Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận luật lao động: vấn đề nâng cao tay nghề những chiến lược, giải pháp về nâng cao kỹ năng nghề nhằm nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của người lao động.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.7 KB, 17 trang )

I. Mở đầu
Trong những năm qua, Việt Nam đã giành được nhều thành tựu đáng kể về
tăng trưởng kinh tế cùng với đó năng suất lao động tăng dần qua từng năm đưa
đến những tiến bộ về thu nhập, đời sống người lao động được nâng lên. Tuy vậy,
việc sử dụng lao động có tay nghề thấp ở nước ta vẫn chiếm tỉ trọng lớn, tiếp tục
tình trạng này thì sẽ kìm hãm sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam
trong tương lai, nhất là trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tăng cường việc mở
cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng
trưởng cao dẫn đến những thay đổi về mặt kinh tế.
Từ những yếu tố trên, đòi hỏi Việt Nam phải có những chiến lược, giải pháp
về nâng cao kỹ năng nghề nhằm nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh
tranh của người lao động.

II. Nội dung
1. Khái quát về kỹ năng nghề
Bộ 3 kỹ năng của người lao động bao gồm: Kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã
hội và hành vi và kỹ năng kỹ thuật. Những lĩnh vực này bao gồm các kỹ năng
công việc cụ thể, phù hợp cho các ngành nghề cụ thể, cũng như năng lực nhận
thức và các tố chất cá nhân khác nhau có ý nghĩa quyết định đến thành công trên
thị trường lao động, cụ thể:
Các kỹ năng nhận thức bao gồm: Kỹ năng sử dụng tư duy lô-gíc, trực giác và
tư duy phê phán cũng như tư duy giải quyết vấn đề thông qua các kiến thức đã
có. Các kỹ năng này bao gồm khả năng đọc, viết và tính toán, và mở rộng đến cả
năng lực hiểu được các ý tưởng phức tạp, học hỏi từ kinh nghiệm, và phân tích
vấn đề sử dụng các quy trình tư duy lô-gíc.
Các kỹ năng xã hội và hành vi bao gồm các tố chất cá nhân có tương quan
đến thành công trên thị trường lao động như: cởi mở để trải nghiệm, tận tâm,
hướng ngoại, biết cách tán đồng và sự ổn định về cảm xúc.
Các kỹ năng kỹ thuật bao gồm sự khéo léo để sử dụng các công cụ, thiết bị
phức tạp cho đến các kiến thức cụ thể liên quan đến công việc và các kỹ năng
trong các lĩnh vực chuyên ngành, nghề cụ thể.




Qua đó, có thể hiểu kỹ năng nghề là tổ hợp của các kỹ năng nhận thức, kỹ
năng xã hội, hành vi và kỹ năng kỹ thuật. Do vậy, việc phát triển kỹ năng nghề
của người lao động không chỉ quan tâm tới kỹ năng kỹ thuật mà còn phải tiếp
tục hoàn thiện, phát triển các kỹ năng nhận thức, kỹ năng hành vi trong mối
quan hệ của kiến thức, kỹ năng và thái độ trong suốt hoạt động nghề nghiệp.
2. Thực trạng thiếu hụt lao động kỹ năng nghê ở Việt Nam
Những năm gần đây trung bình hàng năm có khoảng 1,2-1,3 triệu thanh niên
bước vào tuổi lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Dạy nghề số lượng người
qua đào tạo không ngừng tăng lên, nhưng chủ yếu là lao động được đào tạo ngắn
hạn, nên rất thiếu lao động có trình độ tay nghề giỏi, công nhân kỹ thuật bậc cao.
Với số người bước vào tuổi lao động hàng năm như trên là nguồn tuyển sinh rất
lớn cho các cơ sở đào tạo, nhưng trong thực tế số người theo học tại các cơ sở
dạy nghề rất ít, chất lượng đào tạo không tốt, nhiều ngành nghề không đáp ứng
yêu cầu xã hội đang gây ra sự lãng phí về sự đầu tư của người dân và xã hội, làm
mất cơ hội nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Theo báo cáo của các chuyên gia tại Hội thảo "Đổi mới công tác đào tạo nhân
lực cho các khu công nghiệp và khu chế xuất" diễn ra tại Thành phố Hồ Chí
Minh vừa qua do Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng Chương trình đổi mới đào tạo
nghề Việt Nam (GIZ) đồng tổ chức cho thấy, tỷ lệ lao động phổ thông không có
chuyên môn kỹ thuật trong toàn xã hội chiếm 81,6% tổng số lao động, số liệu
này khác nhiều so với báo cáo của cơ quan chức năng. Đây thực sự là vấn đề rất
đáng báo động về chất lượng nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Lực lượng lao động ở
nước ta vẫn trong tình trạng thiếu các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phát hiện
và giải quyết vấn đề; yếu kém về tin học, ngoại ngữ; thiếu hiểu biết về pháp luật;
đạo đức nghề nghiệp chưa cao; thiếu tinh thần và ý thức trách nhiệm trong công
việc, tự do, tùy tiện, chậm thích nghi với môi trường làm việc mới,… Năng lực

