Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài tập về quản trị hoạt động – phân tích các lý thuyết quản trị khoa học ứng dụng thực tiễn trong sản xuất kinh doanh 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.46 KB, 11 trang )

Theo quan niệm phổ biến trên toàn thế giới, sản xuất được hiểu là quá
trình tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Theo nghĩa rộng, sản xuất bao hàm bất kỳ
hoạt động nào nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Một hệ thống sản xuất
nhận đầu vào là nguyên liệu thơ, con người, máy móc, nhà xưởng, kỹ thuật công
nghệ, tiền mặt và các nguồn tài nguyên khác chuyển đổi nó thành sản phẩm hoặc
dịch vụ. Q trình chuyển đổi này được gọi là trọng tâm của sản xuất và là hoạt
động phổ biến của một hệ thống sản xuất. Mối quan tâm hàng đầu của các nhà
quản trị trong sản xuất và điều hành, những người mà chúng ta sẽ gọi là nhà
quản trị hệ thống sản xuất, là các hoạt động biến đổi trong quá trình sản xuất.
Quản trị sản xuất và tác nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động liên quan tới
việc quản trị các yếu tố đầu vào, tổ chức, phối hợp các yếu tố đó nhằm biến đổi
chúng thành các sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ với hiệu quả cao nhất. Để tạo ra
sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp đều phải thực hiện ít nhất 3 chức năng cơ
bản: Marketing, sản xuất và tài chính. Hoạt động quản trị marketing chịu trách
nhiệm tạo đảm bảo các sản phẩm dịch vụ được đưa đến khách hàng một cách
nhanh nhất, ít tốn kém nhất và khiến khách hàng hài lòng nhất. Các hoạt động
quản trị tài chính chịu trách nhiệm về việc đạt được mục tiêu tài chính của doanh
nghiệp, giúp cung cấp các nguồn tài chính nhằm đảm bảo các yếu tố đầu vào
luôn luôn sẵn sàng phục vụ sản xuất. Quản trị sản xuất có mối quan hệ mật thiết
với quản trị tài chính và marketing. Các doanh nghiệp khơng thể thành công khi
không thực hiện đồng bộ các chức năng tài chính, marketing và sản xuất. Do đó
có thể nói rằng quản trị sản xuất và tác nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt trong
hoạt động của doanh nghiệp. Nếu quản trị tốt, ứng dụng các phương pháp quản
trị khoa học thì sẽ tạo ra khả năng sinh lợi lớn cho doanh nghiệp, ngược lại nếu
quản trị kém sẽ làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ, thậm chí có thể bị phá sản.
Trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20, một số lý thuyết về quản lý sản xuất nhằm
nâng cao năng suất đã được đưa ra bao gồm :


- Thuyết quản trị khoa học của Frederick W.Taylor;
- Thuyết quản lý tổng quát của Henri Fayol ;


- Thuyết hành vi trong quản lý của H. A. Simon
Trường phái cổ điển đã đặt nền móng đầu tiên cho khoa học quản lý với
những đóng góp có ảnh hưởng sâu rộng đến tồn bộ hoạt động quản lý trong xã
hội cơng nghiệp, mà những nội dung cơ bản của nó vẫn có giá trị cao cho đến
bây giờ.
1. Thuyết quản trị khoa học của Frederick W.Taylor: Frederick
Winslow Taylor (1856 - 1916) xuất thân là một cơng nhân cơ khí ở Mỹ, kinh qua
các chức vụ đốc công, kỹ sư trưởng, tổng cơng trình sư. Với kinh nghiệm dày
dặn của mình, ơng đã phân tích q trình vận động (thao tác) của cơng nhân,
nghiên cứu quy trình lao động hợp lý (với các động tác khơng trùng lặp, tốn ít
thời gian và sức lực) để đạt được năng suất cao. Đó là sự hợp lý hóa lao động,
theo nghĩa rộng là tổ chức lao động một cách khoa học. Với các công trình
nghiên cứu “Quản lý ở nhà máy” (1903), “Những nguyên lý quản lý theo khoa
học” (Principles of scientific management) năm 1911, ơng đã hình thành thuyết
Quản lý theo khoa học, mở ra “kỷ nguyên vàng” trong quản lý ở Mỹ. Thuyết
này sau đó được Henry Ford ứng dụng qua việc lập ra hệ thống sản xuất theo
dây chuyền dài 24km trong Nhà máy ôtô con đạt công suất 7000 xe mỗi ngày (là
kỷ lục thế giới thời đó). Ngồi ra, Taylor cịn viết nhiều tác phẩm có giá trị khác.
Ơng được coi là “người cha của lý luận quản lý theo khoa học”.
Nội dung quản lý theo khoa học dựa trên các nguyên tắc sau:
- Xác định một cách khoa học khối lượng công việc hàng ngày của công
nhân với các thao tác và thời gian cần thiết để bố trí quy trình cơng nghệ phù
hợp (chia nhỏ các phần việc) và xây dựng định mức cho từng phần việc. Định
mức được xây dựng qua thực nghiệm (bấm giờ từng động tác).
- Lựa chọn công nhân thành thạo từng việc, thay cho công nhân “vạn
năng” (biết nhiều việc song không thành thục). Các thao tác được tiêu chuẩn hóa


