Tải bản đầy đủ (.doc) (200 trang)

Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự đời tư trong văn học việt nam từ sau 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 200 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ HƯƠNG TRANG

PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN
THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG VĂN HỌC
VIỆT NAM TỪ SAU 1986
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9. 22 .01 .21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ QUANG HƯNG

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác và khoa học cao.
Các tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2019
Tác giả luận án

Tạ Hương Trang



LỜI CẢM ƠN
Luận án được hoàn thành, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc, chân
thành đến PGS.TS Lê Quang Hưng, người thầy hướng dẫn khoa học tận tình,
luôn sẵn sàng chia sẻ quan điểm, gợi mở nhiều ý tưởng hay, mới lạ, giúp tôi
có thêm nhiều tri thức lý luận và phương pháp tư duy, làm việc khoa học.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Khoa
học xã hội, phòng Quản lý Đào tạo, các thầy cô trong khoa Văn học đã
thường xuyên động viên, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu
của tôi.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học Hải
Phòng, Khoa Ngữ văn – Địa lí nơi tôi công tác đã giúp đỡ tôi rất nhiều về mặt
thời gian để tôi hoàn thành chương trình học và luận án.
Cảm ơn bố mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạn
bè,... đã sẻ chia, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận án.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2018
Tác giả luận án

Tạ Hương Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................... 8
1.1.Quan niệm chung về phương thức trần thuật trong truyện ngắn thế sự - đời tư.....8
1.2.Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôi Việt Nam từ sau
1986........................................................................................................................... 17
1.3.Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư từ
sau 1986..................................................................................................................... 26
Chương 2: TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG,

PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU 1986................................ 33
2.1.Những tiền đề cho sự phát triển của truyện ngắn thế sự - đời tư trong văn học
Việt Nam từ sau 1986................................................................................................ 33
2.2.Khái quát truyện ngắn thế sự - đời tư trong nền văn xuôi Việt Nam từ sau 198656
Chương 3: ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, TỔ CHỨC TÌNH HUỐNG VÀ KẾT
CẤU TRONG TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986...................71
3.1.Ngôi kể và điểm nhìn trần thuật.......................................................................... 71
3.2.Tổ chức tình huống.............................................................................................. 92
3.3.Nghệ thuật tổ chức kết cấu................................................................................ 101
Chương 4: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN
NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986............................................................ 119
4.1.Ngôn ngữ trần thuật........................................................................................... 119
4.2.Giọng điệu trần thuật......................................................................................... 132
KẾT LUẬN............................................................................................................ 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 152


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong quan niệm của lí thuyết tự sự học hiện đại thì tiểu thuyết là
thể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng miêu tả bức tranh hiện thực rộng lớn và số
phận của một hay nhiều người. Trong khi đó, điều làm nên nét khác biệt giữa
truyện ngắn với tiểu thuyết hay những thể loại tự sự khác chính là ở chỗ dung
lượng ngắn, tập trung miêu tả một sự kiện, một tình huống hoặc một khoảnh
khắc nào đó xảy ra trong cuộc đời của nhân vật. Trong loại hình văn xuôi tự
sự, truyện ngắn được đánh giá là một thể loại có tính thích ứng cao với thời
đại nó tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường như
ngày nay, truyện ngắn phù hợp với thị hiếu của độc giả bận rộn khi họ không

có nhiều thời gian dành cho việc nhâm nhi chiêm nghiệm một tác phẩm.
Những ưu điểm kể trên khiến cho truyện ngắn là một trong những thể loại có
thể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời đại đổi mới, của độc giả sau 1986.
Lựa chọn mốc 1986 chúng tôi không chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tác
phẩm mà hơn hết đó là mốc thời gian quan trọng diễn ra Đại hội VI của Đảng.
Bắt đầu từ đây văn nghệ thực sự được giải phóng kéo theo sự khai phóng các
thể loại khác về cả nội dung và hình thức biểu hiện. Mặt khác, đây cũng là
mốc thời gian ghi nhận những cách tân đáng chú ý của các thể loại văn học,
những tác phẩm truyện ngắn thực sự có giá trị cũng bắt đầu ra đời từ đây.
Văn xuôi nói chung, truyện ngắn giai đoạn sau năm 1986 nói riêng thực
sự đã tìm được cho mình một hướng đi mới dù đầy chông gai song lại đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận. Về nội dung, nó bắt đầu đi sâu vào thế
giới nội tâm của con người để tìm hiểu và khái quát thành tâm lí điển hình của
thời đại. Những mảng như chiều sâu tâm linh, cõi vô thức hay sự cô đơn bản
thể, cô đơn nghệ sĩ... đều được nó nghiêm túc khám phá và sáng tạo. Về hình
thức, khác với quan niệm truyền thống, truyện ngắn sau 1986 không ngừng nỗ
lực kiếm tìm những phương thức biểu hiện phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của
1


văn học. Bên cạnh những cây bút vẫn kiên trì cách viết truyện truyền thống
thì một loạt các cây bút với ý thức tự làm mới mãnh liệt đã ra đời như:
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương...
1.2. Ở một phương diện khác, khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi căn cứ
vào chủ đề và cảm hứng của văn xuôi sau 1986 nổi bật lên ba khuynh hướng
chính, đó là: khuynh hướng sử thi, khuynh hướng thế sự - đời tư và khuynh
hướng triết luận. Trong ba khuynh hướng ấy thì khuynh hướng thế sự - đời tư
được đánh giá là khuynh hướng thu hút nhiều người tham gia viết nhất, trở
thành niềm say mê hứng khởi sáng tác ở nhiều cây bút truyện ngắn xuất sắc.
Văn học trước 1975 quan tâm đến nội dung “viết cái gì” của các nhà