đổi mới và sáng tạo khoa học và công nghệ của lực lượng lao động có trình độ
cao còn nhiều yếu kém.


Nhiều năm qua, chúng ta đã cảnh báo về tình trạng sinh viên tốt nghiệp ở các
trường đại học, cao đẳng rất yếu cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp, dẫn đến tình trạng thất nghiệp nhiều, năng suất lao động thấp nhưng
chưa có biện pháp tháo gỡ. Cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo và cơ cấu vùng
miền trong các lĩnh vực kinh tế ngày càng mất cân đối nghiêm trọng. Hiện nay,
quan niệm về chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực trong các khu vực kinh tế ở
nước ta đã lạc hậu so với quan niệm của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam
vẫn chỉ coi trọng bằng cấp, coi lao động có bằng cấp cao là chất lượng cao. Tất
cả những yếu kém nêu trên đã nhiều lần được cảnh báo nhưng chưa có giải pháp
để khắc phục.
Có thể nói, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta ngày càng tụt hậu so với
nhiều nước trong khu vực, mất cân đối nghiêm trọng về trình độ đào tạo, cơ cấu
và giới; tình trạng thất nghiệp của lao động có bằng cấp cao ngày càng nhiều.
Dự báo trong những năm tới, nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
nhiều hợp tác song phương và đa phương sẽ được ký kết, sự di chuyển lao động
giữa các quốc gia sẽ diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh trong thị trường lao động
càng trở lên gay gắt, trong khi nhân lực của nước ta đang mất dần sức cạnh tranh
trên thị trường lao động trong khu vực và quốc tế, đây là thách thức lớn đối với
nước ta. Trước yêu cầu của thời kỳ hội nhập, nếu không có những giải pháp tích
cực thì những khó khăn của đất nước sẽ ngày càng nặng nề hơn, nhất là khi
nước ta phải thực hiện nhiều cam kết với các quốc gia, các tổ chức quốc tế. Quá
trình hội nhập quốc tế sẽ tạo sức ép và đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi nước ta phải
quyết liệt đổi mới căn bản nhiều mặt, mà trước hết là nhanh chóng đổi mới công
tác đào tạo nhân lực, nâng cao chất lượng của lao động theo tiêu chuẩn quốc tế,
nếu không muốn nước ta tụt hậu thêm nữa.
3. Những thách thức, nguyên nhân dẫn tới tình trạng yếu kém về kỹ năng

của người lao động.
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển đất nước, từng
bước đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và tăng cường sức
cạnh tranh, nên đòi hỏi chất lượng lao động phải cao với một cơ cấu hợp lý hơn.