cùng với các thiết bị, công cụ, vật liệu cũng được tiêu chuẩn hóa và mơi trường
làm việc thuận lợi. Mỗi cơng nhân được gắn chặt với một vị trí làm việc theo

ngun tắc chun mơn hóa cao độ.
- Thực hiện chế độ trả lương (tiền công) theo số lượng sản phẩm (hợp lệ
về chất lượng) và chế độ thưởng vượt định mức nhằm khuyến khích nỗ lực của
cơng nhân.
- Phân chia công việc quản lý, phân biệt từng cấp quản lý. Cấp cao tập
trung vào chức năng hoạch định, tổ chức và phát triển kinh doanh, còn cấp dưới
làm chức năng điều hành cụ thể. Thực hiện sơ đồ tổ chức theo chức năng và theo
trực tuyến; tổ chức sản xuất theo dây chuyền liên tục.
Qua các nguyên tắc kể trên, có thể rút ra các tư tưởng chính của thuyết
Taylor là: Tối ưu hóa q trình sản xuất; tiêu chuẩn hóa phương pháp thao tác và
điều kiện tác nghiệp; phân cơng chun mơn hóa (đối với lao động của công
nhân và đối với các chức năng quản lý); và cuối cùng là tư tưởng “con người
kinh tế” (qua trả lương theo số lượng sản phẩm để kích thích tăng năng suất và
hiệu quả sản xuất).
Thuyết quản lý theo khoa học chủ yếu đề cập đến công việc quản lý ở cấp
cơ sở (doanh nghiệp) với tầm vi mô. Tuy nhiên, nó đã đặt nền móng rất cơ bản
cho lý thuyết quản lý nói chung, đặc biệt về phương pháp làm việc tối ưu (có
hiệu quả cao), tạo động lực trực tiếp cho người lao động và việc phân cấp quản
lý. Các thuyết quản lý và trường phái quản lý khác vừa kế thừa thành tựu đó,
vừa nâng cao những nhân tố mới để đưa khoa học quản lý từng bước phát triển
hồn thiện hơn. Qua đó đã hạn chế tính cơ giới của tư tưởng “con người kinh
tế”, đặt nhân tố con người lên trên nhân tố trang bị kỹ thuật, nhân bản hóa quan
hệ quản lý, dân chủ hóa sản xuất, phát huy động lực vật chất và tinh thần với
tính cơng bằng cao hơn và đề cao quan hệ hợp tác hòa hợp giữa người quản lý
với công nhân. (Nguồn: Nhà Quản Lý)


2. Thuyết quản lý tổng quát của Henri Fayol:
Trong khi thuyết quản lý theo khoa học của F.W.Taylor có ảnh hưởng lớn
từ Mỹ sang châu Âu suốt nửa đầu thế kỷ XX, thì ở Pháp, qua tác phẩm chủ yếu

