay đổi tại huyệt và các xung thần kinh theo các sợi thần kinh có
kích thước lớn Aα, Aδ vào đến các cấu trúc trong hệ thần kinh trung ương
(tủy sống, thể lưới thân não, đồi thị), ở đây sẽ hình thành các cổng ngăn chặn
các xung đau từ ngoại vi truyền vào không cho chúng đến vỏ não.
- Thuyết phản xạ thần kinh thực vật: Thuyết này chú ý đến vai trò của các
phản xạ thần kinh thực vật và đánh giá cao ý nghĩa của các phản xạ do các
yếu tố lý hóa tác động lên bề mặt da. Sherback A.E. xem da như tấm màn hai
mặt trong và ngoài, cả hai mặt đều có các thụ cảm thể và các đám rối
thần kinh, mạch máu, đặc biệt có rất nhiều tận cùng của hệ thần kinh thực
vật. Do


19

vậy khi tác động lên bề mặt da và các điểm có hoạt tính sinh học cao
(huyệt) sẽ gây được các biến đổi trong các trung khu thần kinh thực vật, do đó
điều chỉnh được cảm giác đau, làm giảm đau (theo [31].
- Thuyết thần kinh- thể dịch: Những nghiên cứu từ năm 1976 cho thấy
cơ chế giảm đau của châm là kích thích hệ chống đau tự nhiên của cơ thể
qua việc giải phóng các chất giảm đau nội sinh. Các chất tham gia vào cơ chế
chống đau gồm morphin nội sinh (endorphin, enkephalin), serotonin và
catecholamin [32].
* Endorphin: Có 3 loại endorphin là α, β,γ, nhưng chất có hoạt tính
mạnh nhất là β-endorphin. Endorphin được hình thành từ một tiền chất βlipotropin, đây là một peptit có phân tử lớn và được sản xuất nhiều ở tuyến
yên, vùng dưới đồi và vùng não thất. Các nơ ron bài tiết endorphin thường

nằm trải dài suốt từ vùng nhân cung của vùng dưới đồi cho tới vùng quanh não
thất. Chỉ ở nhân cung endorphin được hình thành ở thân nơ ron, còn các vùng
khác nó được hình thành ở sợi trục. Những sợi trục này chủ yếu đi đến vùng
chất xám quanh cống, đồi thị. Endorphin có tác dụng giảm đau, làm dịu đau và
ức chế hô hấp.
* Serotonin: được tổng hợp từ một acid amin là tryptophan. Nó
được bài tiết ở các tận cùng thần kinh của các nơ ron bắt nguồn từ nhân
Raphé và tận cùng ở sừng sau tủy sống. Tác dụng của Serotonin là kích thích
các nơ ron tại tủy sống bài tiết enkephalin và gây ra ức chế trước synap trong
đường dẫn truyền cảm giác đau từ ngoại biên về trung ương. Nó có tác
dụng ức chế cả sợi C và sợi Aδ ở sừng sau tủy sống đồng thời tạo trạng thái
thức tỉnh.
Như vậy, hệ thống giảm đau có thể ngăn cản sự dẫn truyền tín hiệu đau
ở các chặng trong đường dẫn truyền cảm giác đau ngay từ thụ thể đau,
nơi tín hiệu đau vừa được dẫn truyền đến tủy sống hay ở các nhân của thể
lưới thân não và nhân lá trong đồi thị. Điều quan trọng nhất là hệ thống giảm
đau có khả năng ức chế cả hai loại cảm giác đau nhói (đau nhanh) và đau rát
(đau chậm).