Trong khi đó, công tác đào tạo nghề vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, nhu cầu của các
thành phần kinh tế để có thể sẵn sàng tham gia hội nhập. Hằng năm, mặc dù với
hơn 1 triệu lao động trẻ ra nhập thị trường lao động, nhưng công tác đào tạo vẫn
tồn tại nhiều yếu kém kéo dài, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực vẫn không
được cải thiện đáng kể, nhiều nghề xã hội có nhu cầu nhưng ít người học. Tỷ lệ
thất nghiệp của lao động qua đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục gia
tăng. Tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xã hội, nhất là đối
với các khu công nghiệp, khu chế xuất thấp.
Công tác phân luồng học sinh sau trung học nhiều năm qua vẫn yếu kém,
chưa khắc phục được tâm lý sính bằng cấp, coi nhẹ học nghề trong xã hội; các
trường đại học cao đẳng tuyển sinh và đào tạo ồ ạt. Tình trạng thiếu hụt giáo
viên dạy nghề có khả năng dạy cả lý thuyết và thực hành vẫn phổ biến tại hầu
hết các cơ sở dạy nghề, nhiều trường không tuyển sinh được nên số giáo viên
dôi dư khá nhiều. Thiết bị dạy nghề thiếu, lỗi thời, thậm trí không sử dụng được
trong đào tạo thực hành. Chất lượng đào tạo trong nhiều cơ sở dạy nghề thấp,
không đáp ứng yêu cầu các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển
dụng lao động phải đào tạo lại gây tốn kém và lãng phí cho xã hội và người dân.
Công tác dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế - xã
hội chưa tốt, chưa sát với nhu cầu nhân lực ở từng lĩnh vực, ngành, các khu vực
kinh tế và các địa phương; việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo
dục và đào tạo thiếu tính khoa học.
Hệ thống giáo dục chưa thống nhất, chia cắt đã kéo dài nhiều năm nhưng
chưa được giải quyết. Quy mô phát triển quá nóng, dẫn đến tình trạng 5 năm gần
đây không đủ nguồn tuyển vào các trường, nhiều cơ sở đào tạo nghề không có

người học.
Thiếu tính liên thông trong hệ thống giáo dục và đào tạo cũng như trong việc
công nhận trình độ; chưa có sự gắn kết hai chiều giữa các cơ sở đào tạo với các
khu công nghiệp, khu chế xuất; giữa các cơ sở đào tạo nghề với các trường phổ


thông; giữa giảng dạy và nghiên cứu, phục vụ sản xuất; giữa các cơ sở đào tạo
với nhau.
Đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất còn rất nhiều hạn chế, yếu kém không theo
kịp yêu cầu của thực tế. Số lượng các chương trình mới còn quá ít, nhất là những
chương trình đạt chuẩn khu vực và thế giới; nhiều trường vẫn dạy theo chương
trình cũ chưa cập nhật kiến thức, nên không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
Năng lực của các cơ quan quản lý còn yếu kém, thiếu cơ chế tương tác giữa
các cơ quan có chức năng kiểm soát, đánh giá, thẩm định chất lượng với các cơ
sở đào tạo. Công tác và cơ chế quản lý còn nhiều vướng mắc, thiếu đồng bộ,
chia cắt. Chưa kiên quyết đóng cửa các cơ sở đào tạo yếu kém và vi phạm
nghiêm trọng các quy định trong đào tạo.
Chưa có cơ chế và cơ quan chuyên trách kiểm định chất đào tạo, cấp giấy
phép hành nghề cho lao động qua đào tạo, làm cho thị trường lao động hoạt
động thiếu lành mạnh và khó kiểm soát chất lượng đào tạo. Chưa có khung trình
độ quốc gia theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế để yêu cầu các cơ sở đào tạo
phải từng bước thực hiện.
Chính sách tài chính đối với công tác đào tạo lạc hậu, kém hiệu quả, lãng phí,
không tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy các cơ sở đào tạo
phải đổi mới toàn diện, mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của xã hội.
Vai trò và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của người lao động ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất còn hạn
chế, yếu kém, chưa thực sự bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của công nhân, dẫn
đến đời sống vật chất và tinh thần, việc làm của công nhân gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp nảy sinh những vấn đề

phức tạp.
Tuy có một số mô hình đào tạo nghề thành công, đề xuất giải pháp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực phục vụ khu công nghiệp, khu chế xuất như mô hình
đào tạo “kép” (vừa đào tạo tại các cơ sở đào tạo, vừa đào tạo gắn với doanh
nghiệp) được các chuyên gia của Cộng hòa Liên bang Đức đã giới thiệu đã được
áp dụng ở một số cơ sở đào tạo và doanh nghiệp nước ta nhưng chưa nhiều và