“Quản lý công nghiệp và tổng quát” xuất bản năm 1949 của Henri Fayol (người
Pháp, 1841 - 1925) đã thu hút được sự chú ý. Fayol đã tiếp cận vấn đề quản lý ở
tầm rộng hơn và xem xét dưới góc độ tổ chức - hành chính. Với thuyết này, ơng
đã được coi là người đặt nền móng cho lý luận quản lý cổ điển, là “một Taylor
của châu Âu” và là “người cha thực sự của lý thuyết quản lý hiện đại” (trong xã
hội công nghiệp).
Tư tưởng chủ yếu của thuyết Fayol là nhìn vấn đề quản lý ở cả tổng thể tổ
chức quản lý xí nghiệp, xem xét hoạt động quản lý từ trên xuống, tập trung vào
bộ máy lãnh đạo cao với các chức năng cơ bản của nhà quản lý. Ơng cho rằng
thành cơng của quản lý không chỉ nhờ những phẩm chất của các nhà quản lý, mà
chủ yếu nhờ các nguyên tắc chỉ đạo hành động của họ và những phương pháp
mà họ sử dụng. Với các nhà quản lý cấp cao phải có khả năng bao qt, cịn đối
với cấp dưới thì khả năng chuyên môn là quan trọng nhất. Tư tưởng quản lý đó
phù hợp với hệ thống kinh doanh hiện đại, và từ những ngun lý đó (trong cơng
nghiệp) có thể vận dụng cho việc quản lý các loại tổ chức thuộc lĩnh vực khác.
Những vấn đề mà thuyết Fayol đã giải đáp khá rõ ràng là nội hàm của
khái niệm quản lý, các chức năng cơ bản của quản lý, cơ cấu tổ chức quản lý và
nguyên tắc vận hành của guồng máy tổ chức.
Trước hết, ơng phân chia tồn bộ các hoạt động của xí nghiệp thành 6
nhóm cơng việc chính gồm:
1. Kỹ thuật (khai thác, chế tạo, chế biến)
2. Thương mại (mua bán, trao đổi)
3. Tài chính (huy động vốn, sử dụng vốn)
4. An ninh (bảo vệ tài sản và nhân viên)


5. Kế tốn (kiểm kê tài sản, theo dõi cơng nợ, hạch toán giá thành, thống
kê)
6. Quản lý - điều hành (kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra).
Qua đó, ơng xác định nội hàm quản lý gồm: lập kế hoạch, tổ chức, điều

khiển, phối hợp và kiểm tra. Chính đó là sự khái qt các chức năng quản lý,
bảo đảm cho hoạt động tiến hành thuận lợi và có hiệu quả. Như vậy chức năng
quản lý chỉ tác động đến con người, là sự quản lý của tổ chức xã hội đối với con
người (không phải là trực tiếp tác động đến nguyên liệu, thiết bị…). Với quan
niệm đó, thực chất thuyết Fayol là lý thuyết về tổ chức xã hội. Cũng qua đó,
Fayol phân biệt rõ lãnh đạo với quản lý, trong đó quản lý chỉ là một công cụ bảo
đảm sự lãnh đạo nhằm đạt được mục đích của cả tổ chức; và do đó hoạt động
chủ yếu của người lãnh đạo là phát huy cao tác dụng của quản lý, thông qua hoạt
động quản lý để thúc đẩy các hoạt động của tổ chức.
Mặt khác, Fayol cũng cho rằng quản lý không phải là đặc quyền và trách
nhiệm riêng của cá nhân người đứng đầu, mà được phân chia cho các thành viên
khác trong hệ thống tổ chức quản lý. Từ đó, ơng đưa ra trật tự thứ bậc trong hệ
thống đó gồm 3 cấp cơ bản: cấp cao là Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành;
cấp giữa là các người tham mưu và chỉ huy thực hiện từng phần việc, từng công
đoạn; cấp thấp là các người chỉ huy tác nghiệp ở từng khâu. Trật tự đó thể hiện
sự phân phối quyền lực và trách nhiệm với ranh giới rõ ràng. Tuy vậy, ơng cũng
chỉ ra tính tương đối của cơng cụ kế hoạch, khơng thể dự đốn đầy đủ và chính
xác mọi biến động, cần phải xử lý linh hoạt sáng tạo. Chức năng tổ chức bao
gồm tổ chức sản xuất (các công đoạn, các khâu trong hoạt động) và tổ chức bộ
máy quản lý (cơ cấu, cơ chế, các quan hệ chức năng, nhân sự). Chức năng điều
khiển là tác động lên động cơ và hành vi của cấp dưới để họ phục tùng và thực
hiện các quyết định quản lý; vừa có tính kỷ luật cao vừa phát huy được tính chủ
động, sáng tạo. Chức năng phối hợp là kết nối, liên hợp, điều hòa tất cả các hoạt
động và các lực lượng, đảm bảo cho các hoạt động diễn ra hài hịa, gắn bó trong
một thể thống nhất, tạo ra tổng hợp lực và sự cân đối. Chức năng kiểm tra là


nắm chắc diễn biến tình hình hoạt động để kịp thời phát hiện vấn đề cần điều
chỉnh, sửa đổi đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra, quy rõ trách nhiệm.
14 nguyên tắc về quản lý trong thuyết của Fayol:

1. Phân công lao động phù hợp, rõ ràng, tạo được sự liên kết.
2. Xác định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, đúng mức.
3. Duy trì tốt kỷ luật trong đội ngũ, đảm bảo sự quy củ và tinh thần phục
vụ.
4. Đảm bảo sự thống nhất chỉ huy, chấp hành mệnh lệnh từ một trung tâm.
5. Chỉ đạo nhất quán (theo một kế hoạch, một đầu mối).
6. Xử lý hài hịa lợi ích, đảm bảo lợi ích chung cao nhất.
7. Trả cơng thỏa đáng, cơng bằng, sịng phẳng.
8. Tập trung quyền lực trong hệ thống tổ chức quản lý.
9. Xác định rõ và ổn định hệ thống cấp bậc với chức trách rõ ràng.
10. Đảm bảo trật tự trong hệ thống với vị trí xác định.
11. Thực hiện công bằng trong quan hệ đối xử.
12. Ổn định đội ngũ nhân sự và được bổ sung kịp thời.
13. Khuyến khích tính sáng tạo, chủ động của mọi người.
14. Xây dựng bầu khơng khí tập thể đồng thuận, đồn kết nội bộ.
Trong 14 nguyên tắc đó, nguyên tắc 4 (thống nhất chỉ huy) và nguyên tắc
9 (hệ thống cấp bậc) được coi là hai nguyên tắc quyết định, phản ánh thực chất
của thuyết quản lý Fayol.
Với nội dung nói trên, thuyết quản lý tổng hợp của Fayol có ưu điểm nổi
bật là tạo được kỷ cương trong tổ chức. Song nó chưa chú trọng đầy đủ các mặt
tâm lý và môi trường lao động, đồng thời chưa đề cập đến mối quan hệ với bên


ngoài doanh nghiệp (với khách hàng, với thị trường, với đối thủ cạnh tranh và
với Nhà nước).
Cùng với thuyết Taylor, thuyết này đã đề ra được hàng loạt vấn đề quan
trọng của quản lý (như chức năng, nguyên tắc, phương pháp), vừa chú trọng việc
hợp lý hóa lao động vừa quan tâm cao đến hiệu lực quản lý, điều hành. Nhiều
luận điểm cơ bản của các thuyết thuộc trường phái cổ điển vẫn mang giá trị lâu
dài, được các thuyết tiếp sau bổ sung và nâng cao về tính xã hội và yếu tố con

người cũng như về các mối quan hệ với bên ngoài tổ chức.
3. Thuyết hành vi trong quản lý của H. A. Simon
Herbert A.Simon (người Mỹ) nguyên là một giáo sư tiến sĩ giảng dạy ở
nhiều trường đại học ở Mỹ trong những năm 50 thế kỷ XX, và từ 1961 đến 1965
là Chủ tịch Hội đồng khoa học xã hội Mỹ. Ông chuyên về khoa học máy tính và
tâm lý học, từng nghiên cứu về khoa học định lượng trong kinh tế, là một trong
những người tiên phong trong hoạt động về “trí thơng minh nhân tạo” (máy tính
có khả năng “tư duy”).
Tiếp đó, ơng chuyển sang nghiên cứu về khoa học quản lý với hàng loạt
cơng trình: Hành vi quản lý (1947), Quản lý công cộng (1950), Lý luận về quyết
sách trong kinh tế học và khoa học hành vi (1959), Khoa học về nhân công
(1969), Việc giải quyết những vấn đề về con người (1972), Các mơ hình khám
phá (1977), Mơ hình tư duy (1979), Các mơ hình về quản lý có giới hạn (1982),
Lẽ phải trong các công việc của con người (1983),…
Nội dung chính trong thuyết quản lý của Simon như sau:
Cốt lõi của quản lý là ra quyết định (quyết sách)
Quyết sách quản lý gồm các việc: hoạch định kế hoạch, lựa chọn phương
án hành động, thiết lập cơ cấu tổ chức, phân định trách nhiệm và quyền hạn, so
sánh tình hình thực tế với kế hoạch, lựa chọn phương pháp kiểm tra, quán xuyến
các mặt kế hoạch, tổ chức và điều khiển đối với mọi cấp quản lý và mọi mặt của
quá trình quản lý. Quyết sách gần như đồng nghĩa với quản lý.


Các quyết định quản lý được chia thành 2 nhóm lớn: Quyết định giá trị
bao quát là các quyết định về các mục tiêu cuối cùng; quyết định thực tế là
những quyết định liên quan đến việc thực hiện các mục tiêu (đánh giá thực tế).
Sự phối hợp 2 loại quyết định đó được coi là trọng tâm của cơng việc quản lý.
Một quyết định quản lý chỉ được coi là có giá trị khi chứa đựng các yếu tố thực
tế, khả thi. Đó là quyết định “hợp lý – khách quan” chứ không phải là quyết định
“hợp lý – chủ quan” (tối ưu hoàn hảo).