20

* Acetylcholin và catecholamin: Acetylcholin thuộc hệ cholinergic và
catecholamin thuộc hệ adrenergic. Cơ chế chống đau của các chất này
đã


21

được xác nhận. Các tác giả Việt Nam nghiên cứu về tác dụng của điện châm

trên động vật thực nghiệm cũng như trên bệnh nhân mổ bướu cổ, phẫu thuật
xoang sàng hàm cũng cho thấy có sự tăng rõ hai chất này [31], [33].
1.1.3. Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của châm các huyệt lên chức năng
các cơ quan trong cơ thể.
Phương pháp điều trị bằng châm cứu cho đến nay đã được Tổ chức Y tế
thế giới công nhận và khuyến cáo sử dụng ở nhiều nước trên thế giới để
điều trị trên 100 chứng bệnh khác nhau [34]. Có được sự ghi nhận đó là do
châm cứu đã thực sự có tác dụng trên lâm sàng. Những tác dụng của châm
cứu đã được đề cập trong y văn cổ ngày nay đang tiếp tục được nghiên
cứu chứng minh dưới ánh sáng của Y học hiện đại. Một trong những con
đường đưa đến sự hiểu biết về cơ chế tác dụng của châm cứu là tm hiểu
những biến đổi về chức năng của các cơ quan trong cơ thể dưới ảnh hưởng
kích thích các huyệt.
1.1.3.1. Ảnh hưởng của châm lên hệ tuần hoàn
- Tác động lên tim mạch: Nghiên cứu của Lujian H.L. và cộng sự (2007) cho
thấy điện châm các huyệt Nội Quan và Giản sử có tác dụng làm ổn định nhịp
nhanh thất trên chuột được tái tưới máu sau một thời gian ngắn thiếu máu
cơ tim cục bộ [35]. TheoTakayama S. và cộng sự (2010) châm huyệt Thái xung
không làm thay đổi nhịp tim nhưng làm giảm lưu lượng máu ngoại vi trong
khi châm và làm tăng trở lại mức chỉ số ban đầu sau khi kết thúc châm 180
giây [36]. Nghiên cứu của Hoàng Khánh Hằng (2001) cho thấy điện châm
huyệt Hợp cốc có tác dụng kéo dài khoảng QT và TP trên điện tim nhưng
không làm thay đổi thời gian và biên độ các sóng P, khoảng PR, phức bộ
QRS, sóng T [8].
- Tác động lên huyết áp: Theo Jones A.Y. (2011) kích thích huyệt Nội quan có
tác dụng ổn định huyết áp khi thay đổi tư thế [37]. Nghiên cứu của
Sahmeddini M.A. (2012) cho thấy điện châm các huyệt Nội quan, Giản sử có
tác dụng giữ ổn định huyết áp, nhịp tim và áp lực tĩnh mạch trung tâm của



22

bệnh nhân trong suốt quá trình phẫu thuật, tương đương với dùng thuốc
norepinephrine [38].


23

- Tác động lên các thành phần hữu hình trong máu: Nghiên cứu của RivasVilchis J.F. và cộng sự (2009) cho thấy châm huyệt Đại chùy (GV14) có tác
dụng làm tăng số lượng bạch cầu và tỷ lệ bạch cầu đa nhân trong máu
[39], Ye F. (2007) thấy điện châm làm tăng số lượng bạch cầu, làm giảm
mức độ ảnh hưởng của miễn dịch gây ra bởi hóa chất ở bệnh nhân ung thư
đang hóa trị [40]. Theo Jong M.S. (2006) điện châm các huyệt Thủ tam lý và
Khúc trì có thể điều chỉnh tế bào lympho máu ngoại vi làm giảm dòng tế bào
CD4 và CD8 và tăng cytokine huyết thanh của hệ thống miễn dịch [41].
1.1.3.2. Ảnh hưởng của châm lên hệ hô hấp
Nghiên cứu của Tai S. (2006) cho thấy điện châm các huyệt Trung phủ,
Thiên đột làm giảm chất nhầy trên bề mặt khí quản, cải thiện lưu thông không
khí trong lòng khí quản ở chim gây mô hình viêm đường hô hấp tắc
nghẽn [42]. Theo Han J. (2012) điện châm huyệt Ngư tế làm giảm triệu chứng
các đợt cấp của bệnh hen phế quản và đạt hiệu quả cao nhất trong thời gian
30 phút lưu kim, tương đương với hiệu quả của salbutamol [43], theo Medici
T.C. (2002) châm có hiệu quả trong điều trị hen phế quản mức độ nhẹ và trung
bình [44].
1.1.3.3. Ảnh hưởng của châm lên hệ tiêu hóa
Wang C. và cộng sự (2007) thấy điện châm huyệt Nội quan làm giảm
đáng kể tnh trạng trướng bụng ở mèo [45]. Theo nghiên cứu của Ma X.P.
(2009) điện châm huyệt Thiên khu và Thượng cự hư làm giảm số lượng tế
bào mast ở niêm mạc ruột, giảm lượng chất P và corticotropin ở vùng
dưới đồi của chuột bị gây mô hình thực nghiệm hội chứng ruột kích thích [46].