cũng gặp nhiều khó khăn, bất cập từ chính sách, công tác tổ chức vận hành đến
đội ngũ cán bộ giảng dạy.
Tất cả những yếu kém, bất cập nêu trên dẫn đến tỷ lệ học sinh được đào tạo
nghề vẫn còn thấp, chất lượng đào tạo nghề không bảo đảm, tỷ lệ thất nghiệp
cao. Chất lượng lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn còn thấp
và bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém.
4. Sự cần thiết của việc nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động.
Trong khi cạnh tranh là yếu tố cần thiết cho tăng trưởng và phát triển, đặc biệt
trong một thế giưới toàn cầu hóa, việc thiếu hụt lao động có kỹ năng cao là điều
được dự báo trước. Do đó nếu sử dụng lao động giá rẻ không có trình độ cao sẽ
khó cải thiện năng suất lao động, cản trở sự phát triển. Đây là một thách thức
của nước ta trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
muốn hội nhập với các nước phát triển khác thì phải có giải pháp vượt qua.
Tác động của toàn cầu hóa là cơ hội để Việt Nam thu hút đầu tư và mở rộng
thị trường. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đưa đến sự cạnh tranh trong và ngoài nước
ngày càng gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, đồng thời
cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao cũng diễn ra mạnh mẽ hơn trên thế giới,
khu vực và các quốc gia. Việc mở ra khả năng di chuyển lao động giữa các nước
đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng nghề cao, có năng lực làm việc trong
môi trường quốc tế với những tiêu chuẩn, tiêu chí do thị trường lao động xác
định. Đó chính là động lực thúc đẩy mạnh mẽ nguồn nhân lực Việt Nam phát
triển nhanh về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực cũng từng bước

chuyển đổi cho phù hợp với yêu cầu phân công lao động quốc tế.
Xu hướng hiện nay ngày càng cho thấy sự chuyển đổi cơ cấu của thị trường
lao động Việt Nam từ những việc làm trong nghành nông nghiệp có năng suất
lao động thấp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị cao được đầu tư
tài chính nhiều hơn. Người lao động có trình độ và kỹ năng nghề cao hơn sẽ là
chất xúc tác cho quá trình chuyển đổi này cũng như sự tăng trưởng thành công
của Việt Nam.


Hiện trạng sử dụng lao động có tay nghề thấp và tạo ra ít giá trị gia tăng ở
nước ta hiện nay vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn. Trong ngắn hạn, các nghề sử
dụng lao động tay nghề và chi phí dịch vụ thấp giữu vai trò quan trọng, đáp ứng
các nhu cầu cơ bản tạo cơ hội việc làm cho lao động trình độ thấp. Tuy nhiên,
điều này sẽ không tiếp tục kéo dài, với sự tác động mạnh mẽ của yêu cầu phát
triển kinh tế và năng suất lao động, nhu cầu về lao động có kỹ năng sẽ tăng lên.
Trong tương lai gần, điều này sẽ thành vấn đề nghiêm trọng khi người sử dụng
lao động không thể tuyển dụng được lao động có kỹ năng cần thiết, ảnh hưởng
và kìm hãm sự phát triển kinh tế, giảm khả năng cạnh tranh của quốc gia.
5. Những quy định của pháp luật về việc nâng cao kỹ năng nghề của người
lao động.
Tại điều 60 của Bộ Luật Lao động 2012 quy định:
Điều 60. Trách nhiệm của người sử dụng lao động về đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ kỹ năng nghề
1. Người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch hằng năm và dành kinh phí cho
việc đào tạo và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho
người lao động đang làm việc cho mình; đào tạo cho người lao động trước khi
chuyển làm nghề khác cho mình.
2. Người sử dụng lao động phải báo cáo kết quả đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ, kỹ năng nghề cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh trong
báo cáo hằng năm về lao động.

Theo đó, doanh nghiệp có nghĩa vụ bồi dưỡng nghề, bổ túc nghề, đào tạo
nâng cao kĩ năng nghề cho những người lao động mà doanh nghiệp đang sử
dụng. Việc bồi dưỡng nghề, nâng cao tay nghề cho người lao động cũng được
tiến hành theo các cách thức như đào tạo nghề cho người lao động, nhằm tạo
điều kiện cho lao động của doanh nghiệp vừa làm, vừa học để nâng cao trình độ
kĩ năng nghề. Đây là việc làm rất cần thiết của các doanh nghiệp. Bởi những đòi
hỏi mới về kiến thức, kĩ năng của người lao động luôn là yêu cầu có tính cấp
thiết nhằm giúp doanh nghiệp đạt được mục đích, hiệu quả, năng suất lao động
cao hơn. Hơn nữa, dưới sự tác động của cạnh tranh cùng với việc đẩy mạnh