văn. Chính vì thế mà sự tỏa bóng của “chủ nghĩa đề tài” khá rộng lớn trong
văn xuôi. Những đề tài như ca ngợi cuộc chiến vĩ đại của dân tộc, những tấm
gương người tốt, việc tốt được đề cao còn những đề tài đi sâu vào miêu tả số
phận của cá nhân hay đời sống cá thể riêng biệt thì sẽ bị cấm đoán thậm chí
nhiều nhà văn bị treo bút trong một thời gian dài vì những gì họ viết ra không
đúng với tinh thần của thời đại. Song sang đến giai đoạn sau 1986, nhờ lời
kêu gọi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mà văn học được “cởi trói”. Cảm
hứng sử thi tồn tại trong suốt những năm tháng chiến tranh và một vài năm
sau đổi mới đã nhường chỗ cho cảm hứng thế sự - đời tư khi con người dần
trở về với cuộc sống thường nhật. Lựa chọn cảm hứng này trong sáng tác, các
nhà văn được mặc sức khám phá thế giới muôn hình muôn vẻ với những nhân
dạng tồn tại trong hiện thực đó. Mặt khác, nó cũng chi phối đến các phương
diện khác thuộc trần thuật học trong tác phẩm mà cụ thể là điểm nhìn trần
thuật, tổ chức tình huống, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu... Có thể thấy đây
là một hướng đi dù không có nhiều cách tân quyết liệt về mặt hình thức nhưng
đã khắc tạc trên cây cổ thụ văn chương nỗi đằm sâu của những nhà văn sống
có trách nhiệm và nặng lòng với đời sống con người.
1.3. Nếu như văn học giai đoạn trước năm 1975 quan tâm đến nhà văn
2


thể hiện nội dung gì trong sáng tác của mình, những nội dung ấy có phù hợp
với lí tưởng của thời đại hay không, có giá trị cổ vũ tinh thần và ý chí của con
người trong thời đại ấy như thế nào... thì giai đoạn từ sau 1986, cái mà văn
học và công chúng quan tâm là nhà văn - anh đã làm mới “đứa con tinh thần”
của mình như thế nào, nói một cách khác là anh đã có thêm tiếng nói, cách
nói gì. Trong xu thế đổi mới, những gì anh viết ra nếu bị coi là cũ kĩ sẽ không
có chỗ đứng trong lòng bạn đọc, vì thế nỗ lực cách tân và làm mới trở thành
tuyên ngôn trong sáng tác của họ. Theo đó, nghệ thuật trần thuật trong tác
phẩm được đề cao hơn bao giờ hết, nó là “sự trình bày liên tục bằng lời văn

các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một
cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định” (Trần Đình
Sử). Trong cấu trúc tác phẩm văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng thì
trần thuật bao gồm các yếu tố cấu thành nên một tác phẩm hoàn chỉnh, đồng
thời cũng tạo nên một “chất” khác lạ để phân biệt sáng tác của người này với
người khác, góp phần tạo nên cái “tầm” của nhà văn. Nhà văn nếu lựa chọn
hình thức trần thuật phù hợp sẽ đem lại hiệu quả trong cách truyền tải nội
dung, tư tưởng của tác phẩm.
Với những lí do trên, tìm hiểu Phương thức trần thuật của truyện ngắn
thế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 chính là một cách để phân
tích, đánh giá đầy đủ những đặc điểm, thành tựu của truyện ngắn Việt Nam
thời kì đổi mới trên các phương diện: đối tượng, nội dung phản ánh và hình
thức nghệ thuật. Bên cạnh đó chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu của
luận án này sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị thực tiễn đối với công tác
nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng và phổ thông.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, đánh giá đặc điểm phương thức trần thuật của truyện ngắn
thế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 để khẳng định sự thống
3


nhất biện chứng giữa đối tượng, nội dung biểu hiện với phương thức thể hiện
trong thể loại truyện ngắn, khẳng định rõ thêm thành tựu của văn học Việt
Nam thời kì đổi mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Đưa ra quan niệm về truyện ngắn thế sự - đời tư từ góc nhìn của lí
thuyết tự sự học hiện đại, từ sự khu biệt giữa truyện ngắn thế sự - đời tư với
các khuynh hướng truyện ngắn khác như truyện ngắn theo khuynh hướng sử

thi, truyện ngắn theo khuynh hướng triết luận.
- Chỉ ra những cơ sở cho sự phát triển của truyện ngắn theo khuynh
hướng thế sự - đời tư, tái hiện diện mạo của truyện ngắn theo khuynh hướng
này trong văn học Việt Nam từ sau 1986.
- Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua các phương
diện như: điểm nhìn trần thuật, cách tổ chức tình huống, kết cấu.
- Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua ngôn ngữ
và giọng điệu trần thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án của chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại truyện ngắn trong
văn học Việt Nam hiện đại (từ sau 1986 đến nay). Từ những khảo sát trên
thực tế tác phẩm, chúng tôi phân loại truyện ngắn thành 3 khuynh hướng: sử
thi, thế sự - đời tư và triết luận. Cảm hứng sáng tác chủ đạo là tiêu chí để
chúng tôi phân loại truyện ngắn thành các khuynh hướng như vậy. Trong đó
chúng tôi đặc biệt quan tâm tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyện
ngắn thế sự - đời tư, lí giải những đặc điểm riêng của thể tài truyện ngắn này
trên cơ sở những lí thuyết chung về thể loại. Luận án tập trung vào phương
thức trần thuật bao gồm: điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống, kết cấu,
ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
4