Quyết sách được cấu thành qua 4 giai đoạn có liên hệ với nhau:
Quyết sách được cấu thành qua 4 giai đoạn có liên hệ với nhau: thu thập
và phân tích thơng tin kinh tế – xã hội; thiết kế các phương án hành động để lựa
chọn; lựa chọn một phương án khả thi; thẩm tra đánh giá phương án đã chọn để
bổ sung hoàn thiện.
Simon cho rằng, mọi hoạt động trong nội bộ một tổ chức có thể chia ra 2
loại ứng với 2 loại quyết sách: hoạt động đã diễn ra nhiều lần cần có quyết sách
theo trình tự, và hoạt động diễn ra lần đầu cần có quyết sách khơng theo trình tự.
Cần cố gắng nâng cao mức độ trình tự hóa quyết sách để tăng cường hệ thống
điều khiển có hiệu quả, đồng thời tăng cường hệ thống điều hòa, phối hợp của tổ
chức. Quyết sách phi trình tự mang tính sáng tạo, khơng có tiền lệ song dựa vào
tri thức và phương pháp sẵn có để xử lý, trong đó có sự vận dụng kinh nghiệm.
Sự phân chia 2 loại quyết sách chỉ là tương đối.
Thông qua một hệ thống mục tiêu – phương tiện để thống nhất hoạt
động.
Đó là sự kết hợp giữa người và máy (điện tử) để hoạch định quyết sách;
có thể khắc phục tình trạng thiếu tri thức và thông tin bằng mạng thông tin nhiều
kênh theo 2 chiều.
Lựa chọn phương thức tập quyền hay phân quyền
Lựa chọn phương thức tập quyền hay phân quyền trong việc ra quyết sách
với chức trách và quyền hạn rõ ràng. Nhờ việc tự động hóa quyết sách theo trình


tự, việc xử lý các vấn đề có liên quan bằng phương thức tập quyền trở nên hợp
lý, giảm bớt sự can thiệp của cấp trung gian đối với công việc của cấp cơ sở.
Song, phương thức đó khơng thể sử dụng trong mọi tình huống; cịn phải nghĩ
tới nhân tố kích thích, làm cho quyết sách có thể huy động được mọi người nỗ
lực thực hiện. Hình thức tổ chức trong tương lai vẫn phải là hệ thống cấp bậc
gồm 3 cấp: cấp sản xuất và phân phối sản phẩm, cấp chi phối quá trình quyết
sách theo trình tự, cấp kiểm sốt q trình hoạt động của cơ sở. Cần phân quyền

ra quyết định, tạo ra “vùng chấp thuận hợp lý” đối với quyền tự chủ của cấp
dưới.
Nhìn chung, tư tưởng quản lý của Simon chịu ảnh hưởng sâu sắc tư duy
phi logic của C.I.Barnara về nhiều mặt; song đã có bước phát triển, như: đưa ra
tiền đề của quyết sách, coi quyền uy là một phương thức ảnh hưởng đến tổ chức,
phân tích cụ thể vấn đề cân bằng tổ chức (trong các loại tổ chức kinh doanh,
chính phủ và phi lợi nhuận). Điểm nổi bật trong tư tưởng quản lý của Simon là
nhấn mạnh “quản lý chính là quyết sách” và đặt nền móng lý luận cho việc
hoạch định quyết sách một cách khoa học, coi sự tiếp cận hành vi ứng xử là chìa
khóa để giải quyết vấn đề về quản lý hiện đại.
Những lý thuyết cơ bản được sử dụng trong quản lý sản xuất của thế
kỷ 19 và 20 nhằm nâng cao năng suất có thể nói rằng đã đóng góp rất quan
trọng trong việc đặt nền móng cho quản trị sản xuất và tác nghiệp trong
giai đoạn ngày nay, tuy nhiên cần phải được áp dụng linh hoạt, khơng máy
móc, dập khn theo một lý thuyết nào, bởi mỗi lý thuyết đều có những
điểm mạnh và hạn chế. Việc áp dụng các học thuyết này trong giai đoạn
hiện nay và những năm sắp tới trong việc nâng cao năng suất đối với tất cả
các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị trong nền kinh tế mở, các điều kiện cạnh
tranh của thị trường là việc hồn tồn có thể thực hiện được. Tuy nhiên, để
có thể áp dụng tư tưởng của các học thuyết đó một cách hiệu quả nhất thì
cần phải hiểu nó một cách thấu đáo và căn cứ vào từng hoàn cảnh môi
trường cụ thể để áp dụng vào trong thực tiễn doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức.