Các nghiên cứu trên người cho thấy điện châm huyệt Túc tam lý (S36) có tác
dụng điều chỉnh các rối loạn nhu động ruột ở người mắc chứng ruột kích thích
[47]. Điện châm huyệt Kiên tỉnh có tác dụng làm giảm các triệu chứng ở bệnh
nhân viêm túi mật và điều chỉnh khối lượng túi mật ở bệnh nhân viêm túi mật
mạn tính [48]. Nghiên cứu của Đỗ Công Huỳnh, Vũ Văn Lạp khi điện châm các
huyệt Túc tam lý, Hợp cốc và Nội quan thấy có tác dụng làm tăng nhu động
ruột, tăng khả năng hấp thụ glucose ở ruột các động vật thực nghiệm [9],
[10].


24

1.1.3.4. Ảnh hưởng của châm lên hệ thần kinh và thần kinh thể dịch.
Trong các công trình nghiên cứu về tác động của châm lên hệ thần kinh
trung ương nhiều tác giả đều có nhận định: Châm tác động lên chức năng
của hệ thần kinh trung ương qua nhiều con đường trực tiếp và gián tiếp, đó
chính là một trong những cơ chế chính tạo ra tác dụng của châm đối với cơ
thể. Kim M.S. và cộng sự (2008) cho thấy châm huyệt Nội quan làm tăng
tần số và biên độ các sóng trên điện não đồ, làm tăng nhịp tim trên điện tâm
đồ [49]. Theo Streitberger K. và cộng sự (2008) điện châm huyệt Hợp cốc
làm tăng tần số sóng alpha trên điện não đồ của vùng chẩm. Mối quan hệ
tuyến tính giữa các thông số nhịp tim và tần số, biên độ của sóng alpha trên
điện não đồ chứng tỏ tác dụng của điện châm trong điều hòa chức năng của
não thông qua tác động hoạt hóa hệ thần kinh thực vật [50]. Nghiên cứu của
Bùi Mỹ Hạnh (2003) cho thấy chỉ số và biên độ sóng alpha ở vùng chẩm
tăng rõ rệt sau 3 phút và sau 8 ngày điện châm huyệt Nội quan ở người
bình thường khoẻ mạnh [7]. Isoyama D. và cs (2012) châm huyệt Nội
quan, Thần môn, Đản trung, Bách hội điều trị giảm lo âu ở bệnh nhân thụ
tinh trong ống nghiệm cho thấy châm có thể làm giảm triệu chứng lo âu, căng
thẳng, từ đó làm tăng khả năng thành công của phương pháp thụ tinh trong

ống nghiệm [51]. Đa số các tác giả nhận định rằng kích thích các huyệt có thể
làm tăng ngưỡng đau. Tác dụng này liên quan tới hệ thần kinh và hệ thống
giảm đau nội sinh.
Han J.Y. và cs (2011) thấy châm các huyệt Túc tam lý, Trung quản và Nội
quan có tác dụng tốt trong việc ngăn ngừa và làm lành các tổn thương
niêm mạc dạ dày, cải thiện chức năng tiêu hóa thông qua cơ chế tăng
hàm lượng beta-endorphin trong huyết tương và vùng dưới đồi theo trục
não-ruột [52]. Theo Song X.L.(2010) châm huyệt Tam âm giao làm giảm
đau bụng kinh do làm tăng hàm lượng β- endorphin, là chất có tác dụng giảm
đau mạnh [53], Lee H.J. và cs (2010) châm huyệt Túc tam lý làm giảm hàm
lượng chất P ở sừng sau tủy sống, hàm lượng β- endorphin tăng 51,47%
trong máu và


×