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm đến một số tập truyện
ngắn, tuyển tập truyện ngắn đã được xuất bản của các nhà văn tiêu biểu như
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,
Nguyễn Thị Thu Huệ... và một số cây bút trẻ có truyện ngắn đạt giải từ sau
1986 đến nay đã được in trong các tuyển tập.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, để thấy được sự vận động và

phát triển của truyện ngắn thế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986,
chúng tôi mở rộng phạm vi nghiên cứu tới truyện ngắn trước và sau 1986 để
có cái nhìn đối sánh và sâu hơn về đối tượng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án của chúng tôi chủ yếu sử dụng lí thuyết tự sự học hiện đại. Từ
cơ sở lí thuyết này, chúng tôi quan niệm truyện ngắn thế sự - đời tư như một
thể tài cơ bản của thể loại truyện ngắn. Ngoài ra chúng tôi tiếp cận truyện
ngắn thế sự - đời tư từ góc độ trần thuật học trong khảo sát, phân tích, khái
quát hóa, làm rõ hơn các yếu tố về hình thức biểu hiện như điểm nhìn, tình
huống, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu... Mỗi yếu tố cụ thể đó mang nét riêng,
tạo ra đặc trưng khu biệt truyện ngắn thế sự - đời tư trong tiến trình vận động
và phát triển của văn học Việt Nam đương đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các nhiệm vụ khoa học đã xác định trước, chúng tôi vận
dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
4.2.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp này được chúng tôi vận dụng để phân tích vị trí, những
đặc điểm thuộc phương thức trần thuật của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986
trên cơ sở ấy đi đến những kết luận mang tính tổng hợp nhất, khái quát nhất
về truyện ngắn thế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986.
5


4.2.2. Phương pháp hệ thống
Chúng tôi sử dụng phương pháp này trong quá trình nghiên cứu để xem
xét, phân tích truyện ngắn về đề tài thế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ
sau 1986 trong hệ thống chung sự vận động, đổi mới của nền văn học Việt
Nam đặc biệt của văn xuôi sau 1986. Đồng thời xem xét, nghiên cứu phương
thức trần thuật của truyện ngắn về đề tài này như một hệ thống.

4.2.3. Phương pháp so sánh
Để khẳng định phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
trong văn học Việt Nam từ sau 1986 có những nét riêng, độc đáo, chúng tôi đối
chiếu, so sánh với truyện ngắn cùng thể tài ở thời kì trước đó và so sánh với
truyện ngắn thuộc các đề tài khác thời kì từ sau 1986.
4.2.4. Phương pháp loại hình
Chúng tôi quan niệm truyện ngắn thế sự - đời tư là một loại hình với nội
dung phản ánh, kết cấu và phương thức trần thuật riêng.
4.2.5. Phương pháp lịch sử - xã hội
Chúng tôi xem xét, đánh giá truyện ngắn theo khuynh hướng thế sự đời tư trong bối cảnh vận động, đổi thay của xã hội Việt Nam từ sau 1986.
Đồng thời chúng tôi quan niệm rằng bản thân khuynh hướng này cũng có quá
trình phát triển của nó trong mấy mươi năm.
4.2.6. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩm
truyện ngắn thế sự - đời tư tiêu biểu từ sau 1986 nhằm có những cứ liệu xác
đáng cho các luận điểm.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về truyện ngắn Việt Nam giai
đoạn sau 1986 trong bước chuyển của lịch sử văn học, góp phần khẳng định
mối quan hệ biện chứng giữa nội dung phản ánh, kiểu nhân vật với phương
thức trần thuật trong thể loại này.
6


- Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu và phân tích một cách tương
đối toàn diện, có hệ thống về đặc điểm phương thức trần thuật của truyện
ngắn viết theo khuynh hướng thế sự - đời tư trong văn xuôi Việt Nam từ
sau 1986.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận

Bằng việc phân tích phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời
tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986, luận án góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa
của lí thuyết tự sự học hiện đại.
Xét về mặt cấu trúc loại hình, từ việc phân tích, đánh giá truyện ngắn
thế sự - đời tư luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa quan niệm
nghệ thuật về hiện thực, con người với các phương diện thuộc thuộc phương
thức trần thuật của thể loại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với đề tài này, luận án đã khảo sát, khái quát, tổng kết bước đầu các
khuynh hướng truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 trong đó nổi bật là khuynh
hướng thế sự - đời tư. Từ đó, làm sáng tỏ sự vận động, phát triển, thành tựu và
hạn chế của thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại.
Bên cạnh đó, luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những
người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, những ai quan tâm.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận án có nội dung chính gồm 4
chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Truyện ngắn thế sự - đời tư trong sự vận động, phát
triển của văn học Việt Nam từ sau 1986
Chương 3: Điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống và kết cấu
trong truyện ngắn thế sự - đời tư từ sau 1986
Chương 4: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật của truyện ngắn thế
sự - đời tư từ sau 1986
7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Truyện ngắn là tác phẩm tự sự

cỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời
sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn
được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [94; tr.370].
Song hành cùng sự phát triển của xã hội, truyện ngắn là một trong
những thể loại có lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp. Sự biến động của xã
hội qua từng thời kì lịch sử phát triển của loài người kéo theo sự vận động và
biến đổi của truyện ngắn thế giới nói chung, truyện ngắn Việt Nam nói riêng.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, truyện ngắn hiện đại Việt Nam có những thay đổi
theo hướng tích cực để thích ứng với sự đổi thay của thời đại, đặc biệt từ thời
kì sau 1986, nó đã chứng tỏ là một thể loại có khả năng dung hòa được với
nhịp sống hối hả và bao quát được những vấn đề đặt ra trong xã hội ngày nay.
1.1. Quan niệm chung về phương thức trần thuật trong truyện
ngắn thế sự - đời tư
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tư
Do tác động của hoàn cảnh chiến tranh, nội dung ưu tiên hàng đầu trong
các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là những biến cố lịch sử
trọng đại, nhiệm vụ của đời sống chính trị. Khuynh hướng sử thi vì thế nổi lên
như một khuynh hướng tiêu biểu và duy nhất của văn học giai đoạn này. Sau
đổi mới, văn xuôi từng bước thoát ra khỏi áp lực của “chủ nghĩa đề tài” bằng
kinh nghiệm cá nhân đột phá vào các vùng hiện thực mới, chủ quan hóa cách
nhìn đối với những hiện thực vốn quen thuộc. Giá trị tác phẩm bây giờ không
còn phụ thuộc vào đề tài nữa mà do cách xử lí nghệ thuật của nhà văn quyết
định. Tương ứng với các mảng hiện thực lớn cùng cảm hứng sáng tác của nhà
văn là những khuynh hướng: sử thi, thế sự - đời tư và triết luận. Trong luận án
này, chúng tôi đặc biệt dành sự quan tâm đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu truyện
8


ngắn thế sự - đời tư, lí giải những nguyên nhân hình thành, phát triển và sức
hút mạnh mẽ của khuynh hướng này đối với các nhà sáng tác.

Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) định nghĩa thế sự là “việc
đời”. Theo cách hiểu khái quát đó truyện ngắn thế sự là truyện ngắn viết về
cuộc sống đời thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực tại.
Những truyện ngắn viết theo khuynh hướng này chú ý khẳng định giá trị thẩm
mĩ của cái đời thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quý trên
hành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người. Thế sự làm cho truyện
ngắn giàu tính thời sự, mở rộng phạm vi phản ánh của hiện thực đời sống.
Đây là một thể tài đã có truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc. Từ các
bậc đại thi hào xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến đã
khéo léo đưa vào trong sáng tác của mình bức tranh xã hội đương thời với sự
thối nát của giai cấp thống trị và nỗi bi thương của những người dân nghèo
khổ. Khuynh hướng này chỉ bị chững lại những năm 1945 - 1975 do văn học
dành sự ưu tiên cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi, phù hợp với
hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Sang đến giai đoạn 1975, cảm hứng này tiếp
tục được “phục sinh” và có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Bàn về thế
sự là bàn đến các nội dung: đặc tả bức tranh hiện thực đời sống muôn mặt
(hiện thực lớn - cuộc sống lao động kiến thiết và khôi phục đất nước; hiện
thực nhỏ - cuộc sống hàng ngày của mỗi con người) đồng thời đặc sắc của
những sáng tác viết theo khuynh hướng này còn ở chỗ nó phát hiện ra những
khiếm khuyết trong cơ chế xã hội thời mở cửa, dóng lên hồi chuông cảnh báo
kịp thời qua những mảnh hiện thực bị cắt rời, nham nhở.
Đời tư hay đời sống cá nhân được hiểu là “cuộc sống của một cá nhân,
đặc biệt được xem như toàn bộ sự lựa chọn cá nhân góp phần nhận dạng tính
cách một người” (Theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt). Truyện ngắn mang cảm
hứng đời tư là truyện ngắn về số phận con người cá nhân. Nó hướng đến đời
sống tinh thần phong phú, phức tạp của con người với những ham mê, dục
9


vọng thường tình, những khắc khoải về số phận, những cảm xúc gần gũi, đời

thường. Những tác phẩm thuộc khuynh hướng này thường lấy đề tài trực tiếp
từ đời sống hiện tại. Điểm tựa cho kết cấu không phải là các biến cố lịch sử
mà là những chuyện hàng ngày, những quan hệ nhân sinh muôn thuở, những
ứng xử có tính phổ biến hay đột biến của con người. Qua đó nhà văn săn tìm
ý thức về nhân cách. Con người cá nhân, có lẽ, đã xuất hiện trong các thi
phẩm của các thi nhân từ rất lâu và có thể xem giai đoạn 1930 - 1945 với sự
xuất hiện của phong trào Thơ mới đã đánh dấu sự thức tỉnh và ý thức về bản
thể mạnh mẽ nhất: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất - Không có chi bè bạn
nối cùng ta” (Xuân Diệu). Giai đoạn 1945 - 1975 do hoàn cảnh đặc thù con
người cá nhân chìm khuất nhường chỗ cho con người cộng đồng, lịch sử gọi
tên những người anh hùng mang những nét đẹp thời chiến trận, sử thi phủ lên
các sáng tác văn học tấm áo choàng của lịch sử, số phận của mỗi cá nhân như
một lẽ tất yếu, trùng khít với số phận của cộng đồng. Câu hỏi “ta vì ai?” vì thế
được ưu tiên hàng đầu. Khi cuộc sống trở về nhịp quay bình thường như nó
phải có, văn học trở về với đời sống cá nhân đó là một quy luật tất yếu. Văn
học sau 1975 lấy con người làm tâm điểm soi chiếu lịch sử. Con người từ
điểm nhìn lí tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Dòng chảy đời
thường ở thời đại ý thức cá nhân phát triển tạo cho con người một diện mạo
mới; phong phú, phức tạp, nhiều bí ẩn và nhà văn trong nỗ lực khám phá,
chiếm lĩnh đời sống nhận ra mỗi cá thể là “một tiểu vũ trụ” không thể biết hết,
không thể biết trước. Để con người hiện diện với các quan hệ nhân sinh cụ
thể, nhiều chiều, đó là cách xử lí phổ biến. Con người đời thường với những
ẩn mật, khuất lấp hiện lên muôn màu muôn vẻ: thực trạng nhân tính suy thoái,
con người ham mê dục vọng tầm thường, con người chìm sâu vào hào quang
quá khứ... nhưng tiêu biểu và nổi bật hơn cả chính là con người tìm được cách
khẳng định giá trị tự thân của mình, nói khác đi là con người có giá trị tự thân.
Đây được xem như là một trong những phát hiện mang tính nhân bản về con
10