Ở bất kỳ giai đoạn nào, thời điểm nào, một doanh nghiệp muốn năng suất
được nâng cao thì doanh nghiệp đó phải chun mơn hóa sản xuất, nghĩa là : xác
định một cách khoa học khối lượng công việc hàng ngày và xây dựng định mức
cho từng phần việc; Lựa chọn công nhân thành thạo từng việc, các thao tác được
tiêu chuẩn hóa cùng với các thiết bị, cơng cụ, vật liệu cũng được tiêu chuẩn hóa
và mơi trường làm việc thuận lợi. Mỗi công nhân được gắn chặt với một vị trí

làm việc theo ngun tắc chun mơn hóa cao độ; Thực hiện chế độ trả lương
(tiền công) theo số lượng sản phẩm (hợp lệ về chất lượng) và chế độ thưởng
vượt định mức nhằm khuyến khích nỗ lực của công nhân; Phân chia công việc
quản lý, phân biệt từng cấp quản lý. Cấp cao tập trung vào chức năng hoạch
định, tổ chức và phát triển kinh doanh, còn cấp dưới làm chức năng điều hành cụ
thể. Thực hiện sơ đồ tổ chức theo chức năng và theo trực tuyến; tổ chức sản xuất
theo dây chuyền liên tục ( Theo lý thuyết của Taylor ). Bên cạnh đó, với 14
nguyên tắc quản lý được vận dụng linh hoạt, việc tạo được kỷ cương trong tổ
chức cũng là một việc mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có để phát
triển doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tạo được kỷ cương trong tổ chức, việc
nâng cao năng suất sẽ dễ dàng đạt được ( Theo lý thuyết của Fayol ). Tóm lại
các doanh nghiệp muốn năng cao năng suất cũng như mong muốn một tương lai
tươi sáng, phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay và những năm tới có thể
áp dụng những lý thuyết về quản trị sản xuất nêu trên.
Ví dụ : Cơng ty xi măng Hồng Thạch là một đơn vị chuyên sản xuất xi măng
cung cấp cho thị trường Việt Nam. Hiện cơng ty có 3 dây chuyền sản xuất xi
măng lò quay, phương pháp khơ, chu trình kín có hệ thống cyclon trao đổi nhiệt
và buồng đốt canciner đầu lị.Cơng suất dây chuyền I là 1,1 triệu tấn/năm, dây
chuyền II là 1,2 triệu tấn/năm, dây chuyền III có cơng suất là 1.2 triệu tấn/năm.
Sản lượng và doanh thu tiêu thụ sản phẩm có xu hướng ngày càng tăng trong
những năm gần đây.
Sở dĩ, sản lượng xi măng của nhà máy ngày càng tăng trong thời gian gần
đây là do công ty đã áp dụng một cách linh hoạt và đưa ra các quyết định kịp


thời trong sản xuất như: Đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng năng suất lao động
thông qua xây dựng các cơ chế khuyến khích, động lực cho cơng nhân, đưa ra
kịp thời những quyết định trong sản xuất,…
Để nâng cao năng suất xi măng cung cấp cho thị trường công ty đã phân
cơng lao động một cách hợp lý. Có chính sách khen thưởng cho những lao động

làm việc tích cực song cũng có cơ chế phạt rõ ràng đối với những công nhân làm
việc hiệu quả kém. Công ty ln đề ra các quy trình kỷ luật nghiêm ngặt u
cầu tồn thể cán bộ cơng nhân viên phải tn thủ. Trong dây chuyển sản xuất xi
măng, công ty luôn có sự cập nhật kịp thời về khoa học cơng nghệ, đổi mới bắt
kịp công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó, Ban Lãnh đạo cũng ln đưa ra các chính
sách, giải pháp quản trị điều hành kịp thời giúp việc sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm ngày càng nhiều và cao. Điều này đã dần đưa Công ty ngày càng phát
triển, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao, thu nhập cải
thiện rất nhiều qua từng năm.
Tài liệu tham khảo :
1. Giáo trình Quản trị hoạt động – MBA Griggs
2. Slide bài giảng Quản trị hoạt động
3.
4. />5.



×