công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, yêu cầu hội nhập nhanh chóng với nền
kinh tế khu vực và thế giới, những kiến thức thu được của người lao động sẽ
nhanh chóng trở nên lạc hậu. Vì thế, để kiến thức, trình độ của người lao động
luôn được cập nhật và nâng cao theo hướng chuyên môn hoá cao, hoạt động này
nhất thiết phải được tiến hành thường xuyên trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng cụ
thể của doanh nghiệp. Điều này không chỉ có ý nghĩa giúp người lao động thực
hiện tốt hơn những công việc được giao, từ đó nâng cao thu nhập mà còn có ý
nghĩa đảm bảo cho việc gắn bó lâu dài và tận tâm hơn của người lao động đối
với doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy, việc bồi dưỡng nâng cao kĩ năng nghề
cho người lao động không chỉ xuất phát từ lợi ích của người lao động mà chính
là xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp.
Ngoài ra quy định trong Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng vừa được Chính phủ ban hành. Theo quy
định tại Điều 10 của nghị định này, nếu vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ kỹ năng nghề sẽ bị phạt như sau:
Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với người
sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây: Không xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch hằng năm về đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng

nghề cho người lao động đang làm việc cho mình; không báo cáo kết quả đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho cơ quan quản lý nhà nước
về lao động cấp tỉnh trong báo cáo hằng năm về lao động.
Phạt tiền người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Không đào tạo
nghề cho người lao động trước khi chuyển người lao động sang làm nghề, công
việc khác; không ký kết hợp đồng đào tạo nghề đối với người học nghề, tập
nghề; không trả lương cho người học nghề trong thời gian họ học nghề, tập nghề
mà trực tiếp hoặc tham gia lao động làm ra sản phẩm hợp quy cách; không tiến
hành ký kết hợp đồng lao động đối với người học nghề, người tập nghề khi hết
thời hạn học nghề, tập nghề, theo một trong các mức sau đây: Từ 500.000 đồng
đến 2 triệu đồng với vi phạm từ 1 người đến 10 người lao động; từ 2 triệu đồng


đến 5 triệu đồng với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động; từ 5 triệu đồng
đến 10 triệu đồng với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động; Từ 10 triệu
đồng đến 15 triệu đồng với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động; từ 15
triệu đồng đến 20 triệu đồng với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.
Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng đối với người sử dụng lao động
có một trong các hành vi sau đây: Lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập nghề để
trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người tập
nghề vào hoạt động trái pháp luật; tuyển người dưới 14 tuổi vào học nghề, tập
nghề. Ngoài mức phạt trên, người vi phạm còn bị áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả: Buộc trả lương cho người học nghề, người tập nghề khi không trả
lương cho người học nghề trong thời gian học nghề, tập nghề mà trực tiếp hoặc
tham gia lao động làm ra sản phẩm hợp quy cách đối với hành vi quy. Buộc phải
nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ việc thực hiện hành vi lợi dụng danh
nghĩa dạy nghề, tập nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc
người học nghề, người tập nghề vào hoạt động trái pháp luật…
Tại Điều 3 Nghị định 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật việc làm về bảo hiểm thất nghiệp có quy định về điều kiện người sử

dụng lao động được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động quy định tại Khoản 1 Điều 47
Luật Việc, theo đó:
Điều 3. Điều kiện được hỗ trợ
Người sử dụng lao động được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động quy định tại
Khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm 2013 khi có đủ các điều kiện sau:
1. Đóng đủ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Việc
làm liên tục từ đủ 12 tháng trở lên tính đến tháng liền trước của tháng đề nghị hỗ
trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc
làm cho người lao động hoặc đến tháng của ngày đề nghị hỗ trợ kinh phí để đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người


lao động nếu người sử dụng lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp của tháng
đó.
2. Gặp khó khăn do suy giảm kinh tế hoặc vì lý do bất khả kháng buộc phải
thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh và dẫn đến nguy cơ phải
cắt giảm số lao động hiện có từ 30% hoặc từ 50 lao động trở lên đối với người
sử dụng lao động có sử dụng từ 300 lao động trở xuống và từ 100 lao động trở
lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng trên 300 lao động, không kể lao
động giao kết hợp đồng lao động với thời hạn dưới 03 tháng.
Những trường hợp được coi là bất khả kháng nêu trên, bao gồm: Hỏa hoạn, lũ
lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh làm thiệt hại một phần hoặc toàn bộ
cơ sở vật chất, thiết bị, máy móc, nhà xưởng có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi người sử dụng lao
động bị thiệt hại.
3. Không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề cho người lao động được xác định thông qua báo cáo sản xuất, kinh
doanh của năm trước thời điểm đề nghị hỗ trợ mà bị lỗ có xác nhận của cơ quan