người của các nhà văn giai đoạn này.
Từ những điều đã trình bày ở trên có thể hiểu truyện ngắn thế sự - đời
tư là truyện ngắn viết về cuộc sống hàng ngày và số phận của mỗi con người
cá nhân trong dòng chảy vô thường ấy. Sáng tác theo khuynh hướng thế sự đời tư, người cầm bút xem cuộc sống hàng ngày đang diễn ra là đối tượng
sinh động và thú vị, số phận con người cá nhân là một đích đến của văn
chương. Nói cách khác, nó chứng tỏ tinh thần nhân bản và ý thức dân chủ của
nhà văn. Sự phát triển của khuynh hướng văn học này gắn với những thay đổi
trong quan niệm về đối tượng, chức năng của văn chương, những thay đổi
trong hứng thú sáng tác của nhà văn và tâm thế tiếp nhận của công chúng.
Thể tài này không phải đến văn học sau 1975 mới có mà nó đã manh nha hình
thành thậm chí có thời kì phát triển đạt được nhiều thành tựu trước đó. Tuy
nhiên sự vận động của thể tài truyện ngắn này thăng giáng theo nhịp chuyển
dời của lịch sử và để đến thời kì sau đổi mới, hội tụ đầy đủ các yếu tố thuận
lợi, nó một lần nữa được phục hồi và hứa hẹn sẽ có những thành tựu đáng
mong đợi.
Trong luận án, chúng tôi sử dụng khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tư
như một công cụ khảo sát diện mạo một thể loại văn học dưới góc nhìn thể
tài. Cho nên, truyện ngắn thế sự - đời tư trước hết cũng mang những đặc trưng
thi pháp của thể loại truyện ngắn, một thể loại tự sự hiện đại độc đáo. Thứ
nữa, nó khai thác thể tài thế sự - đời tư dưới một góc nhìn, cách tiếp cận riêng,
mang hơi thở của lịch sử, thời đại, những tìm tòi, sáng tạo và tư tưởng riêng
của nhà văn. Xét đến cùng, truyện ngắn thế sự - đời tư cũng là một loại hình
diễn ngôn tự sự gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan, sản phẩm của một
hình thái ý thức xã hội, lịch sử mà nền tàng là tinh thần dân chủ, nhân văn, đối
thoại, hoài nghi. Thực tế đây không hẳn là một khái niệm mới mà chúng tôi đi
nghiên cứu một thể loại trong tiến trình lịch sử văn học, chịu ảnh hưởng trong
các tiêu chí phân chia của trường phái Pospelov. Với khái niệm công cụ này,
11



chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu kỹ hệ thống thi pháp của thể tài truyện ngắn này
ở nhiều cấp độ, phương diện như trần thuật, kết cấu, ngôn ngữ, để thấy những
thành tựu, đóng góp, cả hạn chế, nhược điểm, nhưng quan trọng hơn là sự vận
động, phát triển của thể tài trong lịch sử văn học và sự sáng tạo của các nhà
văn đổi mới.
1.1.2. Quan niệm chung về phương thức trần thuật
Với bất cứ tác phẩm nào thuộc loại hình tự sự (truyện) thì trần thuật
luôn là yếu tố then chốt, phương diện cơ bản. Theo đó, trần thuật thường được
hiểu là “việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự
kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định”
[94; tr.364]. Cho nên, có thể nói rằng trần thuật chính là việc tổ chức tác
phẩm tự sự theo một điểm nhìn, cách nhìn nhất định. Trần thuật gắn liền với
tất cả các yếu tố trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm như bố cục, kết cấu,
tổ chức không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Nó là một hệ thống tổ
chức phức tạp “nhằm đưa hành động, lời nói của nhân vật vào đúng vị trí của
nó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định tác giả (mối quan hệ giữa
câu chuyện và cốt truyện)” [94; tr.364].
Việc trần thuật bao giờ cũng gắn với một người kể và điểm nhìn nhất
định. Một tác phẩm tự sự có thể được kể theo người kể chuyện ở ngôi thứ ba,
đứng ngoài quan sát, ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ nhất, tự thuật. Điểm nhìn trần
thuật có thể thay đổi linh hoạt, đan cài, di chuyển, luân phiên trong một tác
phẩm. Có nhiều cách trần thuật gắn với người trần thuật như trần thuật ở ngôi
thứ ba khách quan, trần thuật theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong tác
phẩm đảm nhiệm, trần thuật bằng dòng ý thức, độc thoại nội tâm. Mỗi điểm
nhìn này gắn với một tọa độ không gian, thời gian tạo thành trường nhìn, thể
hiện cách nhìn, cách cảm, lập trường, tư tưởng của người trần thuật và của tác
giả. Mỗi sự thay đổi sẽ đem đến một sắc thái, bình diện miêu tả, tái hiện, hay
tái tạo thế giới khác nhau, đem đến cảm xúc, ý nghĩa đa tầng lớp. Ngoài ra,
12



cách thành phần trần thuật còn gồm không gian, thời gian, giọng điệu, ngôn
ngữ, tiết tấu, nhịp điệu… Những yếu tố này tương tác, kết hợp hài hòa tạo nên
cấu trúc trần thuật nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, hai yếu tố then
chốt liên quan đến phương thức trần thuật là người kể chuyện và điểm nhìn
trần thuật.
Người kể chuyện hiểu theo nghĩa đen chính là người kể câu chuyện cho
người đọc nghe. Đây là nhân vật trung tâm của tự sự vì trên danh nghĩa toàn
bộ văn bản tự sự là sản phẩm của họ tạo ra. Bản thân người kể chuyện với các
yếu tố về chỗ đứng, điểm nhìn, cách thức kể lại câu chuyện sẽ tác động mạnh
đến cấu trúc truyện kể cũng như mạch truyện trong tác phẩm. Người kể
chuyện có vị trí, vai trò đặc biệt trong nghệ thuật tự sự. Nó chính là một
phương diện quan trọng thể hiện chủ thể, bởi thái độ của người kể chuyện với
thế giới câu chuyện được kể thống nhất, hoặc ít nhất cũng thống nhất ở một
phần, một phương diện nào đó với quan điểm, với lập trường tư tưởng của tác
giả. Vì vậy, mỗi loại hình diễn ngôn tự sự đều phải xây dựng một người kể
chuyện đặc thù để kể câu chuyện mà chủ thể muốn gửi tới đối tượng tiếp
nhận. R.Barthes từng nói “tự sự là cái có thể chuyển ngữ được mà không phải
chịu một tổn hại cơ bản nào”, và vai trò chuyển ngữ ấy đặt lên người kể
chuyện, điểm khác biệt cơ bản của tác phẩm tự sự với một bài thơ trữ tình hay
một diễn ngôn triết học.
Trong hệ thống trần thuật của một diễn ngôn tự sự, mối liên hệ giữa các
yếu tố người kể chuyện - nhân vật - người nghe được thiết lập trong một
chỉnh thể của chiến lược giao tiếp thể loại. Mối quan hệ hoàn chỉnh của ba
yếu tố đã đặt ra một vấn đề khác gắn bó chặt chẽ với người kể chuyện - vấn
đề điểm nhìn. Mỗi nhân vật người kể chuyện bao giờ cũng gắn với một vị trí,
một chỗ đứng nhất định trong không, thời gian, trong mô hình cấu trúc truyện
kể của thể loại, tạo nên những điểm nhìn khác nhau. Như vậy, điểm nhìn nghệ
thuật gắn liền với người kể chuyện. Nó thể hiện rõ vị trí của người kể với câu
13



chuyện được kể, từ đó xác định quyền năng của người kể chuyện trong tác
phẩm. Do đó, điểm nhìn nghệ thuật gắn với cái nhìn của chủ thể, mối quan
tâm của anh ta với các vấn đề được kể, tạo ra cái nhìn nghệ thuật cho tác
phẩm. Mỗi điểm nhìn thể hiện một vai, vị thế phát ngôn nào đó của chủ thể.
Trong nghệ thuật tự sự, vấn đề điểm nhìn thuộc về các kỹ thuật, nguyên tắc tự
sự. Nó là một trong những vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm, “cung cấp
một phương diện để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc
điểm phong cách ở trong đó” [94; tr.113]. Tuy nhiên, nhìn từ hệ hình cấu trúc
văn bản tự sự, nghệ thuật kể chuyện có ba điểm nhìn: điểm nhìn nhân vật,
điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn của người đọc. Khi truyện kể trở
nên phức tạp hơn thì điểm nhìn thứ tư nảy sinh từ sự khác biệt rõ rệt giữa
người kể chuyện và tác giả.
Trong tác phẩm tự sự, điểm nhìn có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố cơ
bản nhất tạo nên phương thức trần thuật của văn bản, là phương tiện để tổ
chức, kết cấu văn bản nghệ thuật. Do đó, dựa vào việc sử dụng điểm nhìn mà
người ta phân chia ra nhiều phương thức tự sự/ trần thuật khác nhau. Theo Từ
điển thuật ngữ văn học thì “phương thức trần thuật được cấu thành bởi sự
phối hợp giữa tiêu cự trần thuật và cách kể” [94; tr.267]. Tiêu cự trần thuật có
thể chia thành hai loại: trần thuật biết hết - điểm nhìn toàn tri vầ trần thuật
theo điểm nhìn nhân vật - điểm nhìn hạn tri. Còn tư cách kể gắn với người kể
chuyện nên có thể chia thành người kể lộ diện (kể theo ngôi thứ nhất) hoặc
người kể ẩn tàng (kể theo ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ hai).
Có rất nhiều quan niệm chia phương thức trần thuật thành nhiều loại
hình khác nhau. Song trên những điểm dị biệt vẫn có nét đại đồng là chủ yếu
dựa vào cách kể ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, gắn với cái nhìn toàn tri và
hạn tri, người kể lộ diện và ẩn tàng. Theo đó, nhìn chung, chúng ta có thể chia
thành một số phương thức sau:
1. Kể theo ngôi thứ ba, khách quan, người kể biết hết, tiêu cự bằng

14


không.

15


2. Kể theo ngôi thứ ba, người kể biết hết, có bình luận.
3. Kể theo ngôi thứ ba, chủ quan do vận dụng điểm nhìn của nhân vật
(tiêu cự bên trong).
4. Kể theo ngôi thứ nhất của người kể bàng quan, đứng ngoài.
5. Kể theo ngôi thứ nhất có bình luận.
6. Kể theo ngôi thứ nhất mang điểm nhìn của người trong cuộc [94;
tr.267-268].
Bản thân sự phân chia thành các phương thức trần thuật trên đây đã thể
hiện quá trình vận động, phát triển của thể loại tự sự trong lịch sử văn học.
Khảo sát nghệ thuật tự sự trong tiến trình văn học chúng tôi nhận thấy phương
thức trần thuật theo ngôi thứ ba xuất hiện khá sớm, từ trong văn học dân gian
và trung đại, còn phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, từ điểm nhìn bên
trong xuất hiện muộn hơn, bắt đầu từ các tác phẩm văn học hiện đại. Ngay
trong cùng một phương thức trần thuật theo ngôi thứ ba thì các tác phẩm tự sự
dân gian, trung đại chủ yếu theo các phương thức 1 và 2, phương thức 3 đến
thời cận, hiện đại mới có. Bởi chỉ khi xuất hiện ý thức cá nhân mạnh mẽ, rõ
rệt, biểu hiện trực tiếp, cụ thể thì điểm nhìn bên trong mới được sử dụng trong
nghệ thuật tự sự, để kể truyện đời và truyện của mình bằng góc nhìn, kinh
nghiệm, tư tưởng của cá nhân. Khái niệm “tiêu cự” trong phương thức trần
thuật giúp khu biệt được đặc trưng của từng thời kỳ, giai đoạn văn học khác
nhau có cùng một hình thức trần thuật: ví dụ như việc trần thuật theo ngôi thứ
ba trong văn học trung đại và hiện đại.