thuế.
4. Có phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy
trì việc làm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Ta có thể thấy ngoài những ưu tiên đối với người lao động trong việc nâng
cao kỹ năng nghề thì nhà nước ta cũng có những ưu đãi đối với người sử dụng
lao động nhằm khuyến khích họ đầu tư nhiều thời gian, tiền bạc để giúp người
lao động nâng cao kỹ năng nghề hơn nữa.
Qua những quy định của pháp luật nhằm nâng cao kỹ năng nghề của người
lao động, chúng ta nhận thấy được sự quan tâm của nhà nước ta đối với người
lao động, luôn tìm những giải pháp để người lao động có được kỹ năng nghề cao
hơn, có thể làm việc được nhiều môi trường khác nhau, trong nước hay quốc tế,
từ đó tạo ra nguồn thu nhập lớn cho người lao động cũng như góp phần tăng
trưởng nền kinh tế của đất nước.
6. Giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng nghề của người lao động.


Một là, khẩn chương tập trung rà soát, điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội phù hợp với chiến lược phát triển quốc gia; xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực theo hướng giảm dần lao động không
có bằng chuyên môn kỹ thuật tham gia hoạt động trong nền kinh tế, từ đó điều
chỉnh chiến lược đào tạo nghề, cơ cấu lại hệ thống giáo dục nghề nghiệp, chú
trọng đào tạo nghề dài hạn có sự phân tầng chất lượng, ưu tiên đào tạo những
nghề mũi nhọn đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học. Trên
cơ sở đó, các địa phương và các ngành đề xuất nhu cầu và yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực. Đây là giải pháp mang tính đột phá, vì nó có tác động mạnh mẽ
đến toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo.
Hai là, nâng cao nhận thức chung của các cấp, các ngành, toàn xã hội và huy
động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào hoạt động dạy nghề. Đây là một
giải pháp quan trọng và bền vững để có thể thực hiện có hiệu quả hoạt động

nâng cao kỹ năng nghề nhằm nâng cao năng suất lao động.
Ba là, thực hiện đổi mới, phát triển dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng dạy
nghề để hình thành đội ngũ lao động có tay nghề cao; hoàn thiện nội dung,
chương trình dạy nghề quốc gia, khu vực và quốc tế, gắn rèn luyện kỹ năng thực
hành với rèn luyện tác phong làm việc công nghiệp, tính năng động và sức sáng
tạo của người lao động, đổi mới đồng bộ các quy định liên quan, từ đó tạo ra đội
ngũ lao động cho các nghành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm,
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập quốc tế, phục vụ
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Bốn là, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020” theo quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng
chính phủ, bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông
thôn để góp phần thay đổi cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động, nâng cao
thu nhập, giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội, tiến tới phổ cập nghề
cho người lao động.


Năm là, quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo, dạy nghề trên phạm vi toàn
quốc theo các vùng kinh tế trọng điểm và các địa phương, đặc biệt là quy hoach
các nghề trọng điểm nhằm tạo điều kiện để công tác đào tạo, dạy nghề phát triển
tập trung, định hướng, đảm bảo cung ứng đủ công nhân kỹ thuật lành nghề tại
chỗ cho các doanh nghiệp, nhất là các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm,
khắc phục tình trạng mất cân đối cung – cầu lao động kỹ thuật hiện nay, giảm
sức ép di chuyển lao động giữa các vùng miền. Theo dự thảo chiến lược phát
triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020, dự kiến đến năm 2020 dạy nghề đáp ứng
được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và
trình độ đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ các nước phát
triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động lành
nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; phổ cập nghề cho người
lao động, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập,

giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội . Mỗi trường có khả năng đào tạo
ít nhất một nghề đạt chuẩn quốc gia, một số trường có khả năng đào tạo một số
nghề đạt trình độ khu vực, quốc tế. Tất cả các nghề trọng điểm quốc gia, khu
vực, quốc tế; các trường chất lượng cao, trung tâm dạy nghề kiểu mẫu được
kiểm định chất lượng.
Sáu là, thiết lập hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho
người lao động nhằm công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động có kỹ
năng nghề đã tích lũy trong quá trình học tập và sản xuất, kinh doanh mà chưa
được công nhận hoặc sử dụng, tăng cơ hội việc làm cho người lao động có kỹ
năng nghề cũng như thúc đẩy và tạo thuận lợi cho cá nhân trở lại hệ thống giáo
dục, đào tạo chính quy. Việc hình thành hệ thống đánh giá kỹ năng sẽ tạo thuận
lợi cho việc lưu chuyển lực lượng lao động; hỗ trợ các doanh nghiệp và cơ sở
giáo dục, đòa tạo trong việc lập kế hoạch, tạo thuận lợi và hiệu quả cho việc xây
dựng chương trình, viết giáo trình và tài liệu học tập, đồng thời góp phần tăng
cường khả năng đánh giá.
Bảy là, xây dựng hệ thống các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
tham gia tích cực vào hoạt động dạy nghề, thiết lập một mối liên hệ chặt chẽ,


phù hợp giữa các chương trình đào tạo, dạy nghề với các yêu cầu về kỹ năng mà
thị trường lao động đang cần, tạo cho người lao động sau khi được đào tạo trở
thành những người sẵn sàng làm việc, tức là sẵn dàng đáp ứng với yêu cầu cầu
của các doanh nghiệp, đồng thời cần cải cách hệ thống dạy nghề thoe hướng tiêu
chuẩn hóa, hiện đạ hóa và xã hội hóa. đào tạo nguồn lao động phải gắn với nhu
cầu sản xuất, kinh doanh và thị trường lao động. Ngoài việc khuyến khích thì
cũng cần có các chế tài bắt buộc đối với doanh nghiệp trong việc nâng cao kỹ
năng nghề cho người lao động, theo đó cần có chế tài bắt buộc các doanh nghiệp
phải phối hợp với các cơ sở đào tạo, trước hết các doanh nghiệp phải tham gia
xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng và tiêu chuẩn năng lực nghề, tích cực tham gia vào
quá trình đào tạo theo các cấp độ khác nhau tùy theo năng lực của doanh nghiệp.

Mở rộng hình thức đào tạo nghề trong các doanh nghiệp. Thí điểm đào tạo theo
mô hình “kép”, từ đó giảm dần mua sắm thiết bị cho các cơ sở đào tạo, giao
trách nhiệm và kinh phí đào tạo thực hành cho các doanh nghiệp. Tổ chức tốt
công tác thông tin hai chiều giữa cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp, giữa cơ
sở đào tạo với xã hội về yêu cầu và nhu cầu nhân lực, phát triển mạnh sàn giao
dịch việc làm có sự kết nối giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp.
Tám là, trọng nhân tài và xây dựng xã hội học tập, theo đó cần coi trọng việc
phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải gắn với phát triển xã hội học tập. Cụ
thể, tiến hành phát hiện, bồi dưỡng, tuyển dụng, trọng dụng nhân lực chất lượng
cao, nhân tài, phải vừa khai thác được chất xám của họ trong nghiên cứu, chế
tạo, ứng dụng thành quả nghiên cứu, vừa khuyến khích họ tranh thủ học tập,
nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng; từ đó, xây dựng đội ngũ cán bộ đầu
ngành, chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực, tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
phương châm học tập suốt đời phải làm cho mỗi lao động thấu hiểu, tự giác, chủ
động học tập; tạo điều kiện cho người lao động học tập, bồi dưỡng thường
xuyên. Đồng thời, thông qua các hình thức đào tạo không chính quy, tạo điều
kiện để người lao động giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến


thức và kỹ thuật công nghệ mới ở các trung tâm đào tạo trong nước và trên thế
giới.
Chín là, tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị đào tạo nghề. Xây dựng và ban
hành tiêu chuẩn cơ sở vật chất, danh mục thiết bị đào tạo nghề đối với các nghề
trọng điểm quốc gia; đối với các nghề cấp độ khu vực và quốc tế, tiếp nhận và
áp dụng tiêu chuẩn cơ sở vật chất, danh mục thiết bị đào tạo nghề của các nước
tiên tiến trong khu vực ASEAN và quốc tế.
Mười là, tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động dạy
nghề, sử dụng chương trình dạy nghề, tiêu chuẩn kỹ năng nghề của các nước
tiên tiến trên thế giới, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo, các cơ sở sử dụng lao