1.1.3. Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, đời tư
Tìm hiểu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư, chúng
tôi vẫn sử dụng khái niệm phương thức trần thuật và các hình thức phương
thức trần thuật của tự sự nói chung. Tuy nhiên, khảo sát một thể loại tự sự cỡ
nhỏ là truyện ngắn, gắn với thể tài thế sự - đời tư trong bối cảnh văn học Việt
Nam những năm đổi mới (từ sau 1986), chúng tôi xem xét những phương
16


thức trần thuật đặc trưng được sử dụng, lý giải cặn kẽ hơn về các phương thức
trần thuật đó. Từ đó, chúng tôi sẽ bước đầu nhận diện đặc trưng thể loại gắn
với thể tài sẽ chi phối đến hệ thống thi pháp, ngôn ngữ nghệ thuật, mà với tự
sự thì quan trọng bậc nhất vẫn là trần thuật, sự kể, cách kể, chiến lược kể.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát, tìm hiểu mọi yếu tố chi
phối đến các phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư như tình
huống/ sự kiện, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu… để có cái nhìn toàn tri, đa
chiều, thấu đáo, đặt phương thức trần thuật trong chỉnh thể tổ chức nghệ thuật
của tác phẩm tự sự. Do đó, khái niệm phương thức trần thuật của truyện ngắn
thế sự - đời tư được hiểu linh động, mang tính chất công cụ như một cách tiếp
cận thể loại văn học này trong giai đoạn văn học đổi mới. Từ đó, chúng tôi đi
khu biệt, chỉ ra những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù trong nghệ thuật trần
thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư với các kiểu thể tài khác như lịch sử, khu
biệt trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư trong giai đoạn văn học đổi mới
sau 1986 với truyện ngắn nói riêng và các thể loại tự sự nói trong trong giai
đoạn văn học sử thi 1945-1975.
Vì thế, chúng tôi không định nghĩa duy danh hay đưa ra khái niệm mới.
Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư là yếu tố hạt nhân, đặc
trưng nổi bật để chúng tôi tìm hiểu, khảo sát, diễn giải và tái hiện một phần
diện mạo của thể loại trong sự vận động của một giai đoạn văn học có nhiều
biến đổi mang tính bước ngoặt. Và việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu các

phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư thời kỳ từ sau 1986 đến
nay cũng là một cách thay đổi tọa độ, điểm nhìn, phương pháp tiếp cận các
hiện tượng trong lịch sử văn học: không đi theo lối mòn của lý thuyết phản
ánh mà tìm hiểu bề sâu cấu trúc thể loại trong sự phát triển, thay đổi. Do đó,
trần thuật là một cách thức đặc sắc, đặc thù và hữu dụng nhất để tái tạo hiện
thực trong các truyện ngắn, thể loại vẫn được coi là khái quát thế giới từ một
lát cắt, khoảnh khắc.
17


1.2. Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôi
Việt Nam từ sau 1986
Vào những năm đầu của thế kỉ XX, phương thức trần thuật trong các
tác phẩm tự sự đã được giới nghiên cứu nước ta quan tâm và chú ý. Theo cách
hiểu truyền thống mà Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, phương thức trần
thuật được hiểu là: “Phương thức trần thuật được cấu thành bởi sự phối hợp
giữa tiêu cự trần thuật và tư cách kể. Tiêu cự trần thuật có thể chia thành hai
loại: trần thuật biết hết và trần thuật theo điểm nhìn nhân vật. Tư cách kể có
thể chia thành người kể lộ diện (kể theo “ngôi thứ nhất”) hoặc người kể ẩn
tàng (kể theo “ngôi thứ ba” hoặc “ngôi thứ hai”). Hai yếu tố này kết hợp với
nhau tạo thành các phương thức tự sự khác nhau theo quan điểm của từng
chuyên gia...” [94; tr.267]. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi
thấy phương thức trần thuật được phát triển theo nghĩa rộng hơn chứ không
chỉ bó hẹp trong khuôn khổ của “ngôi kể” mà Từ điển thuật ngữ văn học đã
nêu. Khái niệm phương thức trần thuật mà chúng tôi sử dụng là một phương
diện cơ bản của tự sự, bao gồm rất nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và cấu
trúc một văn bản. Ở đây, chúng tôi bước đầu ghi nhận một số xu hướng nghệ
thuật trần thuật của truyện ngắn đương đại như sau: sự đa dạng hóa điểm nhìn
trần thuật; sự gia tăng hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất; ngôn ngữ trần
thuật giàu chất hiện thực đời thường; nhịp điệu trần thuật nhanh, tính thông

tin cao; truyện ngắn vận dụng nhiều hình thức trần thuật, trong đó tính chất đa
thanh của giọng điệu trần thuật biểu hiện ở sự đan cài các giọng điệu khác
nhau. Khác với văn học các giai đoạn trước, ta sẽ bắt gặp trong truyện ngắn từ
sau 1986 đến nay những chất giọng đặc biệt, đặc trưng như: giọng điệu mỉa
mai, châm biếm, giọng điệu hoài nghi bên cạnh những chất giọng truyền
thống như giọng khách quan, giọng ngợi ca,...
Trong lí thuyết tự sự học thì phương thức trần thuật là một phạm trù
nghiên cứu khá phức tạp. Nó bắt đầu manh nha từ chủ nghĩa hình thức Nga,
18


ngôn ngữ học Saussure, trường phái Praha, trường phái Tân Aristotle, triết
học phân tích, kí hiệu học, hậu cấu trúc chủ nghĩa...
Vào những năm 1960 - 1970 ở Pháp được ghi nhận là mốc thời gian
đánh dấu lĩnh vực nghiên cứu về tự sự học. Là một phương diện cơ bản của
loại hình tự sự, việc tìm hiểu phương thức trần thuật giúp chúng ta hiểu được
phương diện cấu trúc của tác tác phẩm. Về bản chất, đó là việc giới thiệu khái
quát, miêu tả đối với một sự kiện, hoàn cảnh và nhân vật theo cách nhìn của
một người trần thuật nhất định.
Nghệ thuật trần thuật là một hiện tượng lý thuyết khá phức tạp cần
nhiều sự kiến giải thỏa đáng. Từ thế kỉ XIX về trước thường xuất hiện trong
văn bản tự sự là kiểu trần thuật khách quan, do một người trần thuật “toàn tri”
kể theo ngôi thứ ba. Bắt đầu sang thế kỉ XX ghi nhận thêm kiểu trần thuật
theo ngôi thứ nhất xưng “tôi” kể chuyện mình hoặc chuyện mà mình được
chứng kiến.
Phương thức trần thuật là một hệ thống phức tạp gồm nhiều thành phần
nhưng do điều kiện thời gian và giới hạn của đề tài nên chúng tôi sẽ tìm hiểu
nghệ thuật tổ chức trần thuật ở các phương diện và hình thức trần thuật như:
ngôi kể và điểm nhìn trần thuật; cách tổ chức tình huống, kết cấu; ngôn ngữ
và giọng điệu trần thuật.

Phương thức trần thuật là một vấn đề quan trọng của lý thuyết tự sự đã
và đang thu hút và nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Ở đây, trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi xin được đề
cập đến một vài công trình nghiên cứu của các lí thuyết gia nổi tiếng có ý
nghĩa định hướng về mặt lí thuyết đối với công trình của chúng tôi.
Một số nghiên cứu ngoài nước
Trước hết, ở nước ngoài, người có công đầu trong việc nghiên cứu nghệ
thuật tự sự phải kể đến là P.Lubbock, một nhà nghiên cứu người Anh. Trong
tác phẩm Nghệ thuật văn xuôi, ông đã đưa ra bốn hình thức trần thuật cơ bản.
19


Hình thức trần thuật thứ nhất có tên gọi: “toát yếu toàn cảnh” có đặc điểm là
sự xuất hiện của người trần thuật toàn tri, có quyền quyết định số phận các
nhân vật của mình. Hình thức trần thuật thứ hai có tên gọi là: “người trần
thuật kịch hóa” có đặc điểm người trần thuật đứng ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”
kể lại câu chuyện mà mình được chứng kiến hoặc chính bản thân mình đã trải
qua. Hình thức trần thuật thứ ba có tên gọi: “ý thức kịch hóa” cho phép miêu
tả đời sống nội tâm phức tạp, sự giao tranh những xúc cảm tâm lí của nhân
vật. Cuối cùng là hình thức trần thuật thứ tư có tên: “kịch thực thụ” gần với
trình diễn sân khấu bởi vì ở đây trần thuật được đưa ra dưới dạng một cảnh
diễn trên sân khấu, người đọc chỉ có thể thấy được nhân dạng và các cuộc đối
thoại của nhân vật mà không hiểu gì về đời sống nội tâm. Và trong quan niệm
của mình, P.Lubbock coi hình thức trần thuật này là hình thức hoàn hảo nhất.
N.Fridman trong tác phẩm Điểm nhìn trong tiểu thuyết đã đưa ra một
sự phân loại tương đối chi tiết về người kể chuyện. Thứ nhất là hình thức
người kể chuyện “toàn năng biên tập”, người kể chuyện xuất hiện trong vai
“nhà xuất bản - nhà biên tập”, họ biết tất cả và có khả năng xâm nhập vào câu
chuyện dưới dạng những trao đổi về cuộc sống, phong tục và đạo đức. Thứ
hai là hình thức người kể chuyện “toàn năng trung tính”, không có sự can

thiệp trực tiếp của người kể chuyện. Thứ ba là hình thức trần thuật “tôi là
nhân chứng”, người kể chuyện kể từ ngôi thứ nhất, là một nhân vật trong
truyện nhưng không tham gia vào câu chuyện mà chỉ hiểu biết ít ỏi về các
nhân vật. Hình thức trần thuật thứ tư là hình thức “tôi là vai chính”, người kể
chuyện là nhân vật chính trong câu chuyện. Thứ năm là hình thức trần thuật
“toàn năng cục bộ đa bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài câu chuyện, căn
cứ vào điểm nhìn của nhiều nhân vật để kể chuyện. Thứ sáu là hình thức trần
thuật “toàn năng cục bộ đơn bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài và dựa
vào điểm nhìn của một nhân vật trong truyện để kể. Thứ bảy là hình thức trần
thuật theo “mô thức kịch” và cuối cùng là trần thuật theo kiểu “camera”. Ở
20


hai hình thức sau này hầu như người kể chuyện chỉ khách quan ghi lại các sự
việc, hiện tượng mà không tỏ bất cứ một thái độ chủ quan nào.
Pospelov, một nhà nghiên cứu Liên Xô trong cuốn Dẫn luận nghiên
cứu văn học cũng bàn về vị trí người trần thuật trong nghệ thuật trần thuật đã
phát biểu: “Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người
nào đó. Trong sử thi, tiểu thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếp
đều có người trần thuật” [136; tr.88]. Theo Pospelov thì “người trần thuật là
loại người môi giới các hiện tượng được miêu tả và người nghe hoặc người
đọc là người chứng kiến và người cắt nghĩa các sự việc xảy ra”. Ở đây,
Pospelov đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của người kể chuyện trong nghệ
thuật trần thuật. Ông cũng cho rằng có hai kiểu người trần thuật phổ biến:
“Hình thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhân
vật hóa mà đằng sau là tác giả. Nhưng người trần thuật cũng hoàn toàn có thể
xuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “tôi” nào đó” [136; tr.88].
Một số nghiên cứu trong nước
Bên cạnh các nhà nghiên cứu nước ngoài, các nhà nghiên cứu trong
nước cũng dành sự quan tâm đến nghệ thuật trần thuật . Trong cuốn Tự sự học

tập 1, Lại Nguyên Ân với bài viết “Về việc mở ra môn Trần thuật học trong
ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam” đã đồng nhất trần thuật học với tự sự
học và cho rằng: “Thực chất hoạt động trần thuật là kể, là thuật; cái được
thuật, được kể, trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [141; tr.132] và
“Trần thuật học hiện đại quan niệm tác phẩm nghệ thuật như một hiện tượng
giao tiếp nghệ thuật” [141; tr.139].
Trần Đình Sử trong Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra ý kiến khá hệ
thống và sâu sắc về vấn đề này. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Người trần thuật
là một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ
của anh ta tạo thành” [94; tr.221]. Ông chỉ ra năm chức năng của người trần
thuật: “1) chức năng kể chuyện, trần thuật; 2) chức năng truyền đạt, đóng vai
21


×