động và nhân lực trình độ cao tham gia giao lưu, học hỏi về nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. đưa giáo viên dạy nghề đi đào tạo ở nước ngoài, khuyến khích
hợp tác, đầu tư của nước ngoài vào dạy nghề ở Việt Nam, hài hòa các tiêu chuẩn
kỹ năng nghề của các nước trong khu vực để tiến tới xây dựng cơ chế công nhận
lẫn nhau về trình độ kỹ năng nghề của người lao động trong ASEAN.
Ngoài ra, theo em tìm hiểu thì Việt nam có tổ chức đưa các người lao động có
kỹ năng cao tham gia cuộc thi “Kỳ thi tay nghề thế giới” và sau 5 lần tham dự
Việt nam đã đạt được huy chương đồng vào tháng 8 năm 2015 được tổ chức tại
Brazil, kết quả này đánh giá một thứ hạng về việc phát triển kỹ năng nghề cho
người học nghề Việt Nam trên bản đồ thế giới, nhất là khi chúng ta phải cạnh
tranh với các nước mạnh ở khu vực Châu Âu và Châu Á. Điều đó cũng thể hiện
sự hội nhập của chúng ta với môi trường kỹ năng nghề đỉnh cao. Qua đó, chúng
ta cần phải khuyến khích, tổ chức đưa người lao động tham gia các cuộc thi
nhiều hơn nữa để có dịp học hỏi, nâng cao kỹ năng nghề, nhằm tăng cường khả
năng hội nhập trong khu vực và các nước phát triển. Đây là động lực để chúng ta
nhân rộng điển hình tiên tiến, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát
triển dạy nghề ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; đặc biệt là chiến lược
phát triển chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa
và hiện đại hóa.


Từ đó, ta có thấy kỹ năng có thể được hình thành qua đào tạo hoặc trong quá
trình lao động sản xuất. Vì thế, ta phải hình thành một cơ quan phụ trách để
đánh giá kỹ năng nghề, nhằm tạo điều kiện cho người lao động trên thị trường
lao động cũng như người đã học trong các cơ sở đào tạo được tham gia đánh giá
kỹ năng nghề. Và khi được đánh giá, nếu người lao động đạt được ngưỡng nào
đó và được công nhận thì sẽ được doanh nghiệp hoặc thị trường lao động sử
dụng tương ứng với đánh giá kỹ năng nghề của cơ quan có thẩm quyền.

III. Kết luận

Như vậy, trong nhiều yếu tố thì đào tạo nghề có ảnh hưởng lớn đến năng lực
cạnh tranh quốc gia. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, người lao động phải có
kỹ năng nghề giỏi, điều đó sẽ giúp họ tăng năng suất lao động, từ đó tăng thu
nhập. Nhưng để có kỹ năng nghề giỏi người lao động không chỉ qua đào tạo
theo nghĩa thông thường mà phải đào tạo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thị
trường lao động, nhất là những đòi hỏi của sự phát triển khoa học công nghệ.
Năng lực cạnh tranh quốc gia thực sự trở thành thách thức không chỉ ở tầm vĩ
mô mà còn là thách thức trực tiếp đối với đào tạo nghề. Do vậy, quan tâm phát
triển đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo sẽ là đột phá quan trọng để nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Lao động 2012
2. Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng.
3. Nghị định 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
việc làm về bảo hiểm thất nghiệp
4. Luật Việc làm 2013
5. Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020
6. kiemtailieu.com; nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động thúc đẩy việc
làm có năng suất ở Việt Nam
7. www.tuyengiao.vn; thực trạng và một số giải pháp nâng cao nguồn nhân
lực hiện nay.
8. dantri.com; trao huân chương lao động hạng ba cho thí sinh đoạt huy
chương đồng trong kỳ thi tay nghề thế giới
Đề 7: Những giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động
trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam



MỤC LỤC
I. Mở đầu...........................................................................................................1
II. Nội dung.......................................................................................................1
1. Khái quát về kỹ năng nghề............................................................................1
2. Thực trạng thiếu hụt lao động kỹ năng nghê ở Việt Nam.............................2
3. Những thách thức, nguyên nhân dẫn tới tình trạng yếu kém về kỹ năng của
người lao động...................................................................................................3
4. Sự cần thiết của việc nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động................6
5. Những quy định của pháp luật về việc nâng cao kỹ năng nghề của người
lao động.............................................................................................................7
6. Giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng nghề của người lao động......................10
III. Kết luận.....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................16



×